ây là pháp niệm
A-na-ba-na (Anàpànasati - quán hơi thở) mà trong luật bản đã nói đến. Sau
đây tôi sẽ trình bày đầy đủ về câu văn và ý nghĩa pháp thiền vô thượng
mà đức Phật dạy cho các Tỳ kheo. Các vị hãy chú tâm lắng nghe để ghi
nhận.
Tỳ kheo hiện tại này, Phật bảo các Tỳ kheo: - Không chỉ
có tu tập pháp quán bất tịnh mới trừ diệt được phiền não mà pháp
quán hơi thở này cũng trừ diệt được phiền não.
Pháp sư nói: - Tuần tự sẽ giảng rộng, A-na-ba-na nghĩa là
hít vào và thở ra. Như trong kinh có dạy: Tướng trạng hít vào không phải
là tướng thở ra, tướng thở ra không phải là tướng hít vào, niệm hơi
thở vào, niệm hơi thở ra, niệm hơi thở ra vào thì tâm được định. Niệm
hơi thở vào hơi thở ra chính là chánh định. Các vị hãy biết rõ ý nghĩa
như vậy.
Sổ quán nghĩa là nuôi dưỡng (chánh niệm) làm cho tăng lên.
Làm lại nghĩa là tư duy đi, tư duy lại đến giai đoạn rất
tịnh hảo.
Hỏi: - Hai pháp này ý nghĩa thế nào?
Đáp: - Không giống như, bởi vì A-na-ba-na làm cho tâm không
còn loạn động còn quán bất tịnh thường làm cho tâm không ổn định. Tại
sao? Vì nhàm chán. Trong luật bản có nói: Pháp này rất an tịnh vi diệu tăng
thêm làm cho an lạc mãi, ngay từ khi mới phát tâm cũng đã không bị não
loạn nên Như Lai khen ngợi pháp này rất tốt đẹp an tịnh, có khí vi,
làm cho thân tâm hoan hỷ thoải mái, dễ thâm nhập.
Pháp khởi là không bị trụ lại, không bị che đậy làm
cho pháp ác bị tiêu diệt rất nhanh, đạt bốn đạo quả tùy theo khả năng.
Như vào nửa tháng không mưa giữa mùa xuân, voi, ngựa, người, bò dẫm đạp
làm cho bụi bay khắp không trung. Vào tháng năm đầu mùa hạ mưa to gió lớn
làm cho trên không chẳng còn chút bụi nào nữa. Pháp quán A-na-ba-na diệt
trừ phiền não như mưa làm mất bụi.
Phật bảo các Tỳ kheo: - Đối với pháp thiền định
A-na-ba-na (anàpànasatisamàdhi) thì tư duy, chánh niệm và hành trì như thế nào
để biết tu tập về niệm hơi thở. Các Tỳ kheo, người nào (vì lòng tốt
mà) xuất gia học đạo, ở tại nơi trống vắng, dưới gốc cây, nơi rừng
núi là những nơi đưa đến sự an tịnh.
Hỏi: - Thế nào là đưa đến sự an tịnh?
Đáp: - Tránh xa nơi ồn ào. Như người chăn bò có một con
bò nghé phải bú sữa mẹ từ khi mới sinh ra cho đến khi lớn. Khi muốn lấy
sữa bò mẹ, phải cột bò nghé vào cây trụ. Bò nghé nhớ sữa nên cứ
kéo dây và đạp chân liên tục. Do dây chắc, trụ cứng nên con nghé không
thoát ra được phải dựa trụ mà thở. Tỳ kheo như người chăn bò, bò mẹ
như làng xóm, tâm là con nghé, sữa là năm dục, cây trụ là A-lan-nhã, dây
cột là pháp niệm hơi thở, tất cả thiền định về niệm hơi thở là
pháp được chư Phật, A-la-hán, Duyên giác tôn trọng. Nếu không xa lánh
làng xóm tụ lạc thì tu tập niệm hơi thở khó có kết quả. Tỳ kheo tu
thiền nào nắm rõ được định này rồi, tức là thâm nhập vào thiền thứ
tư và lấy đó làm nơi y cứ để quán sát về khổ, không, vô ngã. Khi
quán sát được thành tựu thì chứng quả A-la-hán. Do đó, vì người tu tập
thiền mà đức Phật quy định về trú xứ A-lan-nhã. Đức Phật như thầy
địa lý (vatthuvijjàcariya) muốn xây dựng thành phố, đất nước phải biết
phân biệt rõ tướng tốt xấu của các thế đất và tâu vua rằng vùng đất
này tốt có thể dựng nước, lập làng xóm... thì vua được lợi lớn.
Nghe theo lời, nhà vua cho dựng nước, làng xóm và ban thưởng
cho thầy địa lý. Đức Phật cũng vậy, biết rõ về các cảnh giới thiền
nên nói với người tu tập thiền rằng pháp này dễ thành tựu được thiền.
Nghe lời và làm theo Phật dạy, những người tu thiền tuần tự chứng quả
A-la-hán, khen ngợi đức Phật cũng như nhà vua tạ ơn thầy địa lý. Những
người tu thiền như sư tử ở trong rừng rậm ẩn kín thân để rình cầm
thú. Con nào đến gần, sư tử liền vọt ra bắt ăn thịt. Cũng vậy, Tỳ
kheo sống ở nơi A-lan-nhã theo dõi từng đạo quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm,
A-na-hàm, A-la-hán và tuần tự chứng đắc theo từng quả vị. Xưa có bài
kệ:
Cũng như vua sư tử,
Ở ẩn trong núi rừng,
Rình các thú đến gần,
Liền bắt ngay, ăn thịt,
Phật tử cũng như vậy,
Ẩn cư nơi yên tịnh,
Tu tập đạo vô thượng,
Chứng đắc quả sa-môn.
Dưới gốc cây (Rukkhamùlagata) là ngồi hay kinh hành dưới
gốc cây.
Tịnh thất (sunnàgàragata), là trừ dưới gốc cây và chỗ
A-lan-nhã ra, các chỗ ở yên tịnh khác đều gọi là tịnh thất. Thời tiết
thích hợp với thân thể là thuận tiện cho việc tu tập niệm hơi thở.
Thế nên trong luật nói: Ngồi kiết già, đó là biểu hiện sự tu tập niệm
hơi thở... cũng dễ hiểu.
Ngồi kiết già, dễ hiểu.
Ngồi thẳng là 18 đốt xương sống nối thẳng nhau, thư thả
lỏng gân, mạch, da. Nếu ngồi mà giữ cứng các cơ thì rất nhanh mệt nhọc
và thối thất khỏi thiền. Đặt niệm ở trước (mặt) (parimukham), là
chánh niệm vào pháp thiền và đặt nó trước mặt.
Hơi thở vào ra, là sau khi ngồi kiết già ổn định, Tỳ
kheo chánh niệm tỉnh giác niệm hơi thở vào ra như sau: Biết rõ thở hơi
dài, biết rõ thở hơi ngắn. Nhờ biết rõ hơi thở dài ngắn nên tâm được
tịnh, không còn tán loạn; nhờ không tán loạn nên thành tựu chánh niệm.
Nhờ niệm và tuệ phát sinh nên biết rõ hơi thở dài, ngắn. Như đứa bé
trong thai, mới vừa ra khỏi thai; (hành giả) có thể biết được hơi thở
dài hay ngắn ban đầu của nó.
Biết như thế nào? Cũng như nước chảy tùy theo vật dài
ngắn, như voi và rắn vì thân to, dài nên hơi thở vì vậy mà dài, thân
con ếch ngắn nên hơi thở ngắn. Tỳ kheo tọa thiền cũng vậy, nhờ ví dụ
này mà biết hơi thở dài ngắn, nhờ chánh niệm nên tâm sinh lạc, nhờ lạc
nên hơi thở ra vào dài và vi tế. Tâm trở nên an lạc nhờ hơi thở ra vào
và càng an lạc thì hơi thở càng nhẹ và dài. Nhờ lạc nên tâm hoan hỷ
và thêm hoan hỷ nửa, hơi thở nhờ vậy càng thêm vi tế khó phân biệt
và tiến đến tâm xả. Đây là chín pháp (nava àkàrà), các vị hãy biết
lấy.
Biết rõ toàn thân, ta thở ra; biết rõ toàn thân, ta thở
vào, biết rõ hơi thở vào ra toàn thân; biết rõ hơi thở dài, ngắn, trước,
giữa, sau một cách rõ ràng, bằng tâm biết rõ sự biết này, biết hơi thở
trước và sau. Lại nữa, có Tỳ kheo tu tập thiền thấy hơi thở ra như rải
bụi. Thấy rõ trong hiện tại, thấy bắt đầu thở ra, không thấy giữa
và sau, muốn thấy giữa và sau thì tâm cũng không cảm nhận được. Lại
nữa, khi đã thở ra thì chỉ thấy hơi thở ở giữa chứ không thấy hơi
thở trước và sau. Lại nữa, khi thấy hơi thở ra ở đoạn sau thì không
thấy hơi thở ở đoạn đầu và giữa.
Lại có Tỳ kheo thấy rõ hơi thở ở cả ba giai đoạn đầu,
giữa, cuối vì tâm vị ấy không có mệt mỏi. Ai đạt được như vậy là
thiện xảo với pháp thở ra vào.
Người học về thiền này không nghỉ, không ngưng lại, luôn
luôn quán sát hơi thở ra vào thì hộ trì được ba nghiệp thân, miệng,
ý, gọi là giới học và định, tuệ. Tâm định gọi là định-học. Nếu
phân biệt rõ được giới và định thì gọi là tuệ. Đây là ba học. Đối
với quán xứ này, dùng chánh niệm đem tâm tùy thuận theo pháp đã học
và liên tục duy trì như vậy cho đến về sau. Người nào chuyên cần học
như vậy sẽ diệt được hơi thở vào, hơi thở ra. Phần thô của hơi thở
ra và vào bị diệt. Diệt nghĩa là (diệt) sự trú vào (phần thô). Thô là
gì? Tỳ kheo mới vào thiền thì thân tâm mệt mỏi nên hơi thở ra vào thô
nặng đầy cả hai lỗ mũi và theo miệng thở ra vào nên thô. Khi thân tâm
không còn mệt nhọc thì hơi thở dần dần nhẹ đến vi tế và Tỳ kheo sẽ
sinh ý nghĩ phân vân ta còn có hơi thở ra vào hay không. Như người leo lên
núi cao, thân tâm mệt nhọc, hơi thở nặng nề, nhưng lúc đi xuống núi đến
chỗ bằng phẳng, có ao nước và cây lớn. Người này sau khi xuống ao tắm,
đến nghỉ dưới bóng cây, hoặc ngủ hoặc ngồi nghỉ, thân tâm trở nên
mát mẻ và hơi thở trở nên nhẹ nhàng vi tế. Tỳ kheo vừa nhập định
cũng như vậy, khi chưa điều phục đuợc thân tâm nên hơi thở ra vào thô
nặng. Vì sao? Vì không chánh niệm. Niệm trở nên vi tế vì điều phục
được thân tâm. Như có bài kệ:
Thân tâm rất mệt nhọc,
Nên hơi thở thô nặng.
Thiền thứ nhất thô (olàrika), thiền thứ hai vi tế
(sukhuma), thiền thứ ba tế hơn thiền thứ tư là định. Thiền thứ ba là
thô, thiền thứ tư gọi là tế. Đây là chỗ tận cùng của hơi thở. Nếu
không giữ lấy hơi thở thì hơi thở vào ra thô, nếu giữ hơi thở vào ra
thì hơi thở tế. Không giữ nghĩa là thả hơi thở. Giữ hơi thở nghĩa là
bắt đầu thiền thứ tư chỉ còn giữ tâm, đến khi vào thiền thứ tư thì
không còn hơi thở vào ra. Đây gọi là pháp Xá-ma-đà (samatha - thiền chỉ).
Pháp Tỳ-bà-xá-na (vipassanà - thiền quán) không giữ phần
rất thô của hơi thở ra vào, quán sát bốn đại là tế, nếu quán
Ưu-ba-đà-na sắc tế (upàdàrùpapariggahe sukhuma - sở tạo sắc biến thủ
vi tế), sắc thô (năm căn và năm cảnh - người dịch) do bốn đại
tạo thành. Lại quán sát tất cả sắc tế, sắc thô do bốn đại tạo thành,
lại quán vô-sắc tế, tất cả sắc thô sở tạo. Lại quán sắc và vô sắc
tế, vô sắc sở tạo thô, lại quán nhân duyên tế, sắc và vô sắc sở tạo
thô. Lại quán nhân và danh sắc tế, nhân duyên sở tạo thô. Lại quán tướng
quán tỳ-bà-xá-na tế, nhân và danh sắc sở tạo thô, quán tiểu tỳ-bà-xá-na
tế, quán tướng tỳ-bà-xá-na sở tạo thô, quán đại tỳ-bà-xá-na tế,
quán tiểu tỳ-bà-xá-na sở tạo thô. Theo thứ tự như trước, thứ tự
trước là tế, sau dần là thô. Thô tế Ba-tát-đề (Passaddhi - yên tịnh
không mệt nhọc) được nói trong Tam-bạt-đà (patisambhidà).
Hỏi: - Thế nào là học về diệt hơi thở ra, hơi thở vào?
Thế nào là hơi thở ra? Thế nào là hơi thở vào?
Đáp: - Niệm về thân có hơi thở vào, học diệt hơi thở
ra và hơi thở vào, nhờ vậy thân tâm không nghiêng ngả, rút lại, lay động,
yên tịnh đến vi tế cực độ như không còn thân. Đây gọi là học diệt
hơi thở vào hơi thở ra. Với hơi gió an trụ như vậy mà chưa thành tựu
niệm a-na-ba-na thì cũng chưa thành tựu quán, chưa thành tựu trí tuệ thì
chưa vào được định này và cũng chưa xuất định này. Nếu học diệt hơi
thở vào, hơi thở ra mà thành tựu thì hơi gió an trụ không còn sinh nữa,
gọi là đã mở được trí tuệ hoàn toàn. Người nhập được vào pháp
này thì cũng từ đó xuất ra được.
Tại sao biết được? Ví như đánh vào vật bằng đồng, bắt
đầu phát tiếng to sau đó nhỏ dần. Đã nhớ rõ tiếng lớn thì sau đó cũng
ghi nhớ rõ tiếng nhỏ dần trong tâm. Sa đó tiếng nhỏ dần rồi mất hẳn
nhưng âm thanh vẫn còn ghi trong tâm. Hơi thở ra, hơi thở vào cũng như vậy,
trước thô sau vi tế, ghi nhận bắt đầu là thô và dần dần đến tế.
Đến khi tế thì hơi thở không còn, nhưng vẫn còn ghi nhớ trong tâm, do sự
ghi nhớ ấy nên tâm định trụ. Như vậy là đắc (định nhờ) hơi thở về
gió. Tâm đã định trụ do tập luyện mà thành tựu về quán hơi thở vào,
thở ra. Như vậy là thành tựu về định hơi thở vào hơi thở ra. Người
trí nhập vào và xuất khỏi định này do sự chứng đạt trên. Do đó,
trong luật nói rằng diệt hơi thở ra, hơi thở vào rồi thì sau đó (có thể)
tùy theo niệm mà phát sinh, nên gọi là tùy quán.
Biết rõ hơi thở vào, hơi thở ra không phải tùy niệm,
tùy niệm cũng không phải hơi thở vào hơi thở ra. Nhờ hai pháp này, biết
quán sát rõ về thân này nhờ đó chứng đắc quả A-la-hán. Người mới học
thiền phải học theo trình tự sau: Tỳ kheo với tâm thiện phải hộ trì
thanh tịnh bốn loại giới.
Thanh tịnh có ba:
Một, không phạm giới.
Hai, lỡ phạm phải sám hối.
Ba, không bị các phiền não phá hoại.
Hộ trì giới thanh tịnh như vậy thì thành tựu chánh niệm
và đồng thời nên làm phòng Phật, xây dựng khu vực cây Bồ đề, làm
phòng tắm cho hòa thượng, A-xà-lê; làm nhà thuyết giới. Trong phần xây cất
phòng xá thuộc 82 kiền-đà-ca có nói đến bốn loại xây cất như vậy
(cetiyangavatta- bodhiyanganavatta- upajjhàyavatta- àcariyavatta- jantàgharavatta-
uposathàgàravatta- dvevisatikhandhakavattàni-cuddasavidhamahàvatta). (Ai) thực hiện
được như vậy là khéo trì giới. Tỳ kheo nào ưa thích học giới này
nên giữ đầy đủ. Nếu Tỳ kheo nói: Tôi giữ giới đầy đủ không bị
hư khuyết, mà không (suy nghĩ rằng ta sẽ chết nên từ bỏ các việc làm
vô ích khác, để chăm chỉ chuyên cần trì giới. Tỳ kheo như vậy mà đầy
đủ giới thì không thể có. Tỳ kheo nào khéo giữ giới thì Tỳ kheo ấy
viên mãn về giới. Nhờ viên mãn giới nên đắc định. Tại sao? Như trong
kinh có nói: Phật bảo các Tỳ kheo rằng nếu người không học tập hoàn
hảo về giới thì giới của người ấy khó đầy đủ. Có bài kệ:
Chùa, gia định, lợi dưỡng,
Chúng, xây dựng là năm,
Đi chơi, thân thuộc, bệnh,
Đọc, thần thông là mười.
Ai có thể xa lìa mười pháp quyến luyến này
(dasa-palibodhà - mười pháp trở ngại cho sự giác ngộ) thì sau đó mới
có thể nhập định. Pháp thiền định có hai loại. Một là quán tất cả
(sabbatha kammatthàna). Hai là nhiếp thân thuộc (parihàriya kammatthàna).
Hỏi: - Thế nào là quán tất cả?
Đáp: - Đầu tiên là đối với Tỳ kheo tăng, có tâm đại
bi, niệm chết, quán bất tịnh. Tỳ kheo có tâm từ thì bắt đầu quán từ
tâm này như thế nào. Khi bắt đầu quán, Tỳ kheo phải quán theo từng phạm
vi. Đầu tiên là quán về Tỳ kheo tăng, sau đó là quán về các vị trời,
người sau đó quán về đại phú gia, rồi quán đến người thường, sau
đó quán đến khắp cả chúng sinh.
Hỏi: - Vì sao phải quán tâm từ về Tỳ kheo tăng trước?
Đáp: - Vì sống chung. Nếu tâm từ bao phủ khắp chúng Tỳ
kheo thì được sống an lạc.
Hỏi: - Vì sao phải quán tâm từ về các vị trời?
Đáp: - Vì sự hộ trì, nếu tâm từ bao phủ khắp chư thiên
thì chư thiên làm theo thiện pháp với tâm nhu hòa.
Hỏi: - Tại sao phải quán tâm từ về đại phú gia?
Đáp: - Để họ làm theo pháp thiện.
Hỏi: - Tại sao phải quán tâm từ về người thường?
Đáp: - Vì cùng hành pháp như nhau nên không hại nhau.
Hỏi: - Tại sao phải quán tâm từ về tất cả chúng sinh?
Đáp: - Vì cho chúng không còn khổ nạn.
Hỏi: - Tại sao phải niệm cái chết?
Đáp: - Để tăng trưởng tâm thương mình nên không còn biếng
nhác.
Quán bất tịnh là thánh quán. Quán pháp bất tịnh này thì
được xa lìa dục và tất cả pháp ác. Dục là căn bản, nên phải tôn trọng
pháp quán bất tịnh vì nó thành lập được các pháp thiện, nên gọi là
quán tất cả.
Đối với 38 pháp quán (atthatimsàrammanàni), tùy ý tu tập,
tu tập liên tục thì gọi là nhiếp quán. Đây gọi là niệm a-na-ba-na thể
nhập nhiếp quán.
Pháp sư nói: - Nay tôi nói lược, vị nào muốn biết rõ
thì xem đủ trong A-tỳ-đàm Bà-sa (Visuddhimagga).
Giữ tịnh giới như vậy và xa lìa các duyên sự
(upacchinnapalibodha) thì nhập định a-na-ba-la. Nhờ vào định a-na-ba-na nên
đi sâu vào bốn thiền và tiếp theo là quán khổ, không, vô thường. Quán
như vậy rồi, đến hỏi vị A-la-hán. Nếu không có vị A-la-hán thì hỏi
vị A-na-hàm. Nếu không có vị A-na-hàm thì hỏi vị Tư-đà-hàm, nếu
không có vị Tư-đà-hàm thì hỏi vị Tu-đà-hoàn. Nếu không có vị Tu-đà-hoàn
thì đến hỏi vị đã đắc thiền.
Hỏi: - Tại sao phải hỏi những vị như vậy?
Đáp: - Những vị ấy đã đắc thiền nên dễ chỉ dẫn
cho ta.
Ví như theo dấu chân voi thì dễ tìm đường, không bị lạc
lối. Người đắc đạo, đắc thiền cũng như vậy. Tại sao? Vì chỉ dạy
cho ta dễ dàng.
Pháp sư nói: - Tôi sẽ nói bước đầu về sự tu tập. Vị
Tỳ kheo với trang phục gọn gàng đơn giản, không chứa vật dư, đầy đủ
uy nghi đi đến gặp vị thầy. Đến nơi, hành giả phải phục vụ (vatta)
hoàn toàn theo ý muốn của vị thầy. Từ từ, vị thầy với lòng thương
nên cho nhận năm việc. Đó là: lấy, hỏi, bắt đầu, giữ, tướng.
- Lấy (thủ) là cho nhận lấy pháp thiền.
- Hỏi là được hỏi theo trình tự.
- Bắt đầu là đi vào pháp thiền định.
- Giữ là giữ vững lấy pháp thiền định.
- Tướng là phân biệt tướng mạo thiền định.
Đây là năm phần.
Bước đầu phải nhận lấy năm phần ấy vì làm cho thân
thể không mệt nhọc và không làm cho thầy dạy bị mệt nhọc. Năm phần
này dễ ghi nhớ và dễ tu tập theo nên được dạy trước.
Nhận lấy năm phần này rồi, nếu tại chỗ ở của thầy
thuận tiện thì ở lại, nếu không tiện thì đi ở nơi khác. Người không
có trí tuệ thì ở cách xa thầy một do-tuần. Người có trị tuệ thì
được ở xa hơn. Nên xa lìa 18 loại trú xứ thì tốt (Atthàrasesanàsana).
Có năm chỗ ở nên nhận (Pancasenàsana). Nhận rồi nên chấm dứt các công
việc nhỏ nhặt, sau khi dùng bữa trưa nên nghỉ ngơi một chút. Sau khi nghỉ
trưa xong, nên niệm đến Tam bảo làm cho tâm hoan hỷ. Phải theo lời thầy
dạy, không được quên mất. Phải ghi nhớ rõ pháp a-na-ba-na này trong tâm.
Pháp sư nói: - Tôi đã nói sơ lược, trong a-tỳ-đàm nói rộng
hơn, ông hãy tìm hiểu lấy.
Ghi nhận trong tâm là đếm, theo dõi (tùy), xúc chạm, an
trí, quan sát, quay lại, thanh tịnh, quán sát lại (ganàna anubadhanà thabanà
sallakkhanà vivattanà pàrisuddhi tesan ca patipassanà).
- Đếm là bắt đầu với số một, hai.
- Theo dõi là ghi nhận liên tục hơi thở ra vào.
- Xúc chạm là nơi hơi thở tiếp xúc (khi ra vào).
- An trí là đạo.
- Tịnh là kết quả.
- Quán lại là pháp tướng.
Với người mới học, ban đầu niệm rõ trong tâm pháp đếm
số mà bắt đầu từ số nhỏ từ một đến năm và đếm trở lại, không
được chỉ đếm đến ba hay bốn. Số lớn hơn là đếm từ một đến
mười rồi đếm ngược lại, không được đếm đến tám, chín.
Hỏi: - Nếu đếm chỉ đến ba hay bốn thì có gì không tốt?
Đáp: - Nếu hơi thở bị thúc ép thì khó điều khiển được
tâm, như trong chuồng có quá nhiều bò đang chen chúc lấn ép nhau thì chúng
sẽ phá chuồng để ra. Nếu đếm đủ mười thì thân thể thoải mái như
chuồng rộng rãi. Chuồng rộng thì bò được nuôi dưỡng dễ dàng.
Hỏi: - Nếu đếm đến tám, chín thì có gì không tốt?
Đáp: - Không làm cho nhầm lẫn nhưng sinh tâm phân vân, hoặc
cho rằng ta được thiền vị, nên sinh tâm mê hoặc. Với lỗi lầm như vậy,
ông hãy từ bỏ. Nếu đếm hơi thở mà đếm rõ chậm rãi từ từ từng số,
thì như người đong ngũ cốc, đầu tiên đổ vào cho đầy rồi mới đếm
một, sau đó mới đong phần ấy sang. Nếu có cỏ đất thì ông ta nhặt vứt
bỏ ra, khi đổ vào đầy và đếm hai (rồi mới đong), tuần tự đong như
vậy cho đến mười. Tỳ kheo tọa thiền đếm số (trước) hơi thở ra vào
cũng như vậy.
Nếu đếm nhanh thì như mục đồng đếm bò. Đếm như thế
nào?
Mục đồng có trí, tay cầm roi, ngồi ngay trên trụ cửa
chuồng, dùng viên...làm số (sakkaram khipitvà) (để đếm) và lùa bò ra
ngoài. Khi lùa bò ra thì ông ta bắt đầu đếm một, hai,ba, bốn, năm... đến
mười con.
Tại sao đếm như vậy? Có lúc bốn đại không đều hòa,
hơi thở vào ra nhanh thì tùy theo sự vào ra của hơi thở mà đếm nhanh 1.
2. 3. 4. 5; 1.2.3.4.5. Khi đếm bò, người chăn đứng ngay cửa mà đếm, không
đếm bò đang ở trong hay ngoài cửa. Nhờ theo dõi số đếm mà tâm được
định. Vì sao? Như người đi thuyền ngược dòng nước chảy xiết
(candasota), dùng cây sào chống một, hai, ba, bốn, năm làm cho con thuyền
được vững vàng (để đi lên). Thở vào thở ra cũng vậy. Vì sao? Tâm ví
như chiếc thuyền, hơi thở vào ra như cây sào chống, (thuyền) tâm trôi chảy
theo (sông) năm dục mà được hơi thở vào thở ra chế ngự làm tâm ổn
định. Nếu hơi thở vào mà tâm theo vào, như chất bổ vào thân làm cho no
đầy. Nếu thở ra mà tâm tùy theo ra, làm pháp quán bị rộng lớn (phân
tán). Do phân tán rộng nên tâm khó được điều phục. Trừ hai pháp này,
vị ấy chỉ trụ tâm tại chỗ hơi thở tiếp xúc (chóp mũi hay đầu môi
trên) thì sau đó sẽ đắc định. Thế nên trong luật bản nói: Không được
đếm theo hơi thở ở trong hay ngoài.
Vậy đếm đến bao giờ mới ngưng? Nếu tâm không còn loạn
mà vẫn biết rõ hơi thở ra vào thì không cần đếm nữa. Như vậy là đã
bằng phương tiện đếm mà được tùy niệm (an trú niệm).
Thế nào là tùy niệm? Biết rõ hơi thở ra vào, không cần
nhờ vào sự đếm nữa mà vẫn biết rõ và an trú niệm trên ba chỗ (hơi
thở ra đi). Nếu thở ra thì bắt đầu là rốn, giữa là tim, cuối là
chóp mũi (Nàbhi àdi hadayam majjham hàsikà poriyosàham). Nếu thở vào thì bắt
đầu ở chóp mũi, giữa là tim và rốn là cuối. Nếu tâm đi theo hơi thở
thì tâm không định. Do tâm không định thì tâm bị dao động. Thế nên
trong luật nói: Nếu tâm đi theo hơi thở ra, hơi thở vào thì bên trong tâm
không định và trong tâm ngoài thân đều dao động. Do dao động nên không
đắc định. Nếu đi theo hơi thở vào và ra là như vậy. Thế nên không
được theo hơi thở vào và ra ở giai đoạn giữa và sau, chỉ chú tâm ở
chóp mũi, bám chặt vào đó và ghi nhận hơi thở ra vào. Nếu từ bỏ sự
đếm số thì tâm ghi nhận tự vào định. Như có người bị què trông giữ
em bé bằng cách đặt em bé trong cái nôi treo ở giữa nhà, ngồi một chỗ,
lắc cái nôi qua lại mà (người ấy) vẫn ở một chỗ chứ không phải di
chuyển bằng tay. Tỳ kheo tọa thiền cũng vậy. Lại nói: Ví như người giữ
cửa, không cần hỏi trước với những người ra vào, chỉ hỏi khi họ đến
ngay cửa, cũng không hỏi họ từ đâu đến và cầm những vật gì, chỉ
biết họ có ra vào mà thôi. Tỳ kheo tọa thiền cũng vậy, không cần biết
trước và nghĩ lấy thở ra vào. Như vậy, ông hãy tự biết lấy.
Phật dạy: -Ai biết rõ ba pháp thì tâm được định.
Ba pháp ấy là:
Một, ưa thích vào.
Hai, phương tiện.
Ba, được tăng trưởng.
Như cây gỗ lớn được đặt vững trên mặt đất. Có người
muốn xẻ cây này, trước tiên xem xét vỏ cây, sau đó dùng cưa xẻ ra, tâm
luôn chuyên chú nhìn (chỗ) răng lưỡi cưa (tiếp xúc với gỗ), làm cho nó
đi thẳng đường chứ không nhìn lưỡi cưa qua lại. Quán hơi thở ra vào
cũng vậy. Tư duy về pháp thiền đang hành trì, với phương pháp hoàn bị
như cây gỗ lớn vững trên đất. Quán sát kỹ chung quanh cây, như tâm
khéo tư duy về pháp thiền. Hơi thở ra vào cũng như lưỡi cưa qua lại. Tâm
chú ý vào lưỡi răng cưa, như chú ý vào đầu mũi. Tỳ kheo tọa thiền nên
hiểu ví dụ này, với thiền định trong hiện tại, với phương tiện hoàn
bị thì đật đến chỗ tăng thượng.
Hỏi: - Thế nào là thiền định?
Đáp: - Thân tâm tinh tấn và thành tựu nhuần nhuyễn là
thiền định.
Hỏi: - Thế nào là phương pháp (payoga) hoàn bị?
Đáp: - Với dũng mãnh tinh tấn làm tiêu trừ phiền não và
diệt tận suy nghĩ.
Hỏi: - Thế nào là đạt đến chỗ tăng thượng?
Đáp: - Bằng dũng mãnh tinh tấn làm tiêu trừ kiết sử
(samyojana).
Ba pháp (tướng, thở vô, thở ra) không phải được thành
tựu chỉ do nhất tâm quán sát mà cũng phải nhờ biết rõ ba pháp ấy. Và
tâm không dao động là nhờ vào pháp thiền định trong hiện hành, phương
pháp hoàn bị thì đưa đến chỗ tăng thượng. Khi đắc được như vậy rồi,
sau đó tâm dán chặt vào A-na-ba-na thì gọi là thành tựu. Tỳ kheo nào thực
hành pháp niệm A-na-ba-na thì vị ấy làm sáng chói thế gian như mặt trăng
ra khỏi mây.
Trong thiền định này, có người mới làm thì có tướng lành
xuất hiện, có người nhờ sổ-tức mà hiện ra tướng lành.
Tướng lành ấy thế nào? Tỳ kheo này ngồi dưới đất
hay trên giường, không có tọa cụ, mà (có cảm giác) chỗ ngồi ấy lại
mềm mại như bông gòn. Vì sao? Vì đã sổ-tức nên làm cho thân thể nhẹ
nhàng thoải mái, và tuần tự, hơi thở ra vào thô bị diệt, thân tâm nhẹ
nhàng vô cùng, như ở giữa không trung. Khi hơi thở trở nên vi tế thì như
có như không. Như người đánh khánh thì (âm thanh phát ra) trước lớn sau
nhỏ. Tỳ kheo tọa thiền sổ tức cũng vậy. Thế nên trong luật nói trước
to lớn sau nhỏ dần.
Pháp sư nói: - Thiền định sổ tức này khác với những
thiền định khác. Những thiền định khác thì trước vi tế sau thô. Tỳ
kheo nào vào thiền sổ tức này mà thiền tướng không hiện rõ thì không
nên đứng dậy mà nên yên tâm ngồi ngay thẳng và tư duy. Tư duy như thế
nào? Khi đã biết thiền tướng không hiện rõ, vị ấy nên tự nói: hơi
thở vào hơi thở ra này nơi nào có nơi nào không, có với ai, không có với
ai. Và tự nói rằng người đang ở trong thai mẹ, không có hơi thở ra vào,
khi đang lặn trong nước không có hơi thở ra vào, chư thiên ở cõi Trường
Thọ cũng không có hơi thở ra vào, nhập vào thiền thứ tư cũng không có
hơi thở ra vào, thây chết cũng không có hơi thở ra vào, sắc hay vô sắc
giới cũng không có hơi thở ra vào, diệt tận định cũng không có hơi thở
ra vào.
Sau khi suy nghĩ như vậy rồi, hành giả tự chê trách thân
mình: Ngươi là người trí tuệ, không phải đang ở trong bụng mẹ, không
ở trong nước, không ở cõi trời sắc và vô sắc giới, không phải đang
vào định diệt-tận, không phải đang ở cõi trời Trường Thọ, chẳng phải
là thây chết, cũng không phải đang ở cõi thiền thứ tư. Ngươi đang có
hơi thở ra vào rất vi tế mà không thể biết được, hãy chú tâm lại. Nếu
với người có mũi dài, thì đặt tâm ở lỗ mũi (nàsàputa). Nếu người
có mũi ngắn thì chú tâm trên đầu môi trên. Thế nên phải giữ chặt ở
vị trí này.
Như trong kinh có nói: Phật bảo các Tỳ kheo, người nào
hay quên, không tỉnh giác chú tâm được thì không thể nhập thiền định
A-na-ba-na. Không chỉ riêng thiền định A-na-ba-na mà đối với các thiền
định khác cũng vậy. Nếu ai chánh niệm được thì thiền định sẽ hiện
rõ. Thiền định A-na-ba-na này rất trọng yếu. Chư Phật, Bích-Chi-Phật,
đại A-la-hán (Buddhapahà) đều dùng pháp niệm A-na-ba-na này làm nền móng
và sau đó mới được đắc đạo, tùy niệm đưa đến cực tịnh. Thế nên
trong định này tùy niệm phải được tăng trưởng cùng trí tuệ.
Như may trên tấm vải rất mỏng thì phải dùng kim chỉ rất
nhỏ. Kim ví như tùy niệm, chỉ như trí tuệ, liên kết với nhau không
gián đoạn, nhờ vào hai pháp này, không cho quên mất hơi thở vào và hơi
thở ra. Như người cày ruộng, khi con bò đã mệt và người cày cũng mệt
thì thả cho bò nghỉ ngơi. Sau được thả ra, bò đi vào rừng. Nghỉ ngơi
xong, người kia lại đi tìm bò nhưng không cần tìm theo dấu chân bò, mà
đi thẳng vào rừng, đến nơi bò thường đi lại uống nước và nằm hoặc
ngồi chờ cho bò uống nước xong, dùng dây xỏ mũi bò và cầm gậy tiếp
tục lùa nó trở lại cày ruộng. Cũng như vậy, Tỳ kheo thiền định về
thở ra thở vào khi quá mệt thì tạm thời ngừng lại và nghỉ ngơi, không
theo dõi hơi thở ra vào nữa mà chỉ đặt (niệm) ở chóp mũi, chú ý và
đếm hơi thở ra vào với chánh niệm ví như sợi dây (cột mũi bò) và
trí tuệ ví như cây gậy và cứ tiếp tục chú ý đến (chỗ) hơi thở vào
ra.
Nếu làm được như vậy thì không bao lâu thiền tướng
(nimitta) sẽ hiện rõ (trở lại) và thân thể khoan khoái như tiếp xúc với
bông gòn, thân cảm thấy mềm mại. Có người thấy như chạm vải kiết bối,
có người thấy như chạm luồng gió mạnh, có người thấy như các vì
sao, có người thấy như chuỗi ngọc, có người thấy như ngọc trắng bị
vung vãi, có người thấy như (chạm) phải hạt hoa kiết bối, có người
thấy như sợi dây, có người với sự tiếp xúc thô cứng, có người thấy
như ánh lửa, có người thấy như con khỉ, có người thấy như mây nổi,
có người thấy như hoa sen, có người thấy như bánh xe, có người thấy
như trăng tròn.
Vì sao? Như trong kinh nói: Các Tỳ kheo tập họp tụng kinh
nhưng mỗi người lại thấy điềm lành khác nhau. Có người thấy như núi
non, như dòng sông, như cây rừng, tuy rằng với sự bắt đầu như nhau.
Hỏi: - Với núi non, dòng sông và cây rừng, do đâu mà có
sự khác nhau này?
Đáp: - Từ tâm tưởng mà có. Do ý tưởng của từng người
khác nhau nên sinh ra tướng khác nhau. Có người quán về hơi thở ra, có người
quán hơi thở vào, có người quán thiền tướng (Nimittàranamana). Nếu
không quán như vậy thì cũng không phát minh được pháp A-na-ba-na
(anapana-sati) và không thành pháp sơ thiền. Nếu có ba pháp này thì thành tựu
thiền định.
Tỳ kheo tọa thiền nếu có xuất hiện tướng như vậy nên
đi thưa với thầy: Con thấy tướng trạng như vậy.
Thầy đáp rằng là tướng thấy chứ không nói là tướng
thiền nhưng cũng không nói chẳng phải tướng thiền.
Sau khi dạy như vậy, vị thầy nói: - Trưởng lão! Thầy
hãy gia tâm thêm.
Pháp sư nói: - Vì sao vị thầy không nói đó là thiền tướng
hay chẳng phải thiền tướng?
Đáp: - Nếu nói với vị ấy cụ thể riêng từng phần, đấy
là thiền tướng thì (vị ấy) sinh tâm giải đãi (vì kiêu căng nên bỏ phế);
nếu nói không phải thiền tướng thì (vị ấy) thối tâm. Do đó không
nói từng phần mà chỉ ân cần dạy bảo, thì thiền tướng tự hiện.
Xưa có bài kệ:
Dán tâm nơi pháp quán
Sẽ hiện ra nhiều tướng,
Nếu người có trí tuệ,
Giữ tâm tiếp tục niệm
Ở hơi thở ra vào,
Tinh cần không tán loạn.
Khi thiền tướng xuất hiện, thì các triền cái bị quản
thúc, các phiền não lặng yên tự ngưng lại. Nhờ hai pháp này mà tâm được
an trụ và trở thành định, hoặc đắc sơ địa, hoặc đắc trừ phiền não
địa, hoặc nhờ vào sự xuất hiện các thiền chi mà đắc sơ địa (cận
hành định). Đây là đang đắc sơ định địa.
Hỏi: - An trú vào định (an chỉ định) và sơ định (cận
hành định) là khác hay giống nhau?
Đáp: - Khác nhau, sơ định - cận hành định - là tâm đã
thuần thục, đi vào chỗ an trú của tâm (Bà-bàn-già - Bhavanga, hữu phần:
chỗ tâm yên nghỉ). An trú vào định - an chỉ định - là tâm trong cảnh
giới này luôn cả ngày đã thuần thục không còn tùy thuộc vào
Bà-bàn-già. Hai pháp này khác nhau như vậy.
Nếu thiền tướng đã hiện rõ, do quán sắc hoặc quán tướng
mạo thì phát triển thêm. Như vua Chuyển Luân còn ở trong thai, được cha
mẹ yêu mến bảo hộ, ở nơi điều hòa ấm mát và dùng các thức ăn thích
hợp. Nếu khéo nuôi dưỡng thì sẽ được kết quả tốt đẹp.
Tỳ kheo hộ trì thiền tướng cũng vậy, nếu không hộ
trì luôn thì bị mất. Vậy hộ trì như thế nào?
Một: Ở trú xứ thích hợp.
Hai: Khu vực đi lại (khất thực) thuận tiện.
Ba: Thân cận người thiện.
Bốn: Thực phẩm thích hợp.
Năm: Khí hậu điều hòa.
Sáu: Chọn uy nghi đi, đứng, ngồi, nằm thích hợp.
Bảy: Tránh xa sự ồn ào và nhất là ăn uống.
Nhờ bảy pháp này hộ trì thì thiền tướng được an trú
kiến cố.
Tuần tự, thiền tướng tăng trưởng và hiện rõ rồi,
các căn được rất thanh tịnh nhu nhuyến thì đối với tâm, nếu muốn
thì có thể giữ lại hay buông thả, sinh khởi hay điều phục, hoan hỷ hay
xả một cách dễ dàng, gần gũi người đắc thiền tướng và tránh xa người
chưa đắc thiền tướng, chí tâm đối với thiền và biết rõ thiền tướng.
Đối với mười pháp này người trí khéo an trú tâm vào, không được biếng
nhác, nên tinh cần tu tập, nên suy nghĩ rằng ta hãy an trú vững vào định
và xả bỏ tâm Bà-bàn-già (hữu phần) mà khởi lên ý muốn hướng tâm
(manadvàvajjanam uppajjati) trụ trong một sát na rồi diệt, lại khởi lên bốn
hay năm (4,5) xà-bà-na (javana - tốc hành tâm).
Năm tâm này gồm có: 1- Tâm tác động; 2- Tâm học (cận-hành);
3- Tâm tùy thuận; 4- Tâm trung gian; 5- Tâm an trú.
Nếu gom năm tâm này thành bốn, thì: 1- Tâm tác động cận
hành; 2- Tâm tùy thuận; 3- Tâm trung gian; 4- Tâm an trụ. Tâm thứ tư này cũng
gọi là tâm thứ năm, không có thứ sáu và thứ bảy.
Những tâm trước thuộc dục giới, tâm thứ năm (an trụ)
này thuộc sắc-giới. Nhờ vào tâm này nên diệt năm chi (triền cái) và
phát sinh năm thiền chi (tầm, từ, hỷ, lạc, nhất tâm), đầy đủ mười
tướng (đặc tính) tốt đẹp cả ba (giai đoạn) và đắc thiền thứ nhất
rồi, thì tư niệm trong pháp quán này hoàn toàn bị diệt và đắc thiền
thứ hai, diệt tướng này luôn thì chứng thiền thứ ba, đến thứ tư. Huấn
luyện tâm và vượt lên trên.
Pháp sư nói: - Đây là nói lược, nếu nói rộng thì hãy
xem trong Thanh-tịnh-đạo (visuddhimagga).
Tỳ kheo đã đắc thiền thứ tư rồi, khéo ghi nhận và
làm cho tăng trưởng. Nếu muốn đạt đến chỗ hoàn toàn chân thật thì
thiền thứ tư này có năm điều tốt đẹp. Một, tâm trú; hai, nhập vào;
ba, sắc (quyết định); bốn; xuất ra; năm, quán sát trở lại. Nhờ năm pháp
này mà đạt đến chỗ chân thật.
Tỳ kheo này đã tụ tập thông suốt (pháp thiền này) có
thể bắt đầu quán sát với sắc, hoặc bắt đầu với vô sắc. Quán sắc
và vô sắc rồi lại tu tập tăng lên với pháp Tỳ-bà-xá-na (Vipassana, niệm
xứ). Tăng lên như thế nào?
Tỳ kheo xuất khỏi thiền thứ tư rồi, vẫn nắm vững thiền
chi (Jhànanga). Sau khi nắm vững thiền chi này trong tâm, tâm y vào bốn đại
chủng (Cattàibhutani) mà quán sát thân bốn đại. Từ thiền chi này mà nói
thì bắt đầu là phi sắc (tâm) xứ. Do pháp sắc, phi sắc (tâm) này mà thấy
(tâm) thức. Bắt đầu với bốn đại chủng mà có sắc cộng với các sắc
tâm thức không phải sắc. Nếu xuất khỏi định và (trở lại) thở vào
thở ra thì thân và tâm là nhân của nó. Như ống bệ bằng da của người
thợ rèn, nhờ sức chuyển động nên có hơi gió vào. Hơi thở ra vào cũng
vậy, nhờ vào thân tâm nên thở ra vào. Tỳ kheo này thấy hơi thở ra vào
nên thấy thân, thấy sắc tâm sở.v.v... cùng với các pháp phi sắc tâm
này. Nhờ thấy rõ danh sắc như vậy, lại quán sát thấy rõ nhân duyên
làm cho danh sắc nối tiếp mãi không ngừng trong ba đời.
Do danh sắc nối mãi nên sinh hoài nghi. Sau khi đoạn trừ
nghi ngờ (kankhà) rồi thì quán sát ba tướng (của danh sắc là khổ, vô thường,
vô ngã), sau khi quán ba tướng rồi, lại quán sát sự sanh diệt. Nhờ quán
sát sanh diệt nên trước tiên thấy ánh sáng và xa lìa mười phiền não
thuộc Tỳ-bà-xá-na (dasavipassanùpakilesa). Sau khi xa lìa (mười phiền não
trên) vị ấy phát sinh trí tuệ về đạo (patipadà-nàna, hành đạo tri kiến).
Sau khi vượt qua pháp đã phát sinh, lại thấy rõ pháp sanh diệt (udayam
pahàya bhangànupassanam patvà) và các niệm kế tục nhau bị tiêu diệt. Nếu
hai trí này (đạo trí và hoại diệt trí) đã phát sinh thì đối với ba cõi,
hành giả sinh (tâm) nhàm chán (sabbasankhàresunibbindanto). Và tuần tự đắc
bốn đạo như vậy, hành giả đạt đến quả A-la-hán. Có 19 trí quán sát
(ekùnavísatibhedassapacavekkhan ànànassa pariyatappatto sadevakassa lokassa
aggadakkhineyyo hoti) biết rõ (các pháp) đến cùng tận, và vị này trở
thành bậc ruộng phước vô thượng cho ba cõi gồm cả phạm, ma, Sa-môn,
Bà-la-môn.
Đây là pháp niệm hơi thở vào hơi thở ra. Và đã giải
thích xong bốn câu đầu của phần thứ nhất (bốn đề tài niệm về
thân).
Bốn câu trong ba phần còn lại cùng với các thiền khác
không khác. Thế nên, tôi sẽ giảng giải.
Giác là đang cảm giác về hỷ: (trong đề tài) tôi đang (cảm
giác) hít vào thở ra rõ ràng với hỷ. Được cảm giác hỷ nhờ vào hai
việc. Đó là:
1- Đối tượng quán.
2- Không mê mờ.
Thế nào là có cảm giác hỷ đối với đối tượng quán?
Khi vào hai thiền thì có hỷ. Ở trong thiền này, khi muốn được (hỷ thọ)
với trí tuệ thì với đối tượng quán, tự nhiên được cảm giác hỷ
thọ. Thế nên nhờ vào đối tượng quán mà được cảm giác hỷ thọ.
Thế nào là nhờ không mê mờ mà có cảm giác hỷ thọ?
Hai thiền đều có hỷ, sau khi nhập và xuất thiền này thì trí tuệ quán
sát hỷ ấy (sẽ bị) tiêu diệt nơi thiền quán, thấu suốt tướng của nó
(tướng quán) không bị mê mờ; nhờ không mê mờ nên đạt đến cảm giác
hỷ thọ.
Trong kinh Bà-trí-tam-tỳ-bà (patisambhidà - vô ngại giải)
nói: Bằng hơi thở vào hơi thở ra mà đạt được nhất tâm. Tâm không
tán loạn thì biết tỉnh thức rõ ràng. Nhờ biết tỉnh thức rõ ràng mà
có cảm giác hỷ thọ. Nhờ thở ra dài nhờ thở vào ngắn mà cảm giác
được toàn thân, cảm giác được sự diệt của thân. Nhờ thở vào thở
ra thành tựu nhất tâm mà biết rõ. Nhờ hai pháp này mà cảm giác phát
sinh.
Do an tâm nên có cảm giác hỷ thọ, nhờ biết rõ, nhờ
pháp quán, quán ngược xuôi làm tâm ổn định lại, chí tâm giữ tinh tấn
mà phát sinh hiểu biết, tâm tập trung ổn định biết rõ với trí tuệ,
cái cần phải biết thì biết rõ, cái cần phải xả bỏ thì xả bỏ, cái
cần phải quán sát thì quán sát, cái hiện rõ (tu tập) thì hiện rõ và
đưa đến cảm giác hỷ thọ. Như vậy là đạt được cảm giác hỷ thọ.
Các câu sau ý nghĩa cũng theo như vậy. Trong ba thiền định có điểm khác
vì có cảm giác lạc còn ở bốn thiền định là cảm giác tâm hành
(cittasànkhàrapatisamvedita- cảm giác tâm hành)
Hỏi: - Tâm hành là gì?
Đáp: - Thọ và tưởng ấm (vedanàdayo duve khandhà) là tâm
hành.
Cảm giác lạc đây thuộc về thiền tuệ Tỳ-bà-xá-na. Lạc
có hai: một là lạc thuộc thân; hai là lạc thuộc tâm. Trong Vô-ngại-giải
có nói: Diệt tâm hành tức là ổn định tâm hành thô và diệt nó
(olàrikam cittasankhàram passambhanto nirodhento ti attho) cũng gọi là định chỉ.
Nếu nói rộng thì được giải rõ trong phần thân hành, hãy tự nghiên cứu
(yasankhàra). Hỷ trong câu nói (cảm giác hỷ) về thọ là thuộc hành. Nếu
chọn lấy lạc thì thuộc cảm thọ. Cả hai trường hợp cảm giác trên
trong câu tâm hành (cảm giác tâm hành) thì gồm cả tưởng và thọ tâm sở
(sanna vedanà cetasika - tưởng thọ tâm sở). Hai pháp này không rời tâm, nếu
chọn lấy tâm hành thì bao gồm cả tưởng và thọ. Bốn câu trong phần
này là nói xong về quán cảm thọ, hãy tự nghiên cứu.
Câu cảm giác về tâm trong bốn câu thuộc pháp thứ ba (niệm
tâm) là thuộc về cả bốn thiền định.
Cảm giác về tâm (abhippamodaya-citta) nghĩa là gì? Cảm giác
tâm hoan hỷ, hoan hỷ hoàn toàn, tâm rất hoan hỷ, tôi đang cảm giác thở
ra, thở vào. Có hai mặt hoan hỷ, đó là nhờ vào định và nhờ vào tuệ
quán.
Thế nào là nhờ định? Có cảm giác hỷ và đi vào hai thiền
định và khi đã vào rồi cũng có hỷ, trong một sát na tâm cùng với hỷ.v.v..
hân hoan vào trong tâm và rất hoan hỷ.
Thế nào là nhờ tuệ quán mà nhập vào hai thiền định? Có
hỷ (thay đổi) theo thiền định (nhập vào) và xuất, và nhờ thấy hỷ
có thể bị tiêu diệt nên luôn tiếp xúc với thiền hỷ (bằng tuệ). Như
vậy, tuệ quán Tỳ-bát-xá-na (vipassanàkkhana) luôn luôn hoạt động với hỷ
rong từng sát na là nhờ vào tuệ quán mà tâm có hỷ như vậy, tùy theo
tâm mà có hân hoan.
Tôi đang hít vào thở ra với tâm hoàn toàn ổn định. Nhờ
vào thiền định thứ nhất, đặt tâm hoàn toàn ổn định trên đối tượng
quán, (hoặc là) sau khi đã nhập và xuất thiền, hành giả thấy tâm thiền
định bị diệt theo từng pháp trong tuệ quán Tỳ-bát-xá-na này. Tâm định
trong một sát na do hiện-quán vượt qua tưởng. Tâm định khởi lên trong một
sát na ấy là nhất tâm định. Và tâm hoàn toàn an trụ trong tuệ quán
này.
Câu " Tôi cảm giác (hít vào thở ra) với tâm giải
thoát"
Nghĩa là giải thoát khỏi phiền não, thoát ly tư và niệm
(tầm và tứ) ở thiền thứ hai, thoát ly hỷ ở thiền thứ ba, thoát ly khổ
và lạc ở thiền thứ tư, giải thoát theo tuần tự như vậy. Sau khi (nhập)
và xuất khỏi thiền, thấy rõ tâm diệt theo từng pháp trong thiền tuệ Tỳ-bà-xá-na
này. Khi hành giả thấy vô thường thì xả bỏ pháp thường, thấy pháp khổ
thì xả bỏ tưởng về lạc, thấy vô ngã thì xả bỏ tưởng về lạc (ngã?),
tâm không còn tham đắm. Do không tham đắm nên quán sát ly dục, từ nơi dục
mà quán diệt tưởng, từ chỗ sinh tưởng mà quán xả bỏ (chấp thủ), từ
chấp thủ mà tâm được giải thoát. Thế nên, trong luật nói: (quán) hơi
thở vào hơi thở ra thì tâm được giải thoát. Trên đây là (giải thích)
câu thứ tư trong phần quán tâm.
Trong bốn câu ở phần thứ tư thì quán vô thường là tưởng
vô thường, nên biết rõ về quán vô thường, nên biết rõ về sự quán
liên tục về vô thường.
Hỏi: - Cái gì vô thường?
Đáp: - Năm ấm vô thường.
Hỏi: - Tại sao năm ấm vô thường?
Đáp: - Vì chúng là pháp sanh diệt.
Hỏi: - Sanh diệt như thế nào?
Đáp: - Là pháp biến đổi tướng trạng, vì biến đổi nên
các pháp đã sinh (bị biến đổi) không có tướng cố định trong từng sát
na sát na. Đây gọi là quán vô thường. Bắt đầu là quán về sắc. Quán
sắc vô thường là quán sắc luôn luôn vô thường. Quán sát nhân (của sắc)
là do bốn đại chủng nên có hơi thở ra hơi thở vào, chúng là pháp hoại
diệt, nên gọi là quán vô thường.
(Đề tài) quán ly ái dục.
Có hai loại quán ly ái dục là: Một, quán tiêu trừ ái dục.
Hai, quán hoàn toàn không còn ái dục.
Hỏi: - Thế nào là tiêu trừ ái dục?
Đáp: - Các pháp bị diệt trong từng sát na (sát na diệt)
Hỏi: - Thế nào là hoàn toàn không còn ái dục?
Đáp: - Quán hoàn toàn không còn ái dục là Niết-bàn.
Nhờ hai pháp này mà đạt đến chỗ thấy đạo; nhờ thấy
đạo mà thấy được pháp Tịch diệt.
Thấy tịch diệt rồi thì quán xả ly. Nhờ quán tuệ Tỳ-bà-xá-na
mà xả ly phiền não, chuyển hướng về Niết-bàn.
Như vậy, đây là (giải thích) phần cuối của pháp niệm
hơi thở.
Hết phần niệm hơi thở (ànàpànasatisamàdhikathà
nitthìtà).
Trích: "Chú giải Luật Thiện Kiến",
Pháp sư Tăng-già-bạt-đà-la dịch Hán,
Tỳ kheo Tâm Hạnh dịch Việt.