- Ba bài pháp về Thiền
Quán
- Thiền
sư Mahasi Sayadaw
Dưới đây là ba bài
pháp ngắn do Ngài Thiền sư Mahasi Sayadaw giảng cho các cư sĩ Phật tử tại
vương quốc Nepal trong dịp Ngài sang dự lễ đặt viên đá đầu tiên tại
công trường Lâm Tì Ni vào tháng 11 năm 1980.
Các bài nầy do Bình Anson trích dịch
từ quyển: "Mahasi Abroad -- Lectures by Venerable Mahasi Sayadaw, 1980",
Second Edition, Buddhasasana Association, Myanmar, 1993.
- Giáo pháp của
Đức Phật
-oOo-
"Đức Phật thị hiện trên đời
vì hạnh phúc của chư thiên và nhân loại" (Sutta Nipata -- Kinh Tập)
Có nhiều chu kỳ thế giới mà trong đó Đức Phật chỉ
xuất hiện trong một vài tăng-kỳ (kappa). Trong những tăng kỳ mà Đức Phật
xuất hiện, có khi có hai, ba hay bốn Đức Phật xuất hiện trong cùng một
tăng kỳ, mà cũng có tăng kỳ chỉ có một Đức Phật. Trong tăng-kỳ hiện
tại, chỉ có tối đa là năm Đức Phật xuất hiện. Trong đó, Đức Phật
Di Lặc chỉ xuất hiện sau nhiều triệu năm khi Giáo Pháp hiện nay của Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni biến mất. Các lời dạy của chư Phật đã xuất hiện
từ trước trên thế gian này cũng biến mất sau hằng trăm ngàn năm hoặc
hằng vạn năm, sau khi chư Phật nhập Bát Niết-bàn. Thời gian mà Giáo
Pháp lưu hành trên thế gian thay đổi theo từng thời kỳ, và có những thời
kỳ đen tối không có một Giáo Pháp nào cả. Theo các Chú giải, Giáo Pháp
hiện nay của Đức Phật Thích Ca chỉ kéo dài khoảng 5000 năm trước khi
biến mất khỏi thế gian. Bây giờ là 2524 năm (1980 CN) sau khi Đức Phật
nhập Niết Bàn. Số người trên thế gian này vốn thông hiểu, chấp nhận
và tôn kính Giáo Pháp chân chính ngày càng giảm thiểu. Và chỉ còn khoảng
2500 năm nữa là Giáo Pháp sẽ biến mất.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện
trên địa cầu 25 thế kỷ trước. Trước Ngài, qua nhiều triệu năm, không
ai có cơ hội để nghe lời dạy chân chính của Phật, để thông hiểu và
hành trì. Con người trong các thời đại đen tối đó là những chúng sinh
không có phước duyên; và vì không được nghe và hành theo Chân Pháp, có rất
ít người được tái sinh vào các cõi an nhàn và cao thượng.
Nghe Pháp và
hành theo Pháp
Với sự thị hiện của Đức Phật,
Chánh Pháp được giảng rộng. Do nghe lời dạy nầy, nhiều người trong thời
kỳ Đức Phật còn tại thế đã hành trì theo, làm các nghiệp lành như Bố
thí (Dana) và giữ gìn Giới hạnh (Sila), và nhờ đó, họ được tái sinh
vào các cõi trời. Rất nhiều người khác đã giác ngộ, đắc quả A-la-hán,
và chứng Niết-bàn. Có lẽ là trong thời đó, đa số những người đã
được tái sinh vào các cảnh an nhàn hoặc chứng Niết-bàn là những dân cư
của xứ Nepal và Ấn Độ, bởi vì Bồ-tát Thái tử Sĩ-đạt-ta đã sinh ra
trong xứ Nepal, hành trì Chánh Pháp và thành đạo tại xứ Ấn Độ. Ngài
đã hoằng dương Chánh Pháp trong suốt 45 năm tại các vùng đó. Dân cư tại
hai quốc gia nầy đã có dịp được nghe và hành trì theo lời dạy của
Ngài. Vì thế, trong thời kỳ đó, có rất nhiều người hoặc là được tái
sinh vào các cõi trời an nhàn, hoặc đắc các quả Thánh, hoặc chứng đạt
Niết-bàn, hoàn toàn giải thoát khỏi các hoạn khổ.
Bây giờ
chúng ta cần phải hành trì theo chánh Pháp
Mặc dù giờ đây Đức Phật không
còn tại thế, chúng ta vẫn là những người may mắn vì chúng ta vẫn có
đủ điều kiện để được nghe và học các lời giáo huấn chân chính của
Ngài. Vì thế, chúng ta phải thành kính hành trì theo Giáo Pháp chân chính nầy.
Các lời giáo huấn chân chính đó là gì?
Chánh Pháp của
Đức Phật
Chánh Pháp của Đức Phật có thể
được tóm tắt qua câu kệ sau đây:
"Không làm các điều ác,
Gắng làm các điều lành,
Luôn giữ tâm trong sạch,
Đó là lời dạy của chư Phật."
(Kinh Pháp Cú, và Trường Bộ)
Thân nghiệp
(Kaya-kamma)
Các hành động bất thiện là (1)
sát hại chúng sinh, (2) lấy của không cho, hay trộm cắp, và (3) tà dâm. Ba
việc này là các hành động bất thiện cần phải luôn tránh.
Khẫu nghiệp
(Vaci-kamma)
Kế đó, bốn ác nghiệp về lời
nói là (1) nói dối để làm hại người khác, (2) nói đâm thọc để tạo
mối bất hòa, (3) nói lời thô lỗ, hung dữ, và (4) nói về những sự hư
ngụy như là chân lý -- liên quan đến sự truyền giảng các tà thuyết Bốn
loại ngôn từ nầy là các khẫu nghiệp bất thiện, cần phải tránh.
Tà mạng
(Miccha-jiva)
Cần phải tránh các hành động và
lời nói hư ngụy để tạo tư lợi bất chính, vì đó là cách sinh sống
không thiện lành. Lúc nào cũng phải tuân giữ năm điều giới hạnh để
hành trì theo lời Phật dạy là tránh làm các điều ác, và có một đời
sống thanh cao, trong sạch.
Thiện nghiệp
(Kusala kamma)
Một cách ngắn gọn, thiện nghiệp
bao gồm ba yếu tố là Bố thí (Dana), Giới hạnh (Sila), và Tu tâm (Bhavana).
Trong các yếu tố nầy, người Phật tử lúc nào cũng phải có một lòng rộng
lượng, chia xẻ. Người Phật tử lúc nào cũng có lòng bố thí, sẵn sàng
chia xẻ cho người khác những gì mà họ có được, và vì thế, họ được
người khác ngợi khen, thương kính. Người nhận của bố thí sẽ có lòng
kính mến người làm chuyện bố thí, và họ sẵn sàng hợp tác, giúp đỡ
khi hữu sự. Người có lòng quảng đại sẽ tạo nhiều phước báu, và sẽ
được tái sinh trong các cõi thiện lành, thanh cao.
Giới thiện
(Sila kusala)
Giới (Sila) có nghĩa là xin nương tựa
nơi Tam Bảo Phật-Pháp-Tăng và tuân giữ các điều đạo đức như Ngũ Giới
hoặc Bát Giới. Để trở thành Phật tử, chúng ta phát nguyện có lòng
thành tín và quy y Tam Bảo và tuân giữ năm giới hoặc tám giới -- thường
gọi là "Tam Quy, Ngũ Giới" cho các Phật tử tại gia. Tuân hành
theo như thế, chúng ta sẽ có được một sự bảo đảm là trong các kiếp
sau, chúng ta sẽ không rơi vào các khổ cảnh như các cõi địa ngục, cầm
thú, ngạ quỷ hoặc a-tu-la. Thay vào đó, Phật tử chân chính sẽ có nhiều
phước duyên để tái sinh làm người hoặc trong các cõi trời an nhàn để
có nhiều dịp tiến tu.
Tu thiện
(Bhavana kusala)
Đây là cách tạo phước cao thượng
hơn, qua sự tu lọc tâm trí. Trong Đạo Phật, tu lọc tâm được thực hiện
qua pháp hành thiền: hành thiền An chỉ (samatha bhavana) và hành thiền Minh
quán (vipassana bhavana). Có một cách nữa thường được gọi là Thánh Đạo
Tu Tập (ariya magga bhavana), tu tâm để đi vào con đường Thánh siêu thế.
Thiền An chỉ gồm có 40 đề mục: mười đề mục biến xứ (kasina), mười
đề mục bất tịnh (asubha), mười đề mục quán tưởng (anussati), và mười
đề mục linh tinh.
Niệm Phật
(Buddhanussati)
Trong các đề mục hành thiền, Niệm
Phật là phương cách quán tưởng và tôn kính các đức tính cao quí của
Đức Phật, bậc ng Cúng -- nghĩa là xứng đáng để được sự tôn kính
và cúng dường của chư thiên và nhân loại. Hành trì qua phương cách nầy
là như thế nào? Đó là suy niệm và quán tưởng rằng Đức Phật là một
đấng cao quí có đầy đủ các phẩm chất thanh cao của Giới hạnh, Thiền
định, và Trí tuệ. Khi ta thành tâm tôn kính Ngài, ta sẽ có nhiều phước
duyên để được tái sinh vào nhàn cảnh. Ta quán suy về danh hiệu ng Cúng
của một bậc giác ngộ. Một đức tính của Ngài là Ngài đã tự mình thực
chứng được Bốn Sự Thật Cao Diệu (Tứ Diệu Đế), và đó là một đức
tính mà chỉ có Phật mới có được, và ta quí kính Ngài, bậc Chánh Đẳng
Giác (Samma Sambuddha).
Chính vì Ngài có một trí tuệ
siêu việt và có lòng Từ mẫn vô lượng để giảng dạy cho chúng sinh, chỉ
cho họ con đường thoát khỏi cõi Ta-bà hoạn khổ, Ngài có đầy đủ phẩm
hạnh của một vị Phật, bậc Thế Tôn. Điều nầy cần phải được quán
tưởng.
Hành trì qua niệm ân đức Phật
(Buddhanussati bhavana) cũng được thực hiện bằng cách quán tưởng các phẩm
hạnh khác của Ngài. Đối với người con Phật, mỗi khi họ quy ngưỡng và
quí kính Ngài, họ thực hành pháp Niệm Phật.
Niệm Pháp
(Dhammanussati)
Tiếp theo, các lời dạy của Đức
Phật -- Giáo Pháp -- là kết quả của sự tu tập, hành trì và kinh nghiệm
của chính Ngài, và Ngài đã truyền lại một cách đúng đắn, có lợi
ích, cho các đệ tử. Nếu những lời dạy đó được hành trì đúng đắn
và quí kính, chúng sẽ giúp ta phát triển các trí tuệ minh sát kỳ diệu.
Mỗi khi ta quán tưởng đến các ích lợi kỳ diệu về Giáo Pháp của Đức
Phật và đặt trọn niềm tin của ta vào đó, ta dưỡng nuôi các nghiệp
thiện lành trong dạng Niệm Pháp.
Niệm Tăng
(Sanghanussati)
Ta quán tưởng đến phẩm hạnh cao
quí đang được hành trì bởi các vị đệ tử tu sĩ của Ngài, của các vị
đệ tử đã đạt đạo quả Thánh, là phương cách quán niệm ân đức
Tăng Bảo.
Quán lòng Từ
(Metta Bhavana)
Khi ngay chính ta có ước nguyện muốn
thoát cảnh hoạn khổ, người khác cũng có ước nguyện tương tự như thế.
Vì vậy, Từ bi quán là thành tâm nguyện cầu hạnh phúc và an lành cho từng
chúng sinh và tất cả mọi loài trong sáu cõi luân hồi.
Thực hành đề mục Niệm Phật và
Quán Từ Bi càng nhiều càng tốt, thường xuyên mỗi ngày, là hành trì theo
lời dạy của Đức Phật dành cho hàng cư sĩ tại gia, để tạo nhiều
phước lành cao đẹp.
Minh quán thiện
(Vipassana kusala)
Đây là phương cách tạo phước lành
qua con đường quán niệm liên tục về đặc tính Vô thường, Bất toại
nguyện, và Vô ngã của đời sống, qua các hiện tượng tâm-vật-lý của
mỗi người chúng ta, ngay trong chính mình và ở người khác. Đây là đường
lối hành thiền theo cách tu tập của Đức Phật để thực chứng trực tiếp
tính chất phù du, tạm bợ (sinh rồi diệt) của hệ thống thân-tâm và sự
chấp thủ vào đó -- thường được gọi là Ngũ uẩn thủ (upadanakkhanda).
Khi phước báu nầy được chín muồi, thiện duyên về huân tu Thánh đạo
(ariyam maggabhavana kusala) sẽ trổ ra và giúp ta thực chứng Niết-bàn.
Thanh lọc
Tâm
Về lời dạy "Luôn giữ
tâm trong sạch" có nghĩa là sau khi thực chứng Niết-bàn qua bốn
Thánh Đạo (Ariya Maggas), Đức Phật tiếp tục phát triển tâm qua bốn
Thánh Quả (Ariya Phalas). Đây là tiến trình thanh lọc tâm qua sự khởi hiện
các chập tâm Thánh Quả (Ariya Phala Cittas).
Tu tập để
đưa đến hạnh phúc
Đến đây, sư đã trình bày tóm lược
về phương cách thành kính hành trì lời Phật dạy. Hành trì như thế, ta
sẽ có được hạnh phúc mà ta hằng tìm cầu. Đó là cách để đưa đến
các cõi an nhàn của loài người và chư thiên với các hạnh phúc rộng lớn;
và thanh cao tốt đẹp hơn nữa, sẽ đưa đến chứng đạt Niết-bàn, chấm
dứt hoạn khổ, với hạnh phúc vĩnh hằng.
Đó cũng là cách mà chúng ta giúp
duy trì và bảo tồn Giáo Pháp của Đức Phật, tạo niềm vui hạnh phúc
cho người khác tương tự như của chính chúng ta.
Cầu mong quí vị hành trì tốt đẹp
như đã trình bày, đạt được niềm hạnh phúc mà quí vị thường mong ước,
và nhanh chóng chứng đạt được hạnh phúc tối hậu của Niết-bàn.
Thực tập
thiền quán trong ba phút
Bây giờ, sư sẽ hướng dẫn quí vị
để thử thực hành Thiền Quán Vipassana trong vài ba phút.
Thiền Quán là pháp hành ghi nhận sự
phát khởi và diệt tận của các hiện tượng tâm-vật-lý để giúp chúng
ta nhận thức rõ bản chất thật sự của chúng. Mỗi khi ta nhìn, nghe, nếm,
ngửi, chạm xúc hoặc nhận biết, các hiện tượng nầy liên tục hiện ra
rồi mất đi. Điều quan trọng là phải ghi nhận chúng và nhận thức về
chúng mỗi khi chúng hiện ra. Tuy nhiên, trong lúc ban đầu, ta không thể nào
ghi nhận tất cả những gì ta nhìn, nghe, ngửi, nếm, chạm, hoặc biết.
Vì thế, ta cần phải giới hạn tập trung vào một ít hiện tượng thôi.
Mỗi khi ta thở vào và thở ra, bụng
chúng ta di chuyển theo dạng phồng rồi xẹp rất rõ ràng, dễ theo dõi. Đây
là biểu hiện của một yếu tố chuyển động mà ta thường gọi là Gió
(Vayo dhatu, phong đại) -- một trong bốn yếu tố chính: đất, nước, lửa
gió -- và là một đối tượng dễ quan sát, ghi nhận. Bây giờ, chúng ta
hãy thử thực tập trong ba phút, sau khi ta có một thế ngồi vững vàng...
Trong thời gian nầy, ta không cần
phải nhìn gì cả, do đó, chúng ta nên nhắm mắt lại. Hãy chú tâm vào bụng...
Khi bụng phồng lên, ghi nhận là "phồng". Khi bụng xẹp xuống, ghi
nhận là "xẹp". Không cần phải tự nói thầm là "phồng"
và "xẹp". Chỉ ghi nhận điều đó trong tâm, một cách tỉnh thức...
Nếu tâm phóng đi nơi khác, hãy ghi
nhận sự phóng tâm như thế, ghi nhận "phóng tâm". Rồi trở về
đề mục chính là sự phồng-xẹp của bụng. Nếu cảm thấy mệt mỏi hay
đau đớn, chỉ ghi nhận hai hay ba lần: "đau, đau, đau", rồi đem tâm
trở về đề mục ghi nhận sự chuyển động của bụng. Nếu có nghe một
âm thanh nào đó, chỉ ghi nhận hai hay ba lần: "nghe, nghe, nghe", rồi
chú tâm trở lại vào sự phồng-xẹp của bụng... Hãy cố gắng tiếp tục
như thế trong một thời gian ngắn là ba phút...
Kết luận
Bây giờ ba phút đã trôi qua...
Trong mỗi phút, ta có thể ghi nhận 50 hoặc 60 chuyển động. Trong ba phút,
ta có thể ghi nhận được 150 đến 180 lần. Tất cả các hành động ghi
nhận như thế là phương cách tu tập Minh Quán Thiện (Vipassana Kusala) theo
đúng lời dạy của Đức Phật. Khi định lực (samadhi) được phát triển
theo công phu tu tập, ta sẽ nhận biết được Tâm và Thân, hay Danh và Sắc,
một cách phân minh và nhận thức được mối tương duyên của chúng. Ta sẽ
tự thực chứng được sự sinh-diệt của chúng, nghĩa là trực nhận được
đặc tính Vô thường (anicca) của chúng. Trong tiến trình tu tập như thế,
dần dần ta sẽ phát triển được tuệ minh sát, và cuối cùng sẽ thành tựu
được sự thực chứng Niết-bàn với tuệ tri về Đạo và Quả.
Sư cầu mong quí vị tinh tấn hành
thiền quán để sớm thực chứng Niết-bàn.
Lành thay! Lành thay! Lành thay!
Thiền
sư Mahasi Sayadaw
Nepal, 27-11-1980
- Pháp hành thiền của
Đức Phật
-oOo-
"Sau khi thực hành và thực chứng
Chánh Pháp, Đức Phật truyền giảng Giáo Pháp cho chúng sinh để mọi người
có thể tự mình hành trì và thực chứng Chánh Pháp như Ngài, trong khả năng
của họ". (Trường Bộ)
Giáo Pháp của Đức Phật không phải để thảo luận lý
thuyết suông. Ngài đã tự hành trì theo đó, đã thấm nhập Chân Lý, rồi
truyền giảng cho mọi người. Cho nên, chúng sinh nào có khả năng tư duy,
đều cần phải hành trì theo đó một cách thành kính và nghiêm túc.
Đức Phật hành trì và giảng dạy
như thế nào? Trước khi Thành Đạo, ngài Bồ-tát qua trí tuệ siêu việt
đã nhận thức được rằng tất cả chúng sinh, kể cả Ngài, đều phải
tái sinh luân hồi triền miên vì nghiệp quả và lòng tham thủ. Vị Bồ-tát
qua đôi mắt thần đã thấy chúng sinh sau khi chết, tái sinh vào những nơi
theo nghiệp quả của họ.
Mỗi lần chúng ta thấy, nghe, ngửi,
nếm, chạm xúc và nhận biết, khởi sinh lòng tham đắm và chấp thủ vào
các hiện tượng vật lý và tâm lý. Vì có lòng tham thủ nầy mà có sự
hiện sinh, và vì có hiện sinh nên mới có già lão, bệnh hoạn, tử diệt,
và cứ thế tiếp diễn mãi mãi... Tuy nhiên, khi ta thấy, nghe, ngửi, nếm,
chạm xúc và nhận biết điều gì, nếu ta ghi nhận được bản chất
sinh-diệt của chúng, thì ngay lúc ấy, không còn có lòng tham đắm và chấp
thủ khởi ra, và từ đó, sẽ không còn có tái sinh, già lão, bệnh hoạn,
tử diệt, v.v... Như thế, sẽ dập tắt được đám lửa phiền não, hoạn
khổ.
Ngài Bồ-tát sau khi nhận chân được
như thế, gia công tinh tấn hành trì thiền quán về bản chất sinh-diệt của
năm nhóm chấp thủ. Và phương cách mà Ngài đã hành trì để đạt được
sự Giác Ngộ Viên Dung sẽ được trình bày sau đây.
Phương pháp
Thiền Quán (Vipassana)
"Ngài Bồ-tát sau khi suy
niệm về diễn trình sinh-diệt của phiền não, hành trì thiền quán về sự
sinh khởi và tàn diệt của các hiện tượng tâm-vật-lý. Khi thiền quán
như thế, tâm Ngài trở nên xả ly hoàn toàn, và Ngài đạt được giải
thoát khỏi các lậu hoặc, thành đạt Đạo-Quả Tuệ, trở thành bậc ng
Cúng, Chánh Đẳng Giác". (Trường Bộ)
Trên đây là một đoạn văn trích
từ kinh điển Pali để cho thấy rằng chư Phật, từ Phật Tỳ-bà-thi đến
Phật Cồ-đàm, đều hành trì giống nhau trên đường thành Phật Quả.
Ngay các vị Phật trước thời Phật Tỳ-bà-thi cũng hành trì cùng một
pháp như thế.
Trong pháp hành nầy, chúng ta phải
biết ghi nhận bản tính chân thật về sự sinh-diệt của các hiện tượng
tâm lý và vật lý xảy ra trong thân thể của ta ngay khi chúng vừa hiện hữu.
Nếu không kịp thời ghi nhận như thế, chúng ta sẽ dễ có một ý niệm
sai lầm rằng chúng là thường còn, hạnh phúc và có tự ngã. Bởi vì
không có ghi nhận ngay tại thời điểm của sự nghe, nhìn, ngửi, nếm, chạm
xúc và tư duy, chúng ta không thể trực nhận đúng đắn các hiện tượng
tâm-vật-lý nầy, và nhận thức sai lầm rằng đó là hạnh phúc và là
cái Ngã; và vì thế, lòng tham đắm vào các hiện tượng đó sẽ sinh ra. Sự
tham đắm nầy trong thuật ngữ Pali gọi là "Upadana". Các hiện tượng
tâm-vật-lý làm đối tượng cho sự tham đắm nầy gọi là
"Upadanakkhandhas" (ngũ uẩn thủ).
Bởi vì không có một sự ghi nhận
đúng đắn các hiện tượng tâm-vật-lý khi chúng vừa phát khởi, tham thủ
sinh ra và tạo dựng nên các nghiệp hành thiện và bất thiện. Ngay trong
lúc cận tử, khi cái chết đến kế cạnh, nghiệp (kamma) qua một hình tướng
(nghiệp tướng -- kamma nimitta) hay một chỉ hướng về đời sống kế tiếp
(sinh tướng, gati-nimitta) trở thành đối tượng trong tâm thức của người
hấp hối và có ảnh hưởng lên sự tái sinh của người đó. Qua tái sinh,
người đó lại trở vào vòng hoạn khổ của già lão, bệnh hoạn, rồi chết,
v.v... Khi suy tư về các điều này, chúng ta cảm thấy thật là vô vọng,
hãi hùng.
Vì vậy, để tận diệt lòng tham
thủ, để chấm dứt sự chấp dính vào ngũ uẩn, và từ đó thoát ra vòng
phiền não, vị Bồ-tát hành thiền quán về sự sinh-diệt của các hiện tượng
tâm-vật-lý khi chúng vừa hiện hữu. Khi thiền quán như thế, tri kiến phi
thường khởi hiện trong Ngài, và sau khi đắc Trí Tuệ về Đạo và Quả của
bậc A-la-hán, Ngài trở thành một vị Chánh Đẳng Giác, vị Phật.
Sau khi Thành Đạo, Đức Phật giảng
bài pháp đầu tiên, Kinh Chuyển Pháp Luân, để chúng sinh có thể hành trì
theo, thực hành thiền quán về sự sinh diệt của Ngũ Uẩn Thủ, và sau khi
phát triển Tuệ Minh, chứng đạt Niết-bàn qua sự phát khởi Đạo Tuệ và
Quả Tuệ, tiến đến giải thoát tối hậu như Ngài.
Trong bài kinh Chuyển Pháp Luân, có
đề cập đến Trung Đạo do Đức Phật tìm ra để phát sinh Pháp Nhãn.
Pháp Nhãn nầy chính là sự phát triển các tuệ minh, Đạo Tuệ và Quả Tuệ.
Trung Đạo đó có nghĩa là Bát Chánh Đạo, con đường Tám Chánh. Sự giác
tỉnh nhận thức đúng đắn khi nghe, thấy, ngửi, chạm, v.v... cũng là Bát
Chánh Đạo.
Phát triển
Bát Chánh Đạo
Để giải thích tóm tắt về sự
phát triển và hành trì Bát Chánh Đạo, các nỗ lực đ‹ ghi nhận sự thấy,
nghe, chạm, v.v... là Chánh Tinh Tấn. Sự giác tỉnh, ghi nhớ về sự thấy,
nghe, chạm, v.v... là Chánh Niệm. Luôn luôn chú tâm vào đề mục hành thiền
là Chánh Định. Cả ba yếu tố nầy hợp thành nhóm "Định" trong
Tam Học (Giới-Định-Tuệ).
Và khi định lực trở nên vững mạnh,
các tuệ minh sẽ khởi sinh. Kinh Niệm Xứ (Satipatthana Sutta) có ghi rằng khi
chúng ta có giác niệm về sự đi, đứng, ngồi, nằm, chuyển động, sờ
đụng, v.v... ta có thể phân biệt rõ ràng các hiện tượng vật lý và
tâm lý, và như thế phân tích được Danh và Sắc. Từ đó đưa đến Tuệ
Phân Biệt Danh Sắc (namarupa pariccheda nyana). Tuệ nầy phát khởi khi bắt đầu
có một định lực tốt.
Tiếp theo, ta có thể biết được
rằng bởi vì có ý định di chuyển, di chuyển khởi sinh; bởi vì có ý định
ngồi xuống, động tác ngồi khởi sinh; bởi vì có hơi thở vào, nên có sự
phồng nơi bụng; bởi vì có hơi thở ra, nên có sự xẹp nơi bụng; bởi vì
có đối tượng sờ đụng, nên có xúc cảm; bởi vì có đối tượng để
ghi nhận, nên sự ghi nhận xảy ra; bởi vì có tác ý ghi nhận, nên có sự
ghi nhận, v.v... Đó là sự hiểu biết sâu sắc về mối tương duyên của
nhân và quả. Đây là tuệ minh thứ hai, gọi là Tuệ Phân Biện Nhân Duyên
(paccaya pariggaha nyana).
Khi định lực trở nên mạnh hơn
trong mỗi sự ghi nhận, sự sinh diệt của đề mục được tức thời nhận
biết một cách rõ ràng. Khi ta nhận thức trực tiếp được như thế, sẽ
khởi sinh ý niệm rằng: "Mọi vật đều vô thường và không có gì lạc
thú, mà chỉ là phiền não. Đời sống chỉ là một hiện tượng mà không
có một cái Ngã bất biến trong đó". Đây là một nhận thức khởi ra
từ kinh nghiệm cá nhân, và gọi là Tuệ Thấu Đạt (samasana nyana), cũng còn
gọi là Tuệ Minh Sát Thế Tục.
Sau đó, sẽ phát sinh tri kiến ghi
nhận tức thời sự sinh diệt của bất cứ đối tượng nào trong mỗi
hành động ghi nhận. Đó là Tuệ Tri Kiến Sự Sinh Diệt (udayabbaya nyana).
Khi có được tuệ nầy, hành giả có thể thấy các ánh sáng chói lòa dù
trong đêm tối. Thân thể có cảm giác nhẹ bổng, và thân tâm rất là thoải
mái. Sự ghi nhận trở nên tốt hơn và các cảm thọ hỷ lạc phát sinh.
Tiếp theo, sẽ phát khởi một tuệ
minh mà qua đó, chỉ có các tàn diệt tức thời của mọi đối tượng là
được thấy rõ ràng trong mọi sự ghi nhận. Tuệ minh phi thường nầy được
gọi là Tuệ Diệt (bhanga nyana).
Tiếp theo đó là các tuệ minh trong
mỗi hành động ghi nhận, đối tượng ghi nhận được thấy như đáng
kinh sợ, khổ sở, chán chường. Đây là các Tuệ Kinh Sợ (bhaya nyana), Tuệ
Khổ Sở (adinava nyana) và Tuệ Chán Chường (nibbida nyana).
Kế đó, nảy sinh một tuệ minh
khác biệt khi thân hành và tâm hành được nhận thấy dễ dàng, một cách
bình thản. Đây là Tuệ Hành Xả (Sankhara-upekkha nyana).
Từ Tuệ Phân Biệt Danh sắc đến
Tuệ Hành Xả, tâm ý được gắn chặt vào đối tượng ghi nhận để có
được một sự nhận thức đúng đắn về chúng, là Chánh Kiến và Chánh
Tư Duy trong mỗi hành động ghi nhận. Đây là phần "Tuệ" của Tam
Học.
Phát triển các tuệ minh cho đến
Tuệ Hành Xả là dựa theo ba chi trong phần Định và hai chi trong phần Tuệ
của Tam Học Giới-Định-Tuệ, thuộc Bát Chánh Đạo. Đây là tương ứng
với lời dạy trong Kinh Chuyển Pháp Luân, trong đó có dạy rằng hành trì
theo Trung Đạo là để giúp phát khởi Pháp Nhãn.
Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, và Chánh
Mạng thuộc về phần "Giới". Qua hành thiền nghiêm túc, phần Giới
nầy được hoàn tất.
Ba chi của Định, hai chi của Tuệ,
và ba chi của Giới hợp lại thành Trung Đạo, hay Bát Chánh Đạo. Bằng cách
liên tục ghi nhận mỗi tác động của sự nghe, nhìn, ngửi, nếm, chạm,
biết, chúng ta hành trì Bát Chánh Đạo. Kết quả là sự phát triển từ
Tuệ Phân Biệt Danh Sắc cho đến Tuệ Hành Xả, đưa đến sự khởi sinh
Pháp Nhãn. Khi Pháp Nhãn được phát triển tròn đủ, Niết-bàn sẽ được
tri kiến qua Đạo Tuệ và Quả Tuệ (magga nyana, phala nyana). Ngài Bồ-tát
qua pháp hành Trung Đạo, đã phát triển tuệ minh sát và sau khi đắc đạo
quả A-la-hán, trở thành vị Phật Toàn Giác. Sau khi thành đạo, Ngài đã
thuyết giảng Kinh Chuyển Pháp Luân để người khác, cũng như Ngài, có thể
thực chứng Niết-bàn qua Đạo Tuệ và Quả Tuệ bằng cách thiền quán về
sự sinh-diệt của các hiện tượng tâm-vật-lý.
Trong Kinh Niệm Xứ, pháp hành Thiền
Quán được giải thích chi tiết. Một cách tóm lược, pháp nầy có thể
được chia làm bốn phần chính: (1) Quán niệm về Thân, nghĩa là giác niệm
về các động tác của thân như đi, đứng, ngồi, nằm, v.v...; (2) Quán niệm
về Thọ, nghĩa là giác niệm về các cảm thọ lạc, khổ, trung tính,
v.v...; (3) Quán niệm về Tâm, nghĩa là giác niệm về sự suy nghĩ, nhận thức,
phân tích, v.v...; (4) Quán niệm về Pháp, nghĩa là giác niệm về sự thấy,
sự nghe, sự chạm xúc, v.v...
Đức Phật dạy rằng Tứ Niệm Xứ
là con đường duy nhất để đạt Đạo Quả Tuệ và chứng đắc Niết-bàn.
Vì thế, không có con đường nào khác để đưa đến Đạo, Quả, và Niết-bàn.
Để tiến đến giải thoát khỏi vòng luân hồi hoạn khổ, mỗi người chúng
ta phải nỗ lực thực hành thiền Quán Niệm. Để hành trì, sư xin giải
thích sơ lược như sau.
Thực tập
Thiền Quán trong năm phút
Bây giờ, xin hãy ngồi tréo chân,
hay một thế ngồi thích hợp. Vì không cần phải nhìn gì cả, xin hãy nhắm
mắt lại... Chú tâm vào đề mục hành thiền. Trong lúc ban đầu, rất khó
ghi nhận tất cả mọi hiện tượng sinh diệt, và vì thế, hãy bắt đầu
bằng cách chỉ chú tâm vào sự di chuyển phồng xẹp nơi bụng...
Hãy chú tâm vào bụng. Khi bụng phồng,
ghi nhận "phồng". Khi bụng xẹp, ghi nhận "xẹp". Không
nên ghi nhận bằng lời nói thầm, mà chỉ ghi nhận trong tâm. Không nên cho
rằng "phồng" và "xẹp" là hai từ ngữ, mà ghi nhận đó
là hai tiến trình thật sự của cử động nơi bụng. Hãy cố gắng theo
dõi sự phồng từ lúc bắt đầu cho đến lúc cuối, và cũng như thế
trong cử động xẹp.
Tỉnh giác theo dõi các cử động nầy
-- bằng cách ghi nhận rõ ràng -- là phương cách trực nhận yếu tố chuyển
động, yếu tố Gió, trong thực thể tuyệt đối của nó. Theo Kinh Niệm Xứ,
đây là Quán niệm về Thân.
Khi theo dõi sự phồng xẹp nơi bụng,
nếu có một ý nghĩ nào xuất hiện, ta lại ghi nhận nó. Đó là Quán niệm
về Tâm. Rồi trở về tiếp tục chú tâm vào chuyển động nơi bụng.
Khi có sự đau nhức, ta ghi nhận nó.
Đây là Quán niệm về Thọ. Sau khi ghi nhận hai, ba lần, ta quay về chú
tâm nơi bụng.
Nếu có nghe một âm thanh nào đó,
ghi nhận hai hay ba lần, rồi quay về nơi bụng. Nếu có thấy vật chi, chỉ
ghi nhận hai hay ba lần. Đây là Quán niệm về Pháp, đối tượng của Tâm.
Rồi quay về chú tâm nơi sự cử động của bụng.
Bây giờ, chúng ta hãy thử tập thiền
quán như thế trong năm phút...
Kết luận
Bây giờ, chúng ta đã tập thiền
quán xong sau năm phút. Trong mỗi phút, ta có thể ghi nhận 50 đến 60 lần.
Trong 5 phút, ta ghi nhận tối thiểu là 250 lần. Như thế, chúng ta phát triển
một hành động rất tốt trong pháp hành Thiền Quán theo đúng lời dạy của
Đức Phật. Khi ta ghi nhận trong pháp hành thiền như vậy, với sự phát
triển tâm định, dần dần ta sẽ phát triển được Tuệ Phân Biệt Danh Sắc,
Tuệ Phân Biện Nhân Duyên, Tuệ Tri Kiến Sinh Diệt, Tuệ Tri về Vô thường,
Khổ và Vô ngã sẽ phát khởi, và một ngày nào đó, ta có thể thực chứng
Niết-bàn qua Đạo Tuệ và Quả Tuệ.
Bằng pháp hành Thiền Quán Niệm như
đã trình bày với sự nỗ lực tinh tấn của mỗi cá nhân, sư cầu mong quí
vị chứng đạt Niết-bàn trong một tương lai rất gần.
Thiền sư Mahasi
Sayadaw
Nepal, 28-11-1980
- Thiền Quán và Bốn Sự
Thật Cao Diệu
-oOo-
Chân lý mà chúng ta phải thực chứng là chân lý có
liên quan đến Tứ Diệu Đế, Bốn Sự Thật Cao Diệu. Đó là: (1) Sự Thật
về Khổ (Khổ đế), (2) Sự Thật về Nguồn Gốc của Khổ (Tập đế),
(3) Sự Thật về sự Diệt Khổ (Diệt đế), và (4) Sự Thật về Con Đường
đưa đến Diệt Khổ (Đạo đế).
Sự thật về Khổ có liên quan đến
bản chất của năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Theo Kinh Chuyển
Pháp Luân, chúng ta phải thấu triệt sự khổ nầy để thông hiểu một
cách đúng đắn. Cần phải ghi nhận sự thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm xúc
và suy nghĩ ngay lúc chúng hiện khởi để hiểu biết chính xác về chúng.
Nếu không ghi nhận ngay tại thời điểm đó, ta sẽ không thông hiểu tường
tận bản chất sinh-diệt của chúng, và từ đó, lòng tham đắm vào các hiện
tượng tâm-vật-lý hư ảo nầy sẽ sinh ra, và đó là Nguồn gốc của Khổ.
Bởi vì có tham đắm, sự chấp thủ vào các hiện tượng đó sẽ xảy ra,
và tạo ra các nghiệp hành. Chính các nghiệp hành nầy sẽ tạo ra sự tái
sinh, và từ đó tiếp tục vòng luân hồi khổ não của già lão, bệnh hoạn,
tử diệt, v.v...
Nếu chúng ta liên tục ghi nhận
các hành động của thấy, nghe, ngửi, v.v..., những hiện tượng tâm-vật-lý
nầy sẽ được thông hiểu đúng đắn, và từ đó sẽ giảm thiểu lòng
tham ái trong một cấp độ nào đó. Đây chính là công phu để Diệt trừ
Nguồn gốc của Khổ. Khi chúng ta hoàn toàn ghi nhận kịp thời mỗi một
tác động của sự thấy, nghe, ngửi, v.v... khi chúng vừa khởi hiện, lúc
đó có thể xem như ta đã hoàn tất công tác diệt trừ cội nguồn của Khổ,
theo như tinh thần của các lời dạy trong bài Kinh Chuyển Pháp Luân.
Mỗi một động tác ghi nhận như
thế sẽ giúp giảm thiểu phiền não, có nghĩa là làm giảm bớt các điều
kiện để tạo tái sinh. Như thế, qua phương pháp ghi nhận, hoạn khổ được
diệt trừ từng chập, và pháp hành nầy là Con Đường Tại Thế để phát
triển tuệ minh. Đây là pháp hành trì theo đúng lời dạy trong kinh là sự
Diệt Khổ cần phải được thực chứng, và Con Đường Diệt Khổ cần phải
được triển khai. Sư sẽ giảng thêm về Con Đường Diệt Khổ Siêu Thế
-- để thực chứng Niết-bàn -- và Bát Chánh Đạo. Tuy nhiên, trước hết,
sư sẽ giải thích về việc thực chứng Niết-bàn qua con đường tại thế
như Đức Phật đã giảng cho thầy tỳ-kheo Malukyaputta (Kinh Malukyaputta, Tương
Ưng, iv-72) như sau:
Niết-bàn
ở xa khi không có Chánh Niệm
"Thấy sắc, niệm mê say,
Tác ý đến ái tướng,
Tâm tham đắm cảm thọ,
Tham luyến sắc an trú.
Vị ấy, thọ tăng trưởng,
Nhiều loại, từ sắc sinh,
Tham dục và hại tâm,
Não hại tâm vị ấy,
Như vậy, khổ tích lũy,
Được gọi: xa Niết-bàn"
(Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt)
Có nghĩa là: ngay khi mắt nhìn thấy
một hình sắc, nếu ta quên quán niệm về sự thấy, và nếu đó là một
vật đẹp đẽ, ta sẽ vui thích với nó và tham luyến sinh ra, nhất là đối
với một đối tượng mà ta hằng ưa thích.
Một khi có sự tham luyến, các cảm
thọ về đối tượng liền nẩy sinh. Nếu đó là một đối tượng ưa thích,
ta sẽ có thọ lạc, rồi sinh ra tham luyến. Nếu đó là một đối tượng
xấu xa, cảm thọ khổ sinh ra, rồi tiếp theo là lòng sân hận, oán ghét.
Chính sự tham luyến hay oán ghét nầy làm cho tâm trở nên chao động, mất
chánh niệm. Từ đó sẽ đưa đến sự khổ não, tạo ra nghiệp hành, đưa
đến tái sinh trong vòng luân hồi ưu phiền. Như thế, càng lúc ta càng rời
xa Niết-bàn.
Niết-bàn
ở gần khi có Chánh Niệm
"Vị ấy không tham sắc,
Thấy sắc, không ái luyến,
Tâm không dính cảm thọ,
Không luyến sắc an trú.
Theo sắc, vị ấy thấy,
Tùy sắc, thọ cảm giác,
Tiêu mòn, không tích lũy,
Như vậy, chánh niệm hành,
Như vậy, khổ không chứa,
Được gọi: gần Niết-bàn."
(Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt)
Bây giờ, nếu chúng ta có chánh niệm
trong lúc nhìn, Đức Phật gọi là lúc đó, ta ở gần Niết-bàn. Ngay chính
lúc ta nhìn, nếu ta quán niệm vào sự nhìn, lòng luyến ái vào đối tượng
sẽ không khởi sinh. Đúng như thế. Mỗi khi có sự nhìn, nếu ta ghi nhận
"thấy, thấy, thấy" một cách liên tục, tham đắm vào đối tượng
nhìn sẽ không sinh khởi và cũng sẽ không có suy tưởng về lòng tham đắm
đó. Khi ta thấu triệt được bản chất sinh-diệt của sự nhìn và đối
tượng nhìn, ta sẽ không có lòng ưa thích hay oán ghét kèm theo. Vì thế,
khi ta có chánh niệm tỉnh giác, tâm ta sẽ không bị vướng mắc vào lòng
tham thủ và sân hận. Lúc đó ta chỉ có một cảm giác thụ động, có nghĩa
là chỉ thuần một cảm giác mà không có một phản ứng hay một cảm
tính nào đi kèm theo đó. Hình dạng của đối tượng chỉ được nhận thấy
mà không trở thành một đối tượng cho lòng tham thủ.
Nhờ có chánh niệm, ta chỉ ghi nhận
mọi hiện tượng một cách đơn thuần với một cảm giác thụ động, và
do đó, phiền não không có cơ hội để sinh khởi và sẽ bị trừ diệt.
Điều này có nghĩa là nếu không có chánh niệm ngay khi nhìn, tham thủ vào
đối tượng nhìn sẽ sinh ra và chắc chắn phiền não sẽ tiếp tục tái
diễn vô tận. Ngược lại, nếu ta có chánh niệm, phiền não sẽ bị trừ
diệt vì nó không có điều kiện để sinh khởi. Cho nên, nếu người nào
muốn thoát khỏi hoạn khổ và thực chứng hạnh phúc thì nguời ấy phải
luôn luôn chánh niệm khi có tác động nhìn xảy ra. Công phu phát triển tuệ
tri nầy qua pháp hành thiền gọi là Sơ Đạo, con đường sơ khởi (pubba
bhaga magganga). Qua con đường sơ khởi nầy, hành giả tiến đến mục đích
thực chứng Niết-bàn, dập tắt mọi phiền não, qua sự chứng đắc Con
Đường Siêu Thế.
Trong kinh Malukyaputta, Đức Phật dạy
rằng để thoát khỏi hoạn khổ, thầy tỳ-kheo phải hành thiền quán như
trên, và khi biết được bản chất thật sự của mọi hiện tượng tâm-vật-lý
trên đời thì vị ấy được xem như là đã đến gần Niết-bàn. Tại sao
như thế? Nếu chúng ta thực hành thiền quán, tuệ minh sát sẽ ngày càng
phát triển, và một ngày nào đó, ta sẽ có đủ duyên lành để thực chứng
được Niết-bàn qua Đạo Tuệ và Quả Tuệ (Magga nyana và Phala nyana). Nếu
một vị hành giả thấu đạt Đạo Tuệ và Quả Tuệ lần đầu tiên, vị
ấy trở thành bậc Dự Lưu hay Tu-đà-hườn (Sotapanna) và sẽ không bao giờ
tái sinh vào bốn cảnh khổ: A-tu-la, Ngạ quỷ, Cầm thú, và Địa ngục. Vị
ấy chỉ tái sinh tối đa là bảy lần, trong nhàn cảnh của cõi Người hay
cõi Trời, và tối hậu sẽ đắc đạo quả A-la-hán, hoàn toàn giải thoát
khỏi cõi Ta-bà phiền não luân hồi của sinh, lão, bệnh, tử.
Trên đạo quả Dự Lưu là đạo quả
Nhất Lai (Tư-đà-hàm, Sakadagami). Gọi là Nhất Lai vì vị ấy chỉ phải trải
qua hai đời sống nữa -- đời nầy và đời sau -- là có thể chứng đạt
đạo quả A-la-hán giải thoát tối hậu.
Trên đạo quả Nhất Lai là đạo
quả Bất Lai (A-ha-hàm, Anagami). Bậc Bất Lai sẽ không tái sinh vào cõi người
hoặc cõi trời dục giới, mà sẽ tái sinh vào các cõi trời của Phạm
thiên. Ở đó, vị ấy sẽ thành đạt đạo quả A-la-hán.
Như đã vừa trình bày, khi quí vị
hành trì thiền quán để ghi nhận mọi hiện tượng khi chúng vừa sinh khởi,
và với tiến trình phát triển tuệ minh, khi phước duyên chín muồi, quí vị
sẽ trở thành một bậc A-la-hán. Khi nghiệp lực đã hết, vị ấy sẽ đắc
Bát Niết-bàn (Niết-bàn vô dư y), và lúc đó là một sự dập tắt hoàn
toàn mọi hoạn khổ.
Vì thế, để dập tắt mọi phiền
não khổ đau khi đời sống nầy chấm dứt, quí vị cần phải tận lực
thực hành pháp thiền quán để ghi nhận thẩm thấu mọi hiện tượng khi
chúng sanh khởi. Ít ra, xin quí vị hãy nỗ lực để thành đạt cho được
đạo quả Dự Lưu để không còn phải tái sinh vào các cảnh khổ.
Những gì sư đã trình bày có liên
quan về sự nhìn thấy cũng áp dụng cho pháp hành thiền quán về sự nghe,
ngửi, nếm, chạm xúc, và suy nghĩ. Nếu không có chánh niệm thì ta còn ở
xa Niết-bàn. Nếu có chánh niệm là ta ở gần Niết-bàn. Như thế, ta cần
phải áp dụng pháp thiền quán vào từng động tác trong đời sống của
chúng ta.
Tóm lược
pháp hành thiền quán niệm
"... Nầy thầy tỳ-kheo
Malukyaputta, đối với các pháp được thấy, được nghe, được ngửi,
được nếm, được chạm xúc, được ý thức, thầy chỉ nên thấy với
những vật thấy được, chỉ nghe với những vật nghe được, chỉ ngửi
với những vật ngửi được, chỉ nếm với những vật nếm được, chỉ
ý thức với những vật ý thức được. Do đó, thầy không có luyến ái
khởi sinh. Do không có luyến ái nên không còn có đời nầy, đời sau, và
giữa hai đời ấy. Đây là sự chấm dứt khổ đau."
Đó là lời dạy vắn tắt của Đức
Phật cho thầy tỳ-kheo Malukyaputta. Sau khi nghe lời giảng của Đức Phật,
thầy tỳ-kheo Malukyaputta bạch với Ngài rằng thầy đã hiểu được là nếu
người nào không có chánh niệm ngay lúc nhìn, nghe, ngửi, nếm, chạm, nghĩ,
thì người ấy sẽ chịu hoạn khổ và ở xa Niết-bàn. Trái lại, nếu người
ấy có chánh niệm thì người ấy sẽ giải thoát khỏi hoạn khổ và ở gần
Niết-bàn. Đức Phật xác nhận điều đó bằng các kệ ngôn nêu ra ở
trên.
Tiếp theo, thầy tỳ-kheo Malukyaputta
đi sống biệt cư, nỗ lực tinh tấn hành thiền quán niệm về sự thấy,
nghe, ngửi, v.v... ngay khi chúng vừa sinh khởi, và chẳng bao lâu thầy đắc
đạo quả A-la-hán.
Cho nên, nếu quí vị muốn đắc các
đạo quả Dự Lưu, Nhất Lai, v.v..., xin quí vị hãy hành thiền quán liên tục
vào sự thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm xúc, suy nghĩ ngay khi chúng vừa sinh
khởi. Nếu quí vị hành trì như thế và khi định lực đủ mạnh, quí vị
sẽ phát triển tuệ tri để trực nhận được sự khác biệt của danh và
sắc, nhân và quả, đặc tính vô thường, bất toại nguyện, và vô ngã.
Đó là phương pháp hành trì đúng với câu "Samadhito yathabhutam
pajanati", nghĩa là "Chánh Định đưa đến Chánh Kiến".
Chánh kiến
trong Thiền quán
Khi định lực đủ mạnh, trong mỗi
động tác ghi nhận về sự nhìn thấy, quí vị sẽ phân biệt được đối
tượng nhìn, mắt, và sự nhìn. Đối tượng nhìn và cặp mắt là Vật chất
hay Sắc, không có thức. Nhãn thức và sự ghi nhận là thuộc về Tâm hay
Danh, có thức. Như thế, trong mỗi động tác ghi nhận sự nhìn, quí vị sẽ
nhận thức được rằng đây chỉ là Thân và Tâm, hay Danh và Sắc, mà
không có một cái Ngã hay một Linh hồn nào cả. Đây là Tuệ Phân Biệt
Danh Sắc (nama rupa pariccheda nyana).
Cũng vậy, khi quí vị quán niệm về
nghe, quí vị sẽ biết đuợc rằng tai và âm thanh là vật chất, và nhĩ thức
cùng với sự ghi nhận là tâm. Như thế, chỉ có Danh và Sắc.
Khi quí vị quán niệm về ngửi,
quí vị sẽ biết đuợc rằng mũi và mùi hương là vật chất, và tỉ thức
cùng với sự ghi nhận là tâm. Như thế, chỉ có Danh và Sắc.
Khi quí vị quán niệm về nếm,
quí vị sẽ biết đuợc rằng lưỡi và vị nếm là vật chất, và thiệt
thức cùng với sự ghi nhận là tâm. Như thế, chỉ có Danh và Sắc.
Khi quí vị ghi nhận "đi, đứng,
ngồi, nằm, đụng, lên, xuống, v.v...", quí vị sẽ biết đuợc rằng
thân thể và vật chạm xúc là vật chất, và thân thức cùng với sự ghi
nhận là tâm. Như thế, chỉ có Danh và Sắc.
Khi quí vị ghi nhận về sự suy tư,
suy nghĩ, v.v..., quí vị sẽ biết được rằng ý và đối tượng của ý
là vật chất, và ý thức cùng với sự ghi nhận là tâm. Như thế, chỉ có
Danh và Sắc. Trong trường hợp nầy, đối tượng của ý có thể là sự
suy tưởng, ý nghĩ, quan niệm, phân tích, v.v... có thể đánh giá, liệt kê
được, nên được gọi là vật chất (sắc, rupa) trong ý nghĩa tương đối.
Thông thường, Tuệ Phân Biệt Danh
Sắc xảy ra nhiều hơn đối với một hành giả thông minh. Tuy nhiên, dù
có kém thông minh, một hành giả vẫn có thể phát triển được một vài
cấp độ của tuệ nầy.
Sau khi phát được tuệ nầy, hành
giả tiếp tục hành thiền quán và với sự phát triển của định lực, hành
giả có thể đạt được Tuệ Phân Biện Nhân Quả qua phương cách sau đây:
Trong lúc ghi nhân sự đi, hành giả
biết được rằng mỗi khi có tác ý để đi thì sẽ có tác động đi. Khi
đứng hay ngồi cũng thế, vì có ý định ngồi nên mới có tác động ngồi,
vì có ý định đứng nên mới có tác động đứng lại. Khi ghi nhận phồng
và xẹp, hành giả nhận thức được rằng vì có hơi thở vào ra nên m穠có phồng xẹp. Khi ghi nhận sự nhìn, hành giả biết
được vì có cảnh nhìn nên mới có sự nhìn, vì có mắt nên mới có
nhìn. Khi nghe, ngửi, nếm, v.v... cũng tương tự như thế. Dần dần, khi ghi
nhận và thông hiểu như thế, hành giả sẽ nhận thức được rằng các
động tác nầy không phải do chủ động của một cái Ngã, cái Tôi nào cả,
mà chỉ là kết quả của các tương quan của nhân và quả như vừa trình
bày. Đây là Tuệ Phân Biện Nhân Quả.
Kế đến, khi ghi nhận "đi, đứng,
ngồi, nằm, phồng, xẹp, thấy, nghe, ngửi, nếm, cứng, tê, đau, buồn,
vui, v.v..." trong từng hành động, hành giả sẽ thấy được cả đối
tượng được ghi nhận và sự ghi nhận sinh khởi mới mẻ rồi tàn lụn.
Ban đầu, hành giả chỉ ghi nhận được chặng đầu và chặng cuối của
từng giai đoạn, chẳng hạn như lúc phồng của bụng. Dần dần, với sự
gia tăng của định lực và tuệ tri, hành giả sẽ ghi nhận được từng
đoạn nhỏ hơn. Qua tri kiến trực tiếp, hành giả thông hiểu rằng "Mọi
sự kiện nầy không thường hằng mà cũng không lạc thú, chỉ là phiền
não thôi! Đời sống chỉ là một chuỗi các hiện tượng, mà không có một
cái Ngã hay một Linh hồn nào cả!" Đây là sự trưởng thành của Tuệ
Minh Sát thật thụ, gọi là Tuệ Minh Sát về Vô Thường (Aniccanupassana
Nyana), Tuệ Minh Sát về Khổ (Dukkhanupassana Nyana), và Tuệ Minh Sát về Vô
Ngã (Anattanupassana Nyana).
Với sự chín muồi của các Tuệ
Minh, Niết-bàn được thực chứng qua Thánh Đạo Tuệ (Ariya Magga Nyana) và
Thánh Quả Tuệ (Ariya Phala Nyana). Lúc đó, hành giả trở thành bậc Dự Lưu
và không còn tái sinh vào bốn cảnh khổ. Vị ấy sẽ tái sinh trong những
điều kiện tốt lành ở cõi Người hay cõi Trời, và trong bảy kiếp sẽ
thực chứng Niết-bàn tối hậu qua Đạo Quả A-la-hán. Vì vậy, điều cần
thiết là mỗi người chúng ta phải nỗ lực hành thiền để tối thiểu
phải đạt được quả đầu tiên là quả Dự Lưu.
Tới đây, sư sẽ hướng dẫn quí
vị thực hành thiền quán trong một thời gian ngắn.
Xin quí vị ngồi vững vàng, trong một
tư thế thích hợp và thoải mái. Hãy nhắm mắt lại... Hãy chú tâm vào bụng,
và ghi nhận động tác phồng và xẹp của bụng...Nếu quí vị không nhận
thấy rõ, thì có thể đặt tay lên bụng để dễ theo dõi...
Hãy ghi nhận chuyển động phồng,
từ lúc bắt đầu cho đến lúc cuối, một cách chăm chỉ... Hãy theo dõi
chuyển động xẹp một cách tương tự như thế... Chỉ ghi nhận thầm
trong tâm mà thôi...
Trong khi ghi nhận như thế, nếu có
phóng tâm, thì ghi nhận "phóng tâm", rồi đem tâm trở về nơi sự
phồng xẹp của bụng... Nếu tai nghe tiếng động, ghi nhận "nghe, nghe,
nghe" hai hay ba lần, rồi quay về chú tâm nơi chuyển động của bụng...
Nếu có đau nhức, ghi nhận "đau, đau, đau" hai hay ba lần, rồi
quay về chú tâm nơi chuyển động của bụng... Xin hãy tiếp tục ghi nhận
như thế trong năm phút...
Kết luận
Bây giờ, chúng ta đã tập hành thiền
được năm phút. Trong mỗi phút, chúng ta làm được 50 đến 60 hành động
thiện lành qua sự ghi nhận. Trong 5 phút, ta thực hiện được tối thiểu
là 250 hành động như thế. Trong mỗi sự ghi nhận, nỗ lực chú tâm là
Chánh Tinh Tấn. Nhận thức rõ ràng khi ghi nhận là Chánh Niệm. Liên tục
chú tâm vào đối tượng thiền quán là Chánh Định. Ba chi nầy tạo thành
phần "Định" (Samadhi). Với nỗ lực thiền quán như thế, định lực
gia tăng, và ta sẽ có Chánh Kiến trong mỗi động tác ghi nhận. Chủ ý để
đưa tâm vào đối tượng thiền quán là Chánh Tư Duy. Hai chi nầy tạo nên
phần "Tuệ" (Panna). Ba chi Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng được
phát triển trong lúc hành thiền, hợp thành phần "Giới" (Sila). Đó
là Tam Học Giới-Định-Tuệ.
Mỗi khi ta hành trì pháp Thiền
Quán theo dõi và ghi nhận sự phồng xẹp nơi bụng là ta thực hành Bát
Chánh Đạo. Đây là Trung Đạo do Ngài Bồ-tát Sĩ-đạt-ta khám phá để Thành
Đạo. Trung Đạo nầy giúp phát triển các Tuệ Minh và đưa đến Đạo Tuệ
và Quả Tuệ. Vì thế, sư thành thật khuyên quí vị cố gắngtận lực
hành thiền ngay cả khi trở về nhà và sống với gia đình.
Sư cầu mong quí vị qua pháp hành nầy
sẽ có nhiều tiến bộ phát triển định lực, và trong một tương lai gần
sẽ được thực chứng Niết-bàn qua Đạo Tuệ và Quả Tuệ.
Thiền sư Mahasi
Sayadaw
Nepal, 30-11-1980
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/017-3baithienquan.htm