- Nhận thức cơ bản về con
đường thiền định PG
- TT. Thích Chơn Thiện
Trước hết, thiết tưởng
chúng ta cần ổn định một số nhận thức về con đường Thiền định của
Phật giáo. Từ những nhận thức đúng và tư duy đúng về Thiền định,
ta dễ có những bước thực hiện có kết quả tốt đẹp về nó.
Từ lâu, có người cứ ngỡ
Thiền như là một tông phái Phật giáo. Thiền đến với thế hệ chúng ta
như là chỉ có Thiền Công Án (hay Thiền Tổ sư). Những hình ảnh quen thuộc
với Thiền là những tiếng bổng, tiếng hét, tiếng quát, là những câu
nói bí hiểm đầy ẩn dụ, hay là những lời dạy ngắn ngủi gọi là
"thoại đầu" hay "thoại vĩ", là những hình ảnh phóng
khoáng, tự do của các Thiền sư "thỏng tay vào chợ", là hình ảnh
"chích lý Tây qui" (đi về Tây Trúc với một chiếc dép cỏ trên
vai), là các bài kệ truyền thừa hay những mẫu đàm thoại ngắn giữa một
Thiền sư và một người hỏi đạo. Thiền đến với ta với ý nghĩa của
"Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến
tánh thành Phật" (truyền riêng ngoài giáo, không lập văn tự, chỉ thẳng
tâm người, thấy tánh thành Phật). Hoặc với ý nghĩa của "Đa ngôn
đa quá chuyển bất tương ứng, tuyệt ngôn tuyệt lự vô xứ bất Thiền"
(nói nhiều thì lỗi nhiều trở nên không hợp, bặt nói năng bặt suy nghĩ
thì không đâu là không Thiền). Thiền đến với ta như là một pháp tu đặc
biệt chỉ dành cho hàng căn tánh đặc biệt.
Tại Việt Nam, trong mấy thập
niên gần đây các sách Thiền có ảnh hưởng phổ biến nhất là các cuốn
viết về các Thiền sư Trung Hoa, cuốn Thiền Luận (Essays in Buddhist
Meditation) của D.T. Suzuki, và cuốn Thiền Đại Đạo Tu Tập (Zen Practice) của
Chang Cheng Chi (Trương Trừng Cơ). Đây là ảnh hưởng tốt.
Bên cạnh ảnh hưởng của
Thiền Công án ấy, còn có các hiện tượng "Thiền xuất hồn",
"Thiền chữa bịnh" v.v... xuất hiện cùng với làn sóng dư luận rằng
tu Thiền thì dễ điên, dễ lạc đạo, dễ "tẩu hỏa" v.v...
Một số người thì cho rằng
muốn tu Thiền thì phải buông tha hết các công việc gia đình, xã hội, bỏ
hết việc học hành, đi vào ở ẩn một nơi nào thật xa vắng. Thiền gắn
liền với đời sống núi rừng.
Thật là đầy dẫy các ngộ
nhận lớn về con đường Thiền định của Phật giáo. Thượng tọa W.
Rahula, trong cuốn " Những Điều Đức Phật Dạy" (What the Buddha
Taught), đã viết: "Thật không may rằng hầu như không có ngành nào của
giáo lý đức Phật bị các Phật tử và những người khác hiểu lầm như
Thiền định".
Chúng ta cần ổn định nhận
thức từng vấn đề sau đây:
Thiền định là con đường
tu tập chính thống, độc nhất đi đến giải thoát của Phật giáo
Trên lộ trình tu tập giải
thoát, Thế Tôn đã đi qua hết đoạn đường Thiền định của ngoại đạo
mà cao đỉnh là định Phi tưởng phi phi tưởng, và Ngài đã từ bỏ ra đi
vì cho rằng con đường này còn bị vướng mắt vào sinh tử. Thế Tôn lại
hành khổ hạnh sáu năm liền, và Ngài đã từ bỏ ra đi, vì cho rằng đây
không phải là chánh đạo dẫn đến giải thoát (xem "Phật Học Khái
Luận", cùng soạn giả). Sau cùng, Thế Tôn quyết định Thiền quán dưới
cội Bồ-đề (Assatha - Bát-đa-la) trong vòng ba tuần lễ (có nơi ghi 7 tuần
lễ; thời gian này có thể ghi nhận từ 3 đến 7 tuần lễ ) theo kinh nghiệm
Thiền định đã giúp Ngài vào Sơ Thiền trong dịp vua Tịnh Phạn làm lễ
"hạ điền" (xuống đồng). Ngài khởi niệm đoạn tận lòng tham
ái và đã chứng đắc vô thượng bồ-đề. Đây là con đường độc nhất
ngài chứng ngộ để về sau ngài tuyên thuyết con đường giải thoát sinh
tử, khổ đau gọi là Phật giáo .
Do vậy, định giải thoát
cao nhất của Phật giáo đến từ Thiền định (Thiền chỉ, Thiền quán).
Đạo đế gồm có 37 phẩm
trợ đạo mở đầu là Tứ Niệm Xứ. Đây là pháp môn Thiền định. Tứ
Chánh cần thì thuộc Định uẩn. Tứ như Ý Túc (dục định, niệm định,
tâm định và tư duy định) cũng thuộc Định. Ngũ căn, ngũ lực (tín, tấn,
niệm, định, tuệ) có ba chi phần (tấn, niệm, định) là thuộc Định uẩn.
Thất Giác Chi (niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả) bao gồm
các chi phần Thiền định. Bát Thánh Đạo có ba chi phần (chánh tinh tấn,
chánh niệm và chánh định) thuộc Định uẩn. Thế có nghĩa là Đạo đế
là con đường tu tập nỗi bật sắc thái Thiền định.
Qua nếp sống của chư Tăng
lời Thế Tôn tại thế, các vị Tỷ-kheo chỉ có hai việc chính phải làm
là học hỏi Giáo lý và tu tập Thiền định (xem Phật Học Khái Luận,
cùng soạn giả). Sinh hoạt cốt lõi của nếp sống giải thoát ấy rõ là
Thiền định.
Kinh Pháp Cú, kệ số 301
chép:
"Đệ tử Gotama
luôn luôn tự tỉnh giác
không luận ngày hay đêm٠vui tu Thiền định".
("Suppabuddham pabujjhanti
Sadà Gotamasàvakà)
Yesam divà ca ratto ca
Bhàvanàya rato mano")
Kệ 386 chép:
"Tu Thiền, trú ly trần
Phật sự xong, vô lậu
Đạt được đích tối thượng
Ta gọi Bà-la-môn."
("Jhàyim, virajam àsìnam
Katakiccham anàsavam
Uttamattham anuppattam
Tam aham brùmi Bràhmanam")
Quả chứng Lục thông của
Phật giáo gồm Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông và Thần túc thông là kết quả
tu tập Thiền chỉ; Thiên nhãn thông, Túc mệnh thông và Lậu tận thông là
kết quả của tu tập Thiền quán. Quả vị Tam minh (Thiên nhãn, Túc mệnh
và Lậu tận) là quả vị tu chứng đặc biệt chỉ có trong Phật giáo đã
là kết quả đến từ con đường Thiền định của Phật giáo.
Qua chừng ấy trưng dẫn, chúng
ta đã thấy Thiền định là con đường tu chính thống của Phật giáo. Đức
Thế Tôn còn xác định rõ hơn vị trí của con đường Thiền định này:
"Này các thầy Tỷ-kheo,
con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt qua mọi sầu
não, khở, ưu, thành tựu chánh lý, hiện chứng Niết-bàn là con đường này:
đó là Bốn Niệm Xứ".
(Ekàyano ayam bhikkhave maggo
sattànam visuddhiyà sokapatiddhavànam samatikkamàya dukkhadomanassànam atthagamàya
nàyassa abhigamàya niggànassa sacchikiriyàta cattàro satipatthanà - Trung Bộ Kinh
I, Kinh Tứ Niệm Xứ).
Con đường trở về nương
tựa chính mình và nương tựa Chánh pháp đúng nghĩa là con đường Thiền
định. Thế Tôn dạy: "Này, Ananda, vị Tỷ-kheo quán thân nơi thân, nhiệt
tâm tỉnh giác, chánh niệm nhiếp phục tham ưu ở đời, quán thọ nơi thọ...,
quán tâm nơi tâm..., và quán pháp nơi pháp.... này Ananda, như vậy là vị tỷ-kheo
tự mình làm ngọn đèn cho chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng
Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ dựa nương tựa, không
nương tựa một gì khác. Những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng
trong hàng Tỷ-kheo của Ta." (Trường Bộ Kinh III, tr. 101, bản dịch của
HT. Minh Châu, 1972).
Qua lời dạy này, Thiền định
nỗi bật sắc thái rất là chính thống của Phật giáo.
Trung A-hàm, Kinh Niệm Xứ, số
98, chép:
"Có một con đường tịnh
hóa chúng sanh, vượt qua lo sợ diệt trừ khổ não, chấm dứ kêu khóc, chứng
đắc Chánh pháp. Đó là Bốn Niệm Xứ. Các Như Lai, bậc Vô Sở Trước,
Chánh Đẳng Chánh Giác ở quá khứ đều đoạn trừ Năm triền cái là thứ
làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, lập tâm chánh trú nơi Bốn Niệm Xứ, từ Bảy
Giác Chi mà chứng quả Giác ngộ. Ta nay trong hiện tại, là Như Lai, bậc Vô
Sở Trước, Chánh Đẳng Chánh Giác, Ta cũng đều đoạn trừ Năm triền cái
làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, Ta cùng lập tâm chánh trú nơi Bốn Niệm Xứ,
tu Bảy Giác Chi mà chứng quả Vô Thượng Chánh tận".
A-hàm thuộc Nhứt Thiết Hữu
Bộ, qua đoạn kinh vừa dẫn, xác định rõ Thiền định Tứ Niệm Xứ là
con đường tu tập truyền thống của ba đời chư Phật.
Đi vào các kinh thuộc Bắc
Tạng, chúng ta cũng sẽ lần lượt tìm thấy một kết luận tương tự về
Thiền định.
Thủ Lăng Nghiêm kinh chỉ
bày con đường vào Lãng Nghiêm đại định để thấy rõ thật pháp hay
chân tâm là con đường hành Thiền quán viên thông các căn, các trần, các
thức, các đại. Thực ra đó là ngõ đường Thiền chỉ và Thiền quán của
Thiền định. Kinh Viên Giác ngoài phần diễn bày viên giác tánh, đã giới
thiệu các pháp tu chỉ, quán, và chỉ quán song tu.
Kinh Pháp Hoa thì đã khéo giới
thiệu Đức Phật nhập Vô Lượng Nghĩa Xứ định rồi xuất Vô Lượng
Nghĩa Xứ định mới tuyên thuyết Pháp Hoa (phẩm Tựa). Đấy là cách diễn
đạt Tri Kiến Phật chỉ xuất hiện từ đại định, hay nói cách khác,
qua con đường Thiền định, hành giả mới đi đến Tri Kiến Phật.
Kim Kim Cang Bát-nhã thì với
bài kệ kết thúc kinh được trình bày như là lời cô kết về con đường
hàng phục vọng tâm, rằng:
"Hết thảy các Pháp
do duyên sanh
Như mộng, như huyễn, như bọt nước
Như sương mai, như ánh chớp
Nên khởi lên cái nhìn như vậy".
(Nhứt thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào ảnh
Như lộ diệc như điển
Ưng tác như thị quán)
Đấy là hình thức hành Thiền
quán về tính vô ngã và vô thường của các pháp, nhìn rõ thấy tính
không thật và tính mong manh của con người và thế giới để rời khỏi lòng
tham ái và chấp thủ.
Pháp tướng Duy thức học là
con đường dẫn đưa hành giả từ tướng trạng vào chân thể. Cơ sở nhận
thức của tông phái này là lý Duyên khởi. Con đường thực hiện là Duy
thức hạnh hay là Duy thức quán mà nội dung quán niệm gồm có năm bậc:
1. Quán nhận thức "biến
kế" là sai lầm, do vì tất cả Pháp là Duyên sinh, nên hết thảy tướng
trạng ấy là hư giả.
2. Quán hết thảy các Pháp
là do "tám thức tâm vương" biến hiện ra, do đó không có thực thể.
3. Quán tâm thức năng biến
và các pháp sở biến đều do duyên sinh, đều nương nhau mà có, nên tất
cả đều không thật.
4. Quán 51 món"tâm sở"
và 24 món "tâm bất tương ưng hành" là do các tâm vương biến hiện
nên không thật.
5.Sau hết, quán "tám thức
tâm vương" do duyên sinh, kỳ thực cũng phi thực.
Cái chân thật sau cùng là
"tánh cảnh" thì rời hết mọi tướng trạng giả hợp. Đây gọi
là Duy thức thật tánh.
Như vậy, con đường vào
"Duy thức thật tánh" là con đường Thiền quán (Vipassana) về
duyên sinh tính, vô ngã tính của các pháp. Đấy là Thiền Định.
Nói tóm, con đường giải
thoát dù được trình bày dưới hình thức nào của các Kinh Nam hay Bắc tạng,
vẫn là con đường Thiền định loại trừ tham ái, chấp thủ và vô minh.
Ở đây, ta có thể kết luận
rằng: Thiền định là con đường tu chính thống nhất của Phật giáo.
Nói rõ hơn nữa, Thiền định là con đường độc nhất đi đến đoạn tận
khổ đau.
Thiền định là pháp môn tu
phù hợp với mọi căn cơ
Người ta thường xem Thiền
là một tông phái của Phật giáo, và gọi là Thiền tông. Đây thật là một
điều nhầm lẫn lớn.
Có người lại xem Thiền Công
án, như chính là con đường Thiền định của Phật giáo, rồi cho rằng
Thiền định chỉ phù hợp với một số ít căn cơ đặc biệt nào đó
(hàng lợi căn), người đời nay vì nghiệp chướng nên phần lớn thích hợp
với con đường Tịnh độ. Đây cũng là một quan niệm giới hạn và lệch
lạc.
Khi đã chứng tỏ Thiền định
là con đường độc nhất đưa đến giải thoát, có nghĩa là mọi người
đi về giải thoát đi trên con đường Thiền định. Dù cho hành giả có muốn
đặt tên nào khác cho con đường tu tập giải thoát, thì đòi hỏi tâm thức
người ấy cũng phải hành Giới, Định, Tuệ, hay nói gọn là hành Thiền
định. Hành giả không thể hành khác đi mà có thể giải thoát các lậu
hoặc.
Truyền thống Thiền định
Phật giáo, chia căn tánh con người làm sáu loại:
1. Căn tánh tham ái (ràga
carita)
2. Căn tánh si mê (moha carita)
3. Căn tánh sân hận (dosa carita)
4. Căn tánh tín ngưỡng (saddhà carita).
5. Căn tánh tri thức, biện giải (buddhi carita)
6. Căn tánh phóng đảng (vitakka carita).
Mỗi người sẽ rơi vào một
trong sáu căn tánh kể trên trong suốt đời hay trong một giai đoạn của cuộc
đời.
Mỗi căn tánh lại có một
số phương thức tu tập Thiền định thích ứng. Chẳng hạn, căn tánh sân
thì đối tượng tu là "từ", căn tánh tham thì đối tượng tu là
"bất tịnh tướng" v.v...
Riêng pháp môn tu Niệm giác
hay Niệm xứ (trừ quán bất tịnh) thì phù hợp cho mọi căn tánh. Thế
tôn đã truyền dạy Pháp Niệm hơi thở vào hơi thở ra (Anàpanasatisuttam, Tương
Ưng Bộ Kinh, V) để an toàn tâm lý cho mọi hành giả thuộc mọi căn cơ.
Do đó, pháp môn Thiền định này hẳn là phù hợp các căn cơ khác nhau của
con người thời đại.
Chúng ta không thể viện ra
bất cứ lý do nào để cho rằng căn cơ mình, điều kiện sống của mình
không thích hợp với con đường Thiền định. Tùy theo điều kiện sống,
giờ giấc, nhận thức, ý chí cầu tu và nỗ lực tu tập của mỗi người
mà kết quả tu tập đến khác nhau sớm hay muộn, nhưng không có một thất
bại nào hay một phản tác dụng tâm lý nào xảy ra.
Xét kỹ nội dung tu tập của
Thiền định Phật giáo, ta cũng có thể nhận ra rằng trong các bước đi
điều hòa hơi thở, điều hòa thân và điều hòa tâm với nhịp độ tu tập
vừa phải thì sẽ không có một sự xáo trộn tâm lý, vật lý nào (kể cả
sinh lý).
Ngày nay, với sự phổ biến
rộng rãi kinh điển của các bộ phái, và với sự tiếp cận dễ dàng với
các Thiền sư các Thiền viện đây đó, thế hệ chúng ta có thêm nhiều
điều kiện tìm hiểu giáo lý sâu rộng và cởi mở, nên dễ ổn định về
nhận thức. Chúng ta có thể phát biểu rằng nói đến Phật giáo là nói
đến Thiền định, như quần chúng Việt Nam thường gọi cửa chùa là cửa
Thiền. Nói đến Thiền định là nói đến Tứ Niệm Xứ hay Đạo đế (37
phẩm trợ đạo). Nói đến con đường tu tập giải thoát của hàng xuất
gia và tại gia là đề cập đến việc học hiểu giáo lý và thực hành
Thiền định. Công việc thực hành Thiền định là công việc chuyển đổi
tâm lý có thể thực hiện được trong các công việc sinh hoạt hằng
ngày, gồm cả việc giảng dạy giáo lý, bố thí, trì giới, tham gia các
công tác xã hội đem lại an lạc và hạnh phúc chung.
Chính ý nghĩa trên của Thiền
định Phật giáo mở ra một hướng thống nhất về quan điểm nhận thức
và tập cho tín đồ Phật giáo của các bộ phái, xóa đi các ngộ nhận
và cố chấp trên đường tu tập để có cái thấy đúng, cái tư duy đúng
về con người giải thoát.
Như thế, Thiền định Tứ
Niệm Xứ là giáo lý có thể được mọi người thực hiện trên một địa
bàng rộng rãi khắp các sinh hoạt xã hội (đi, đứng, nằm, ngồi) từ công
phu giản dị nhất đến công phu tế nhị nhất. Nói gọn là nó mang đủ
ba tính chất: không phân biệt người, không phân biệt nơi chốn, và không
phân biệt thời gian.
Thiền định: hình thức
giáo lý được trình bày một cách giản dị nhưng chứa đựng các công
phu đặc thù
Giáo lý Tứ Niệm Xứ về
"Niệm hơi thở vào hơi thở ra" trình bày với nội dung rất giản
dị, nhưng không vì thế mà chúng ta nghi ngờ về công năng giải thoát của
nó. Nhất là giáo lý này được chính Thế Tôn, bậc Đại Tuệ, tự ngài
thân chứng và giảng dạy. Không có lời dạy nào của Thế Tôn mà lại rỗng
không, không có chứa đựng thực tại giải thoát. Cứ đi vào công phu tu tập,
chúng ta sẽ dần dần thấy rõ cái thực tại giải thoát phong phú nằm ở
đằng sau các ngôn ngữ giản dị của pháp môn Thiền định.
Thiền định Tứ Niệm Xứ
sẽ giúp hành giả tự huấn luyện Niệm lực, Định lực và Tuệ lực. Niệm
là công phu nhìn, quan sát, theo dõi một đối tượng. Nhìn từ điểm khởi
đầu hời hợt chuyển dần đến chuyên sâu, từ trạng thái tâm lý đầy
dao động đến trạng thái vắng lặng, an tỉnh, từ cấp độ tâm bị chi
phối bởi ảnh hưởng từ nội tâm đến ngoại cảnh đến cấp độ làm
chủ, kiểm soát, chế ngự các ảnh hưởng ấy. Công phu nhìn như thế sẽ
giúp hành giả đi ra khỏi các sai lệch và giới hạn của tư duy, tình cảm
và các tâm lý tham, sân, si, mạn, nghi của chính hành giả. Công phu nhìn như
thế sẽ nuôi dưỡng chánh niệm, tỉnh giác là sự có mặt của trí tuệ,
nhân tố soi đường vào giải thoát và tri kiến giải thoát. Tại đây,
các tâm lý và cảm thọ đem lại sầu, bi, khổ, ưu, não chấm dứt; tại
đây sự vật như thật xuất hiện.
Chính cái nhìn chuyện sâu
ấy tạo nên Niệm lực và Định lực, Chánh niệm tỉnh giác tạo nên Tuệ
lực đưa hành giả từ địa vị phàm phu lên địa vị các bậc Thánh Vô
học (Thánh A-la-hán), chứng ngộ quả vị cao nhất của một bậc Đại nhân
.
Suốt quá trình tu tập,
hành giả luôn luôn đối mặt với những chuyển biến tâm lý của tự
thân, thấy rõ phiền não, sự sinh khởi của phiền não, và thấy rõ lối
đi ra khỏi phiền não(hay lối đi vào giải thoát). Hành giả có kinh nghiệm
rất thực, rất là người, không bao giờ cầu xin hay chờ đợi một ân huệ
nào từ đâu, biết rằng hạnh phúc và giải thoát do chính mình tạo bằng
nỗ lực của chính mình trong hiện tại và tại đây. Hạnh phúc ấy có thực,
có mặt trong hướng sống đầy ý nghĩa trong lành ấy.
Chừng nào lòng tham ái và
đắm trước (chấp thủ) lặn mất thì bấy giờ các việc thở vào thở
ra, hay theo dõi hơi thở vào ra, đều là Bà-la- mật, rốt ráo Ba-la-mật.
Thiền định: con đường giáo
dục tâm lý, loại bỏ tức thời các phiền não
Phiền não được nói đến
ở đây là phiền não của hành giả trước khi vào Thiền. Đối với tuổi
trẻ, đây là một vấn đề giáo dục thật chủ yếu. Phiền não cướp
đi mất hạnh phúc và tươi tắn của tuổi trẻ. Nó ngăn trở các nguồn
sáng tạo, làm trì trệ việc phát triển khả năng, làm giảm sút nhiều hiệu
năng tiếp thu của sinh viên, học sinh, có nghĩa làm mất đi nhiều hiệu
năng của việc dạy, học, giáo dục. Nó là đối tượng chính của ngành
tâm lý giáo dục hiện tại. Để giúp cho con người nói chung, tuổi trẻ
nói riêng, hàng phục phiền não, các học đường tiên tiến đã áp dụng
nhiều biện pháp giải trừ mà biện pháp Thiền chỉ và Thiền quán đã
được vận dụng từ ba thập niên trở lại là hiệu lực nhất, dù mức
độ phổ biến còn giới hạn.
Như chúng ta biết, đạo Phật
là đạo đoạn trừ phiền não, khổ đau. Thiền định là con đường trực
tiếp hàng phục nó. Nói thiền định có khả năng hàng phục phiền não
và vô minh là nói đến khả năng hàng phục ở đương niệm, đương thời,
tại đương xứ (nó giản dị là: nó hàng phục phiền não ngay trong hiện
tại và tại đây).
Phiền não có mặt là có mặt
ngay trong ý thức đang trôi chảy (đương niệm), có ý thức nắm giữ nó,
nhìn nhận nó và đầu hàng nó, có khi mê mờ biến nó thành mình. Phiền
não không thể, tuyệt đối không thể, đến với ta bằng ngõ đường nào
khác. Nếu cánh cửa đương niệm (ý niệm tức thời) mở ra và cho phép,
thì nó vào; nếu khép lại thì nó đi. Thiền định và Thiền quán là khả
năng tạo cho đương niệm một cánh cửa tự động luôn luôn khép lại trước
các thứ phiền não.
Giờ ta đi vào quan sát cánh
cửa tự động ấy:
-- Nếu bạn chú tâm vào một
đối tượng như là hơi thở, như đóa hồng, một đóa sen, mơ hồ nước
một thác nước hay một kỷ niệm đẹp của thời thời thơ ấu v.v... thì
bạn sẽ gạt khỏi tâm mình các đối tượng khác, trong đó có các đối
tượng phiền não của bạn. Bạn có thể làm điều đó khi mở mắt đang
đi, đứng, nằm, ngồi, nghĩa là bạn có thể gạt phiền não ra khỏi
đương niệm bất cứ khi nào bạn muốn.
-- Nếu công phu thực hiện
Thiền của bạn đã đến mức phấn khởi, sinh hỷ lạc, thì đương nhiên
các phiền muộn tức bực, chán nản không có chân đứng trong tâm bạn.
-- Nếu bạn, theo phương pháp
Thiền quán nhìn thẳng vào đối tượng phát sinh chản nản, sầu muộn,
phân tích, tìm hiểu nguyên nhân, và các khía cạnh tiêu cực của nó, thì
sầu muộn, chán nản sẽ mắc cở tan đi. Nếu là loại phiền não cấm rễ
sâu vào tâm lý của bạn, bạn sẽ đi con đường suy nghĩ thoát khỏi nó,
bạn sẽ thấy ngay và đi ra khỏi ngay không bao lâu sau, bởi vì nó vốn là
khách trần, là ảnh tượng, bạn có thể mời nó ra khỏi đương niệm, ra
khỏi căn nhà tâm lý của bạn bất cứ lúc nào.
-- Bằng Thiền Quán, bạn
có thể dùng trí tuệ của mình đốt cháy nó. Bạn tự hỏi: nó là gì? Tại
sao ta lại phải khổ đau vì nó? Ta vốn làm chủ và độc lập với nó, tại
sao ta lại vướng mắc vào các bóng dáng, ảnh tượng ấy? Tại sao lại để
nó (phiền não) trói mình? Rồi bạn sẽ thấy buồn cười, sẽ mỉm cười
mình với nụ cười như "nụ cười niêm hoa" của Tôn giả Ca-diếp.
Trong khi thực hiện pháp
quán này, dù bạn chưa đạt được cấp độ của "nụ cười niêm
hoa", phiền não cũng đủ mất hết ảnh hưởng của nó và chết chìm
trong tâm thức của bạn.
-- Nếu bạn biết trú vào
Thiền quán Ngũ uẩn, Mười hai nhân duyên, thì bạn sẽ dễ dàng thấy phiền
não không phải là mình, không phải của mình, không phải là tự ngã của
mình, và dễ dàng buông bỏ nó.
-- Nếu bạn còn có mối
nghi ngờ nào về các điều vừa được trình bày, thì hãy thử làm đi, bạn
sẽ biết liền hư thực.
-- Khi tức giận, khi sợ hãi,
lo âu, bất an, tim bạn thường nhảy loạn. Bạn chỉ cần theo dõi hơi thở
ra vào, đếm từ 1 đến 10 (vào và ra: đếm 1...) và giữ cho hơi thở đều
đặn, điều hòa, thì tim bạn sẽ trở lại bình thường và tâm lý của bạn
sẽ trở lại trạng thái quân bình.
Bạn mất bình tĩnh trước
đám đông, tim cũng nhảy loạn, bạn cứ làm y hệt như thế (điều hòa hơi
thở), bạn sẽ lấy lại khá nhiều bình tĩnh.
-- Chỉ với sự khôn ngoan,
với suy tư giản dị (dĩ nhiên, suy tư giản dị này cũng mang ý nghĩa Thiền
quán) bạn cũng có thể đi ra khỏi rối loạn, phiền não. Bạn hãy từng bước
đặt vấn đề:
a. Có một phiền muộn, nghĩa
là bạn đang để tâm lý mình vướng mắc một phiền muộn. Bạn đang đối
mặt với nỗi phiền muộn trong tâm của bạn. Về mặt tâm lý, bạn hầu
như hoàn toàn tự do trong từng giây phút hiện sinh. Không thực sự có một
bàn tay hay một sức mạnh nào ngoài can thiệp cả. Bạn chịu trách nhiệm
hoàn toàn trong việc nắm giữ hay buông thả nó.
b. Bạn nhìn thẳng vào nỗi
phiền muộn, đừng chạy trốn cũng đừng sợ hãy nó. Với thái độ đó,
phiền muộn sẽ yếu hẳn đi, mất đi nhiều tác dụng trên tâm lý của bạn.
Xét kỹ do nguyên nhân nào nó sinh, bạn sẽ thấy ra chỗ gỡ. Đồng thời
bạn sẽ thấy ra rằng nỗi phiền muộn quấy rầy bạn thì ít, mà chính
cái suy tư rắc rối, bối rối của bạn quấy rầy nhiều hơn. Bởi vì,
trên bề mặt ý thức, phiền muộn ý thức, phiền muộn xuất hiện cũng
như mây trời, như cỏ nội hoa ngàn, tự nó không quấy rầy, châm chích bạn.
Duy chỉ vì bạn chấp chặt nó, suy tư về nó một cách lệch lạc, bệnh
hoạn nào đó, bạn mới hốt hoảng, sầu muộn.
c. Bạn cần nhận ra rằng:
Không ai bốc phiền não ném vào tâm mình cả, mà phiền não cũng không thật
có để quấy rầy mình. Chỉ có một điều duy nhất là bạn biết giữ
cho đương niệm (ý thức hiện tại) đừng dính mắc nó.
Chuyện theo dõi và kiểm
soát đương niệm một cách nhẹ nhàng như vậy là chuyện đơn giản,
nhưng nếu bạn thấy vẫn còn khó thực hiện, thì bạn hãy bắt chước
kinh nghiệm của người đời xưa, bạn tự nói: Thây kệ nó! Để mai hẳn
buồn , hẳn lo ... Rồi các công việc tiếp theo trong ngày, hay một giấc ngủ
con sẽ giúp bạn đi ra khỏi nó. Điều đó có nghĩa là nếu bạn kệ nó,
bỏ qua nó, thì nó qua. Mọi chuyện đời đều đơn giản. Chỉ có suy tư của
rắc rối mà thôi!
Nhìn kỹ vào tâm lý của
mình, bạn sẽ thấy phần lớn các phiền não rối loạn của mình dấy khởi
đều do những tư duy của mình tiếc nuối quá khứ, hay những tư duy không
thiết thực, mơ mộng hão huyền về tương lai. Bạn cần nhận rõ sống
là sống trong hiện tại, sống bằng an lạc của đương niệm, bằng thực
tại có thực đang trôi chảy. Quá khứ và tương lai đều là ảnh tượng,
là những hình ma bóng quế. Từ đây, bạn mới có được một chọn lựa
rõ ràng: nắm giữ hiện tại và buông bỏ những tiếc nuối, những mơ ước,
mộng tưởng.
Thế Tôn đã dạy:
"Không tiếc nuối
quá khứ
Không mơ ước tương lai
Chỉ sống với hiện tại
Người tiếc nuối quá khứ
Và mơ ước tương lai
Dung sắc sẽ khô héo
Như bông lau lìa cành".
(Tương Ưng Bộ Kinh I, phẩm Cây Lau)
" Quá khứ không truy
tìm
Tương lai không ước vọng
Quá khứ đã qua rồi
Tương lai thì chưa đến
Chỉ có Pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây". ...
(Trung Bộ Kinh III, Nhất Dạ Hiền Giả)
Từ một số ý kiến vừa
trình bày, bạn hãy trầm tư và thực hiện. Thiền định chỉ cho ta trách
nhiệm về chính sự vui, khổ của mình. Không đổ lỗi, cũng không chờ đợi
một phép lạ nào khác. Chúng ta cần mãi nhớ rằng cái chìa khóa của kho
tàng tâm thức , của hạnh phúc muôn đời đang ở trong tay mình, nó rất gần
gũi và giản dị, nếu mình nhận ra điều đó .
Thiền định giữ vị trí cần
yếu trong việc xây dựng một mẫu người giáo dục tốt
1. Thiền định là con đường
trở về với tự trách nhiệm, tự tri, tự giác, tự chế, tự lập... cho
ta niềm tin xây dựng được một mẫu người giáo dục tốt
Các hệ tư tưởng Hy Lạp,
Ấn Độ, Trung Hoa và các hệ tư tưởng thời nay có thể được xếp vào
một trong ba phạm trù sau đây:
-- Hệ tư tưởng ngôi thứ
ba: Đây là những hệ tư tưởng chấp nhận có một chân lý hoàn toàn
khách quan ở ngoài thiên nhiên (thế giới hiện tượng) và con người. Chân
lý đó được hiểu như là một đấng tối cao sáng tạo ra vũ trụ và con
người, và quyết định số phận con người cùng các lẽ thiện, ác.
-- Hệ tư tưởng ngôi thứ
hai: Là những hệ tư tưởng cho rằng có một chân lý khách quan, nằm trong
hiện tượng giới, ở thế giới khách quan độc lập với con người.
-- Hệ tư tưởng ngôi thứ
nhất: Hai nhóm hệ tư tưởng là hai nhóm triết lý vong thể (hay tha hóa), bởi
vì chúng đã đánh mất con người, đưa con người đến một thân phận khốn
cùng.
Để giải thoát ra khỏi
thân phận bi đát ấy, con người đã vùng dậy khắp trái đất nói lên tiếng
nói rất người đánh thức mình trở về chính mình. Ở đó, hy vọng sẽ
tìm thấy hạnh phúc và sự thật buộc đời. Những tiếng nói của buổi
đầu như "Thượng đế đã chết", "con người là thước đo
vũ trụ", "con người đặt để Thượng đế", "con người
đánh giá mọi thứ", "con người là chủ nhân ông ...". Đó là
giai đoạn triết lý phản tỉnh, khởi đầu bằng các làn sóng "hiện
sinh" (Existentialism), tiếp đến là các thuyết nhân bản. Tổ chức
nhân quyền của Liên Hiệp Quốc cũng nhấn mạnh đến con người, vì con
người và cho con người. Đó là hệ tư tưởng ngôi thứ nhất.
Con người đích thực của
hiện sinh: con người của giáo lý Vô ngã: Nhưng con người là một hiện
hữu phức tạp của một tổng hợp thể vật lý (sắc uẩn), tâm lý, tình
cảm, ý chí và trí tuệ (thọ, tưởng, hành và thức uẩn). Nó đứng giữa
đám sương mù của tim và óc, của quá khứ, hiện tại và tương lai. Sự
trở về của hệ tư tưởng phản tỉnh ngôi thứ nhất là sự trở về với
con người đầy sương mù ấy và không nhận ra nẻo vào con người đích
thực của hiện sinh, con người của hạnh phúc và chân lý. Thiền định
thật sự chỉ nẻo về con người đích thực ấy: con người đi ra khỏi
những tiếc nuối về quá khứ, những mơ ước về tương lai, và không bị
cuốn trôi bởi dòng thác ham muốn và sầu hận của hiện tại. Đấy là
con đường tự chủ, tự tri, tự trách nhiệm, tự phát triển bản thân.
Tinh thần "tự" ấy lấy mình làm hòn đảo, làm nơi nương tựa
cho chính mình, là tinh thần chỉ đạo cho một hệ thống giáo dục xây dựng
một mẫu người đầy tính người. Ở mặt dân tộc, nó biểu hiện ra
tinh thần độc lập, tự cường, tự trọng, bất vọng ngoại, bất khuất,
là một trong những đòi hỏi cần thiết mà xã hội Việt Nam muốn học
đường Việt Nam đáp ứng.
2. Chân lý, tự do và hạnh
phúc
Hai khát vọng thống thiết
nhất của con người là hạnh phúc và chân lý (hẳn nhiên là bao gồm tự
do). Lịch sử của nhân loại là lịch sử đi tìm kiếm hai đối tượng đó.
Không ai có thể phủ nhận rằng con người sinh ra để sống hạnh phúc, chứ
không phải để khổ đau hay vì mục tiêu nào khác. Các mục tiêu lý tưởng
khác sở dĩ có giá trị, được chấp nhận là vì chúng phục vụ cho giá
trị tối thượng: con người và hạnh phúc thật sự của con người. Thấy
hạnh phúc, mang theo nó ý nghĩa thấy rõ mình và cuộc đời, là thấy sự
thật.
Cho đến nay, người ta vẫn
tiếp tục hỏi và trả lời về hạnh phúc và chân lý. Nghĩa là người ta
đang ở trên con đường tìm kiếm chúng. Đó là lý do của sự tồn tại
và phát triển của các tư tưởng hệ. Chừng nào nắm được hạnh phúc
và chân lý, hay có niềm tin vững chắc vào một con đường dẫn đến hạnh
phúc và chân lý, con người sẽ ngưng ngay vai trò của triết lý, khép cửa
lại tư tưởng hệ. Chừng nào còn tiếp tục tìm kiếm, phó thác vận mệnh
mình cho trí thức (nghĩa là cho các hệ tư tưởng), con người còn tiếp tục
thất vọng dài dài trong thân phận: "mờ mờ nhân ảnh của người đi
đêm" (Cung Oán Ngâm Khúc, Ôn Như Hầu).
Con người khát khao hít thở
hạnh phúc và chân lý như khát khao chung sống với người yêu của họ, chứ
không phải nói về người yêu cho đỡ nhớ, như triết lý; hay ngắm nhìn
ảnh tượng của người yêu, như tôn giáo hình thức. Thiền định sẽ giúp
con người ra khỏi ngõ đường thất vọng kia, đến gặp mặt người yêu
- hạnh phúc - chân lý của họ.
Niềm hỷ, lạc của Sơ thiền
đến Tứ thiền sẽ là những cảm nhận hạnh phúc với tần số rung động
do vật chất hay do tương giao xã hội đem lại. Cũng từ Sơ thiền đến Tứ
thiền, qua tuệ quán, con người có thể đắc quả Thánh từ Tu-đà-hoàn đến
A-la-hán thấy được sự thật của cuộc đời. Đây là con đường sống
rất thực, đang mở cửa rộng vẫy mời chúng ta và thách thức chúng ta
đi vào thể nghiệm.
Tại đây, nếu giả định
rằng con người chấp nhận Thiền định là con đường đưa đến hạnh phúc
và chân lý, thì cuộc đời sẽ chấm dứt ngay các cuộc nút chiến về tư
tưởng hệ, sẽ chấm dứt ngay các cuộc chiến do bất đồng quan điểm về
con người ấy, và sẽ tiết kiệm được những khoản chi phí khổng lồ về
giấy mực, bom đạn ... và rất nhiều xương máu. Chúng ta thấy rõ một phương
trời sáng, an lạc, hạnh phúc của nhân loại mở ra ngay trước mắt.
3. Các tinh thần giáo dục của
Thiền định
Thiền định giáo dục ta
tích cực chấp nhận mình và xã hội mình đang sống, phấn đấu khắc phục
mọi khó khăn, không tiêu cực chạy trốn, và thể hiện một số tinh thần
vừa cải thiện cá nhân vừa đóng góp vào việc xây dựng xã hội:
-- Thiền quán về lý Duyên
sinh, Vô ngã sẽ giúp ta có thái độ sống lành mạnh, thản nhiên trước mọi
biến chuyển và phát triển lòng dũng cảm, đức tính vô úy (không sợ
hãi).
-- Huấn luyện tâm lý rời
xa các điều ác và bất thiện dẫn đến hai thái độ sống tích cực:
tránh mọi việc làm phương hại đến tập thể và tha nhân, làm các việc
làm đem lại lợi ích cho tha nhân và tập thể.
-- Hướng tu tập xả bỏ vị
kỷ của Thiền định là hiện thân của lòng vị tha, có thể giúp người
biết xả thân vì xã hội.
-- Tinh thần không tham ái
giúp người ta tránh tham nhũng, biết sống cần kiệm, liêm chính. Tại đây,
có cơ sở tâm lý vững chắc trong việc bày trừ tham nhũng xã hội. Tiếng
nói của nó sẽ hữu hiệu hơn bất cứ tiếng nói nào khác nhân danh luật
pháp hay một đấng tối cao nào, thiều nền tảng tâm lý đầy tính người.
-- Tinh thần tu tập đập vỡ
các sân hận và tính cố chấp sẽ là nhân tố tốt nhất cho một tinh thần
tập thể tích cực. Nó mở ra một hướng văn hóa khai phóng đầy tính người
và tạo dựng được tốt đẹp tình đoàn kết keo sơn của dân tộc, yếu
tố quan yếu nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của dân tộc
Việt Nam.
-- Tinh thần tinh cần, không
buông lung, không phóng dật, không lười biếng, sẽ phá đổ các căn bệnh
tiêu cực của xã hội.
-- Thiền chỉ và Thiền
quán (hay định và tuệ) sẽ là những nút bấm làm bung vỡ các nguồn
sáng đã đóng góp lớn lao vào công việc kiến tạo xã hội và xây dựng
văn hóa và văn minh.
-- Tinh thần tự chủ, trở
về nương tựa chính mình của Thiền định sẽ là nhân tố chính của
tinh thần độc lập của dân tộc, mở ra một nền văn hóa rất là dân tộc,
mang đầy Việt tính.
Thời đại Lý Trần chịu
ảnh hưởng lớn của giáo lý Thiền định của Phật giáo, dù chưa thể
hiện đúng mức những giá trị của một nền văn hóa Thiền định, đã
là những thời đại vàng son của lịch sử: anh dũng đánh thắng giặc
ngoài đầy hung bạo, đoàn kết dân tộc keo sơn, và tổ chức tốt các mặt
văn hóa, xã hội, học thuật và quốc phòng. Hai thời đại đó cho ta niềm
tin về những đóng góp tích cực của một nền văn hóa Thiền định trong
việc dựng xây con người và xã hội Việt Nam tốt đẹp.
Từ một số nhận thức cơ
bản trên về Thiền định , chúng ta có thể ổn định tâm lý tự thân về
cả hai mặt: an toàn tâm lý trong việc tu tập của cá nhân và đáp ứng
được thao thức chung về việc góp phần xây dựng một cuộc sống hạnh
phúc cho con người.
(Trích: "Tìm Vào Thực
Tại", Sài gòn, 1997)