- Ánh Đuốc Phật Đà
- Đại Đức Puriso
- Tỳ kheo Giác Nguyên dịch
Tiểu Sử Tác Giả
Đại Đức Puriso (Bruce Evans) sanh năm 1951 tại Melbourne,
nước Úc. Lúc còn trẻ, đại đức đã từng có duyên với nhạc
nghệ và cũng đã thực hiện được một cuốn băng. Được hướng
dẫn bởi một thiền sư Nhật Bản ở Melbourne, đại đức quyết định
sang Nhật để học Thiền. Trong chuyến đi này, đại đức có ghé ngang
Bangkok và gặp được các vị tỳ kheo người Tây Phương. Nhưng tâm
hồn văn nghệ cũng như thói quen nghề nghiệp đã khiến đại đức
tuy có cảm tình nhưng vẫn cứ chùn bước trước giáo lý Nam Tông,
bởi theo giới luật truyền thống thì một nhà sư không được chơi
nhạc. Đổi lại, đại đức quyết định tham dự một khóa thiền Tứ
Niệm Xứ ở Nong Khai. Trong những ngày tu thiền này, cây đàn Guitar
của đại đức mang theo bị đánh cắp. Sự kiện này khiến đại
đức bỏ ý định sang Nhật và cố gắng tìm cách thích nghi với
đời sống ở Thái Lan để có thể tiếp tục ở lại đây .
Được nghe kể về thiền sư Ajahn Chah, đại đức đến
viếng chùa Pah Pong rồi thọ giới tỳ kheo với Ngài (năm 1975). Năm
1982, đại đức đã cùng với Ngài Jagaro trở về Úc để xây
dựng một ngôi chùa ở Perth. Sau đó đại đức trở về Thái.
Hiện nay đại đức đang trụ trì chùa Wana Potiyahn (còn gọi là chùa
Keurn), gần chùa Pah Pong, miền đất giáp với biên giới Lào -
Campuchia. Đại đức hiện cũng đang hoạt động để phục hồi các khu
rừng đang bị tàn phá tại đây. Công trình này của đại đức đã
được thông tin rộng rãi trên các đài truyền hình ở Thái Lan .
Bài viết dưới đây được dịch lại từ một thời
pháp bằng tiếng Thái của đại đức Puriso vào mùa an cư năm 1987
vào một đêm thiền định tập thể vẫn được tổ chức hàng tháng
vào hai ngày BốTát cho Tăng Ni và Phật tử tại các thiền viện ở
miền Đông Bắc Thái Lan. Nội dung của bài viết chỉ gồm trong một
câu thôi: "Khi ta mang ánh sáng vào chỗ tối thì bóng tối sẽ
biến mất. Và ta chỉ cần biết vậy thôi, không cần tìm hiểu xem cái
bóng tối kia đã tồn tại ở đó bao lâu rồi ."
-ooOoo-
Ánh Đuốc Phật Đà
Hôm nay, tất cả quí vị đã bỏ nhà để đến chùa
góp mặt trong pháp hội này, phải nói đây là một cơ hội thật
tốt để chúng ta tạm thời gát qua hết những chuyện đời và quay
về sống phản tỉnh đối với bản thân. Nhưng tôi chỉ mới nói rằng
quý vị đang có một cơ hội tốt, còn quý vị thì sao? Quý vị có ý
thức được mình đang ở đâu và làm gì hay không? Đi vào chùa
để vãn cảnh hay để tu học? Nếu để tu học thì quý vị đã bắt
đầu chưa? Các vị hãy luôn nhớ rằng, một khi đã chấp nhận con
đường tu học thì chúng ta nhất định phải cố gắng thế nào đó
để tự khẳng định chính mình. Chúng ta không thể tu học như một
hình thức chiếu lệ mà ngược lại phải luôn nhìn về phía trước
để nhắm tới những tiến bộ. Chúng ta phải biết tu học một cách
có lý tưởng, áp dụng Phật Pháp vào ngay chính đời sống của
mình để từng sinh hoạt của bản thân được thực hiện dưới ánh
sáng Phật pháp.
Ở đây, tôi có thể lấy ví dụ về trường hợp
chúng ta đang là người trau dồi chánh niệm. Mỗi người hãy tự
xét lại chính mình thử xem, trong một ngày chúng ta có được bao
nhiêu giây phút sống trong chánh niệm, tỉnh giác? Chúng ta hãy học
phép trau dồi chánh niệm bằng những giờ thiền định. Trước hết,
ta có thể tập trung sự chú ý của mình vào từng hơi thở, trong
đôi ba phút thôi, trước khi mình bị phóng tâm. Rồi nếu như thời
gian đôi ba phút đó là quá dài thì chúng ta vẫn có thể ngồi yên
lại đó cho thời gian trôi qua cũng được .
Đối với một hành giả, ngồi yên lại trong một ý
thức rõ ràng cũng đã là thiền định. Khi đã giữ vững được
tư thế ngồi rồi thì chúng ta sẽ lại bắt đầu hít vào, thở ra
bằng một sự ghi nhớ cẩn thận. Chỉ chừng đó thôi cũng đã là
một phương thức phát triển khả năng chánh niệm và một khi khả
năng này được thuần thục thì coi như chúng ta đã tự khẳng định
được khả năng tu học của mình mà ở đây là khả năng chánh
niệm .
Trong rừng thiền này, mọi điều kiện vật chất đều
quá hạn chế. Ở đây chỉ có một phòng vệ sinh mà thôi. Vậy thì
chúng ta phải tu học ra sao để có thể thích nghi với hoàn cảnh này?
Chúng ta cũng thấy đó, những người có mặt ở đây mỗi ngày
chỉ ăn một bửa. Đó cũng là một trong những thực tập căn bản
cho chúng ta. Trong rừng thiền luôn có người theo dõi chúng ta một
cách chặt chẽ. Trong những ngày tu học tập thể này, từ buổi
chiều, không ai trong số các thiền sinh đã phát nguyện không nằm,
lại có thể ngã lưng. Lời nguyện đó là một quy tắc, ai cũng phát
nguyện thì dù có ra sao cũng phải tôn trọng cho dù đau nhức đến
mấy đi nữa. Đây chính là khả năng tinh tấn rất cần thiết cho con
đường tu học của mỗi người.
Thính pháp cũng là một pháp môn có giá trị đặc
biệt. Ta nghe pháp để có thêm hành trang tu học. Một người chưa
từng nghe gì về Phật pháp thì làm sao có thể biết được mình
phải tu học như thế nào? Tư tưởng của chúng ta vẫn có khuynh
hướng phóng tán và bị câu thúc, mắc níu vào trăm ngàn thứ
chuyện đời, nhưng chính nhờ nghe được Chánh Pháp, chúng ta có
thể đón nhận được những niềm vui kỳ diệu để dễ dàng buông
xuôi hết những gì là rác rưởi không cần thiết. Nói vậy có
nghĩa là nếu mỗi ngày chúng ta đều sống thực hành theo Phật pháp
thì bản thân của chúng ta sẽ luôn được an lạc và con đường tu
hành cũng trở nên dễ dàng hơn. Trong khi đó với một đời sống
tách rời Phật pháp, chúng ta chỉ thường xuyên cảm nhận những đau
khổ. Có thể nói tất cả những đau khổ trên đời đều đi ra từ
một sự chấp thủ và chấp thủ đó chính là sợi giây trói buộc
được nối kết lại bằng những khái niệm về cái gọi là Tôi,
Của Tôi .
Dân số trên thế giới ngày càng đông đúc và quanh
ta luôn có những người cần được chia xẻ nhiều thứ. Nhưng trên
thực tế đã có được bao nhiêu người đã biết sống chia xẻ,
đã có bao nhiêu người được chia xẻ? Ai cũng muốn sống gom thâu
và nắm chặt bàn tay. Người ta xâu xé nhau để được tồn tại,
để mình và những người thân được an toàn. Ngoài ra, họ không
còn biết đến gì nữa. Nói một cách khác, nhân loại đang bị đau
khổ một cách trầm trọng. Người ta bảo là mình điều hành đời
sống nhưng thực ra đời sống đã điều hành trở lại họ. Tất cả
những phức loạn trên toàn cầu cũng từ đó mà ra. Thôi thì đủ
thứ: Bôi nhọ nhau, tranh cãi nhau, đánh nhau bằng đủ mọi hình thức
... Nói cho cùng, hầu hết nhân loại đã bị mù lòa cả rồi .
Giữa cảnh đời như vậy, chúng ta phải làm gì cho
mình? Chúng ta phải biết lắng nghe Chánh Pháp và chuyên tâm thực
hành những gì mình học hiểu được. Chúng ta phải biết tháo bỏ đi
những đôi mắt kính chủ quan để có thể nhìn thẳng vào cuộc đời
với ánh sáng của Chánh Pháp và đem ánh sáng ấy trở vào làm
nguồn sáng cho chính nội tâm mình. Khi ta mang ánh sáng vào chỗ
tối, bóng tối sẽ biến mất, còn chuyện bóng tối đã tồn tại ở
đó bao lâu thì không phải là vấn đề để ta bận tâm, bỡi lúc
này nó đã được giải quyết. Trong câu nói trên đây, ánh
sáng có nghĩa là trí tuệ hiểu biết mọi sự theo tinh thần và
đường hướng của chánh pháp. Ta vẫn nhắc đến ánh sáng Phật
pháp nhưng nói một cách cụ thể đó là gì? Khi ta biết bỏ đi
những ngộ nhận về Tôi, Của Tôi rồi nhìn thấy đúng theo bản chất
của chúng thì chính sự nhìn thấy này là nhãn quan trong ánh sáng
Phật pháp .
Trong Phật giáo, chúng ta thường nghe nhắc về tám
ngọn gió đời là Được, Mất, Khen, Chê, Vinh, Nhục, Hạnh Phúc, Đau
Khổ. Đây là những gì mà con người vẫn bị chi phối. Con người
gần như suốt đời cứ đi tìm những tài sản, danh vọng và dĩ
nhiên không ai muốn bị chê bai hay bị mất mát một cái gì đó.
Được cái mình thích, chúng ta hạnh phúc, gặp cái mình ghét thì
chúng ta đau khổ. Bên cạnh những danh lợi thông thường, còn có
một thứ khác cũng có thể khiến người ta phải cực lòng theo
đuổi, đó chính là cái vị trí tinh thần của mình trong mắt người
khác. Có những người không mấy thiết tha đến chuyện gia tài sự
sản, mà họ chỉ hứng thú trong cái ước mơ có được một quyền
lực, sức ảnh hưởng và chi phối đối với người khác. Chẳng
hạn như các chính trị gia mà ta vẫn thường thấy, họ có thể bỏ ra
bao nhiêu tiền cũng không tiếc, miễn sao chiếm được một sức mạnh
chính trị và một chiếc ghế nào đó trên chính trường .
Nếu nhìn kỹ vào chuyện đời, thì chúng ta sẽ nhận ra
rằng tám khía cạnh trên đây của đời sống thực ra chỉ là những
gì được có mặt từ một Cái Tôi ảo vọng. Sự tu tập theo đúng
lời Phật dạy chính là thái độ khước từ, chối bỏ Cái Tôi
nghiệt ngã đó. Cố tình xây dựng một bản ngã thực ra là một
nếp sống "ngược đời, trái đạo", bỡi tự trong bản chất
của các pháp không hề có một Cái Tôi nào cả và cuối cùng
rồi, ngay trong giờ phút tắt thở chúng ta đều phải buông bỏ lại
hết mọi thứ .
Tôi đã từng có dịp quan sát đời sống sinh hoạt
của mấy con khỉ trong rừng. Chúng thỉnh thoảng vẫn thích chơi cái trò
mà ta có thể tạm gọi là "lễ tôn vương của muông thú".
Một con khỉ trong bầy leo lên cái gò cao nào đó rồi nhìn xuống như
một ông vua đang ngự trên ngai. Lũ khỉ còn lại quây quần bên
dưới, rồi leo trèo lên nhau và lại với tay níu kéo con khỉ đang
ngồi trên kia. Thường thì những con khỉ muốn được "làm
vua" như vậy đều là những con tinh nghịch và quái quỷ nhất trong
bọn. Chúng luôn muốn chứng tỏ với bầy đàn cái "thần uy"
của mình. Mà thật ra thì mỗi lần được "làm vua" như vậy,
chúng đâu có được sung sướng gì, thậm chí còn cực thân hơn
mấy con khỉ khác nữa. Chúng phải chống trả chật vật với cả bầy
khỉ đang leo trèo lên mình chúng và kéo lôi chúng xuống khỏi cái
gò kia. Như vậy xem ra thì mấy con khỉ không được làm vua lại còn
sung sướng hơn nhiều bỡi chúng có dịp vui đùa thỏa thích mà chẳng
phải sợ mất mát cái gì hết .
Câu chuyện trên đây về mấy con khỉ rừng là cả
một bài học cho chúng ta. Chúng ta hãy biết học cách "tự thu
nhỏ mình lại". Thái độ sống đó không hề có nghĩa là một
kiểu sống tiêu cực, thua cuộc một cách thiếu thông minh. Mà ngược
lại, chúng ta hãy thu nhỏ mình lại bằng một tâm hồn khiêm tốn, vị
tha, nhường nhịn và biết cảm thông .
Bốn giá trị tinh thần này có ý nghĩa là nâng cao
chúng ta lên khỏi cái dòng đời thác loạn. Trong khi đó gần như
rất hiếm có người biết nghĩ đến các giá trị này để tự xây
dựng bản thân mình với một trình độ trưởng thành thật sự, mà
ai cũng cứ thích tự xây dựng cho mình những tượng đài ảo
tưởng. Đức Phật gọi đó là nếp sống đi ngược lại với tự
nhiên .
Như vậy, có thể nói rằng bất cứ con đường nào
có thể giúp chúng ta loại bỏ được những khái niệm về Cái Tôi
và Của Tôi thì đều là những pháp môn chính chắn, đều là con
đường dẫn đến tịnh lạc. Nói vậy có nghĩa là càng buông bỏ
được nhiều thứ thì chúng ta càng được hạnh phúc; và mọi sự
chấp thủ, ôm ấp chỉ là con đường dẫn đến khổ đau. Cứ vậy mà
nói, thì những ai chưa từng có dịp làm quen với Phật pháp sẽ rất
khó mà chấp nhận được điều này. Bởi hầu hết chúng ta đều
có khuynh hướng ôm ấp, nắm giữ. Có nhiều thứ trên đời
được người ta cố thủ như thể chúng chính là bản thân của họ.
Thái độ nắm bắt mù quáng đó gọi theo thuật ngữ Phật Giáo là
"sự chấp thủ". Trong khi đó, nếu với một tinh thần xả bỏ
thì chúng ta sẽ thấy được rằng những gì mình có được thật ra
chỉ là một thứ sở hữu mang tính tương quan hết sức đơn giản và
không hề có một chất keo ràng buộc nào ở đó cả. Vạn sự luôn
tồn tại bằng vào những điều kiện trợ sinh nên khi những điều
kiện ấy không còn nữa thì mọi sự sẽ tự biến diệt. Suy nghĩ về
cuộc đời bằng cách hiểu như vậy chính là sự suy nghĩ trong ánh
sáng Phật pháp. Thái độ suy nghĩ đó sẽ mang lại cho chúng ta một
nếp sống tinh thần mới mẻ và bình yên. Chúng ta sẽ cảm nhận
được từng sự rạn vỡ của lòng chấp thủ để từ đây, nội
tâm của chúng ta cũng sẽ trở nên thanh thản, nhẹ nhàng hơn.
Việc chúng ta tìm đến tu học trong rừng thiền này
không chỉ đơn giản là một cách lánh mặt tạm thời những gia sự
phiền phức, mà chúng ta phải xem đây là một "cuộc về
nguồn" đối với chính đời sống của mình để có thể nhìn
thẳng vào mọi chuyện đời, chuyện lòng một cách rõ ràng hơn.
Cũng những công phu tu học này, nhưng nếu chỉ được thực hiện
tại nhà thì chúng ta có thể gặp phải ít nhiều khó khăn. Chỉ riêng
việc tọa thiền hay kinh hành thôi cũng là một chuyện không dễ
dàng. Trong khi đó, trong bối cảnh của một tu viện hay một thiền
đường thì chỉ cần một sự dốc lòng đúng mức, ta luôn có thể
được thoải mái và thanh thản. Chẳng hạn những khi ta bất chợt
muốn được đi kinh hành một mình thì vẫn có thể yên tâm làm theo
ý mình muốn một cách tự do mà không e ngại ai đó dòm ngó mình
bỡi trong bất cứ thiền đường nào cũng vậy, việc đi kinh hành
của các thiền sinh luôn là một điều hết sức bình thường nếu
không muốn nói đó là một trong những oai nghi cần thiết của bất
cứ thiền sinh nào. Trí tuệ giác ngộ là thuộc cảnh giới nội tâm,
nhưng bối cảnh thực tế để thực hiện nó thì vô cùng quan trọng.
Chẳng hạn như nếu ta đi kinh hành giữa chỗ buôn bán, phố xá thì
chắc chắn rằng thiên hạ chung quanh sẽ cho ta là người loạn trí,
thậm chí họ còn có thể xúc phạm đến ta nữa! Như vậy, những
thiền đường, tự viện luôn là những trú xứ lý tưởng để
chúng ta có thể sống thư giãn, thiền định, tham khảo kinh sách hoặc
tĩnh dưỡng tinh thần mà không sợ bị quấy rầy bởi bất cứ cái
gì.
Việc thọ trì các học giới dĩ nhiên là một thứ
công phu nhiều ý nghĩa bởi ít nhất đây cũng là một pháp môn
rất khó thực hiện, nhất là đối với trường hợp bát quan trai
giới. Chỉ cần thọ trì nghiêm túc tám học giới bát quan thôi,
người Phật tử coi như đã có được nếp sống của một bậc xuất
gia, nhất là trường hợp họ có cơ hội được lưu trú tại chùa,
một không gian hết sức an lành và cách ly trọn vẹn với tất cả
những tục sự đa đoan của đời sống cư sĩ. Có thể nói rằng nếu
sống qua được hai mươi bốn giờ đồng hồ giữ tròn tám học
giới thì xem như ta đã là một nhà sư trong chừng ấy thời gian.
Ngược lại, việc thọ trì bát quan trai giới ngay tại gia đình thì
phải nói rằng mọi sự sẽ không được như vậy nữa. Những ồn
ào từ máy hát, ti vi, và khách khứa tới lui ... đều là những
trở lực bất lợi cho đời sống nội tâm của chúng ta .
Hơn thế nữa, từng giây phút có mặt trong một rừng
thiền như thế này, chúng ta sẽ có nhiều cơ hội thấm thía được
những vấn đề hết sức thú vị, chẳng hạn như về sự đau khổ.
Tinh thần và thể xác của mỗi người gần như luôn có sự tồn
tại của sự đau khổ. Bổn phận của người hành giả chúng ta là
thấu suốt bản chất của tất cả đau khổ. Chúng ta phải học hỏi
để biết được cái gì đã gây tạo ra những đau khổ, hình thức
xuất hiện của sự đau khổ cùng tất cả những gì có liên quan
tới nó. Đức Phật đã từng dạy rằng đau khổ là cái cần
được liễu tri nhưng hầu hết con người chúng ta đâu có mấy ai
muốn nhớ tới cái khổ chứ đừng nói gì đến việc liễu tri hay
nhận thức nó. Gặp phải sự đau khổ, thường thì người ta chỉ
nghĩ đến một việc duy nhất là trốn chạy nó mà không muốn nhìn
thẳng vào nó. Những người như vậy không phải là những người
Phật tử. Người Phật tử phải biết nhìn thẳng vào mọi vấn đề
ngay khi chúng vừa xuất hiện để có thể tìm hiểu nhân tố nào đã
gây tạo nên chúng .
Chẳng hạn như có một lần nào đó, do tình cờ ta
làm phiền lòng người khác rồi bị họ phản ứng, ở đây có thể
là một câu nói nặng lời. Nếu chúng ta biết cách lắng nghe một
cách trung thực những gì họ nói, chúng ta sẽ nhận ra ở đó một
sự thật hết sức thú vị. Sự nổi giận của con người chỉ đơn
giản là thái độ phản ứng mang tính chống trả, tự vệ và được
đặt cơ sở trên lòng sợ hãi, một nỗi sợ hãi hết sức sâu
kín và tiềm ẩn trong tận đáy lòng mỗi người. Nếu chúng ta giữ
được bình thản để đón nhận từng lời nói, ta sẽ thấy rằng
họ đã nói đúng theo những gì họ muốn. Mọi rắc rối đến đây
coi như đã tạm ổn, ít nhất cũng là về phía chúng ta.
Trong đời sống tu học của mình, càng giới hạn
những "sự cố" thì chúng ta càng được yên lành. Nếu có
một sự cố nào xảy ra ngoài ý muốn, ta cũng vẫn phải can đảm
đối diện với nó bằng trí tuệ Phật pháp, với tất cả những
khả năng thoải mái và khách quan nhất. Nhưng để có được một
cái nhìn bằng trí tuệ Phật pháp thì không phải là chuyện dễ dàng.
Bởi hãy nhớ rằng chúng ta vẫn còn đó quá nhiều những thói quen
mang tính bản năng. Chính cái bản năng này đã khiến cho ánh sáng
trí tuệ khó được thắp sáng lên. Chúng ta đâu có chịu nhìn ngắm
mọi sự theo đúng bản chất của chúng mà lại thường có thói quen
tô vẽ, nắn bóp chúng theo cách nghĩ bản năng cùng những giá trị
mà mình vẫn áp đặt lên nó.
Chúng ta phải từng bước học hỏi Phật pháp để
hoàn chỉnh bản thân mình cho ngày một vững vàng và độc lập hơn.
Chúng ta phải học cách biến cái bản năng mù quáng thành ra cái
bản lãnh đầy ý thức. Phật pháp đã cho ta nhiều bài học để
sửa mình đó là Giới, Định, Tuệ. Giới và Định là những phương
tiện tinh thần giúp ta ổn định tam nghiệp của bản thân (thân, khẩu,
ý ). Nếu tam nghiệp không được huấn luyện thì đời sống của
chúng ta cũng sẽ trở nên loạn động và như vậy, ta không thể nhìn
thấy được mọi sự đúng như bản chất của chúng. Nói một cách
khác, là chúng ta không thể nhìn thấy các vấn đề theo đúng tinh
thần ánh sáng của Phật pháp. Chúng ta cần thiết phải thọ trì một
cách nghiêm cẩn những pháp môn tu học mà Đức Phật đã để lại
cho người tìm đạo. Đó là học giới, các hạnh Đầu Đà để
tiết dục, một tấm lòng hào sảng, một bàn tay luôn biết mở rộng
để san sẻ cho tha nhân những gì mình có. Ta có thể xem đây là
những pháp môn để tu học. Những pháp môn này luôn mang lại cho ta
một sức mạnh để vượt qua các trở lực trong đời sống và
cuộc tu, đồng thời chúng cũng có ý nghĩa giúp ta thanh lọc nội
tâm của chính mình nữa.
Bảo là vượt qua các trở lực nhưng chúng ta vượt
qua bằng cách nào đây? Để trả lời câu hỏi này, tôi muốn lấy
ví dụ về pháp môn bố thí. Bất luận là ta đem đến biếu tặng cho
người khác một thứ vật chất nào đó hoặc hy sinh cho họ đôi
chút thời gian, công sức - tất cả những hy sinh đó đều là
những hình thức bố thí và chúng cũng đều là con đường giúp ta
vượt qua các trở ngại tinh thần để thanh lọc nội tâm. Ta đừng
bao giờ có một tính toán chật hẹp rằng mình hy sinh những thứ đó
để được đi về thiên giới. Cứu cánh đó thật ra không có gì
để được đảm bảo một cách tuyệt đối. Nếu ta bố thí mà vẫn
có một đời sống hư đốn thì đường xuống địa ngục đối với
chúng ta lúc này có thể sẽ gần hơn đường lên thiên giới. Như
vậy tốt nhất là chúng ta hãy sống với một tâm hồn hào sảng
không toan tính và nên hiểu rộng ý nghĩa của công đức bố thí
để nhắm tới mục đích tẩy rửa tâm hồn. Thực ra, chúng ta có
thể nhìn thấy được kết quả của từng hành động mà mình thực
hiện ngay trong đời sống hiện tại, chứ đâu phải đợi đến một
kiếp sống tương lai xa xôi nào đó. Nếu ta biết sống hy sinh cho
người khác bằng tất cả thành ý và chân tình ngay trong chính giây
phút thực hiện nghĩa cử hy sinh đó, ta cũng đã cảm nhận được
một niềm hạnh phúc và an lành rồi. Đây chính là thành quả
trước mắt của pháp môn bố thí mà ta cần phải biết thưởng
thức. Thái độ này xem ra còn hay hơn cái tư tưởng tù túng của
một người bố thí mà chỉ biết ngóng đợi quả báo ở kiếp lai
sinh .
Đối với việc thọ trì các học giới cũng vậy. Nếu
chúng ta giữ tròn các học giới bằng cách tất cả thành tâm,
giữ giới trong một tinh thần hồn nhiên và khiêm tốn, thì ta sẽ
cảm nhận được ở nội tâm mình một sức mạnh kỳ diệu lắm. Tâm
hồn của chúng ta lúc đó sẽ trở nên dũng mãnh và kiên cố hơn.
Với một tâm thái như vậy thì công phu thiền định nào cũng được
trợ lực một cách hữu hiệu. Như vậy giới luật trong sạch cũng
là một đoạn đường mà chúng ta phải đi qua trọng cuộc tu của mình
.
Nói một cách rốt ráo thì những điều được nhắc
đến trên đây chính là cái giá trị đào luyện ở các khu rừng
thiền như thế này. Mỗi rừng thiền đều luôn tạo điều kiện cho ta
biết cách tu học, áp dụng triệt để và hữu hiệu tất cả khả
năng cải hóa của chúng ta, để ta có thể nhìn thấy được thành
quả trước mắt của các nổ lực tu học. Chỉ cần ta dàn xếp
được nội tâm mình thì coi như cái phần thưởng cho mọi nổ lực
của chúng ta đã được bày sẵn ra đó. Như đã nói, chúng ta
không nên tu học trong cái lý tưởng hướng vọng về một thành
quả xa xôi nào đó ở tương lai, bởi vì ngay tại đây và bây
giờ ta đã có thể nhìn thấy nó rồi. Tất cả các thiện sự tự
chúng đã là một thành quả mà điều này có lẽ chẳng được
mấy người nhận thức nổi. Thậm chí, suy nghĩ của thiên hạ có khi
còn tệ hại hơn, có kẻ đã đem ghép chung việc đi chùa với công
chuyện làm ăn của Phật tử thâm niên rồi ngây thơ và hàm hồ
phủ nhận tất cả ý nghĩa tinh thần trong việc đến chùa tu học của
những người mộ đạo. Phải nói rằng đây là cả một sự ngộ
nhận hết sức nghiêm trọng. Bởi bất cứ giây phút nào ta thực
hiện các thiện hạnh thì cũng có nghĩ là ngay trong khoảnh khắc dó
người ta đang sống trong cảnh giới của thiện hạnh. Quả báo của
từng hành động lớn nhỏ cũng luôn gắn liền với nó. Nhân và
Quả ở đây tương quan nhau một cách vô cùng mật thiết. Điều này
không chỉ là trường hợp cá biệt đối với ác pháp hay thiện
pháp. Có lắm lúc chúng ta thấy nhiều người luôn sống tội lỗi
nhưng không có vẻ gì là bị đau khổ từ đời sống tội lỗi của
họ. Rồi ta lại nông nổi cho rằng các ác nghiệp không có hậu quả.
Phải nói đây là một cái nhìn vô minh .
Phật giáo vẫn dạy chúng ta rằng: "làm thiện gặp
lành, làm ác gặp dữ". Tiêu ngữ đó không phải là lý
thuyết suông hay một lời rao giảng mang ý nghĩa răn đời như một
giáo điều bình thường để kêu gọi nhân loại thay đổi nếp sống
ngoài xã hội. Câu giáo lý đó thật ra có ý nghĩa hết sức thâm
trầm, sâu sắc là đưa người Phật tử đến với cái trí tuệ
khám phá đời sống. Chính những hành động đã quy động nhân
cách của chúng ta. Chúng ta có là một tướng cướp, gái làm
tiền, kẻ lừa đảo, tên khát máu ..., tất cả đều xuất phát từ
từng hành động, ngôn ngữ và suy nghĩ của chúng ta. Cho nên Đức
Phật đã dạy rằng "Mỗi chúng sinh đều là chủ nhân ông tự
chịu trách nhiệm về những hạnh nghiệp của mình".
Dĩ nhiên, bên cạnh cái hậu quả căn bản ngay trong
hiện tại như vừa nói trên, các nghiệp thiện ác còn để lại
những hậu quả về sau mà thời gian thì luôn bất định. Chẳng hạn
như khi ta đánh cắp của ai đó một số tài sản lớn rồi tiêu xài
sung sướng trong một thời gian nào đó, cuối cùng khi sự việc bị
phát hiện, tất cả những cảm giác khoái lạc có được từ hành
động bất chính kia lúc này không còn nữa và bị thế chỗ bằng
những trừng phạt thích ứng. Đó là chưa kể đến cái ác báo
trong kiếp lai sinh. Có tĩnh tâm thiền định, ta sẽ thấm thía tất cả
những gì là quy luật nhân quả trong từng hành động lớn nhỏ .
Lần đó, tại nước Úc, tôi và đại đức Jagaro
đến phi trường Perth và đang đợi làm thủ tục hải quan, thì gặp
được một người đàn ông. Ông ta vừa uống xong một ít rượu
nhưng điều đặc biệt là qua cung cách chuyện trò thì lại có vẻ như
một nhà tư tưởng. Nhìn thấy chúng tôi, ông đã lập tức đặt ra
những câu hỏi về đạo Phật. Chúng tôi đã trả lời cho ông một
cách nhiệt tình. Khi chúng tôi đang nói, ông đột nhiên hỏi một
câu:
- Có phải là các vị luôn tôn kính Đức Phật?
- Vâng, điều đó dĩ nhiên rồi!
- Người ta đã kể cho tôi nghe rằng Đức Phật là
một con người cao khiết luôn có một đời sống gương mẫu, chẳng
hạn như sẵn sàng hy sinh bản thân cho người khác và được cả
thế giới tôn kính như một bậc hiền giả vĩ đại. Nhưng cuối cùng
rồi thì Ngài cũng qua đời phải không?
- Đúng như vậy!
- Các vị có đồng ý với tôi là những kẻ tàn
bạo như Hitler chẳng hạn, tàn sát biết bao người, gây đau khổ cho
hàng triệu người trên thế giới rồi cuối cùng cũng chết đi phải
không?
- Đúng như vậy!
- Vậy thì đâu có sự khác biệt nào trong cái chung
cuộc của những người đại hiền với những kẻ đại ác?
- Đúng là cuối cùng rồi thì ai cũng phải chết cả -
Tôi thong thả trả lời ông ta - Nhưng điều đó không có nghĩa là
mọi sự giống nhau. Đức Phật luôn hiểu rất rõ về cái chết. Cả
đời của Ngài là những ngày tháng hoàn toàn tỉnh thức để thấu
suốt về hai tiếng Sinh Tử. Trong những giây phút cuối cùng trên
giường chết, Đức Phật vẫn bình thản và tỉnh táo, không phân
vân nghi hoặc, cũng không tiếc nuối hay sợ hãi. Ngài là một
người đã có được đời sống Như Thật, sống đúng với chân
lý một cách hoàn thiện nhất . Còn Hitler hay những kẻ giống như
ông ta thì theo một cách nào đó, chẳng hiểu được gì về cái
chết. Hitler đã sống trong sợ hãi và thác loạn. Hạng người đó
coi như đã bị mù lòa trước bóng tối của những đau khổ và tất
cả những gì là chân lý trong đời. Đó cũng là lý do khiến Hitler
mù quáng lao vào tất cả những tội ác kinh khủng nhất. Hitler sống
trong khủng hoảng rồi cũng chết đi trong ngộ nhận và bóng tối. Cuộc
đời của Hitler chỉ có bóng tối và lỗi lầm. Như vậy, con người
luôn giống nhau ở điểm là đã trót sinh ra thì phải có ngày nhắm
mắt xuôi tay nhưng hoàn toàn khác nhau ở cách sống và cách chết.
Người thì luôn sống và chết trong sự hiểu biết, có kẻ lại chỉ
có thể sống và chết mà không có nổi một nhận thức nào hết ...
Câu chuyện nhỏ trên đây là cả một vấn đề vô
cùng quan trọng mà tất cả những người tu Phật nhất thiết phải
thấm thía nó bằng trọn vẹn khả năng của mình. Chúng ta đã có
hiểu gì về ý nghĩa của chữ "Phật"? Phật có nghĩa là sự
hiểu biết hoặc Người Hiểu Biết. Đạo Phật là một hệ thống giáo
lý đòi hỏi ở các giáo đồ cái khả năng Hiểu Biết, hiểu biết
về bản chất Như Thật của vạn sự, vạn vật.
Tuệ giác của Đức Phật và chư vị Thánh đệ tử,
nói cho cùng, chính là sự hiểu biết tận tường về bản thân mình.
Nếu muốn trở thành một người Phật tử đúng nghĩa thì điều bắt
buộc là chúng ta phải học cách nuôi lớn khả năng hiểu biết đó
ở chính mình. Sự hiểu biết này không hề giống như bao thứ kiến
thức thế tục thông thường khác vốn chỉ là một mớ hỗn độn
những dữ kiện thông tin cùng các lập trường tư tưởng chữ
nghĩa. Tôi nhắc lại, sự hiểu biết cần có ở đây chỉ đơn giản
là sự hiểu biết về chính bản thân mình.
Trong bất cứ phút giây nào xây dựng được ở
nội tâm mình công phu tu tập đó thì coi như ta đang trồng một cây
Bồ đề ngay trong chính tâm hồn mình. Tất cả những phiền não trở
lực rồi cũng sẽ thành ra những thứ phân bón vun xới cho cội
cây Bồ đề đó, cội cây của trí tuệ giác ngộ. Chúng ta rồi cũng
có thể tận dụng các phiền não để làm đối tượng tri nhận cho
đời sống tỉnh thức. Qua từng biến dịch của từng dòng tư tưởng
ta sẽ thấy rõ được đặc tính của những tham lam, sân hận và si
mê.
Chẳng hạn như khi một cơn giận dữ xảy đến, ta hãy
trung thực ghi nhận sự xuất hiện của nó mà dừng bao giờ tự
dối lòng bằng một suy nghĩ khác hay một câu nói nào đó rập khuôn
theo kinh điển: "Đâu phải tôi đang giận dữ, cái tâm trạng đó
đơn giản chỉ là một thứ rác rưới, một con mèo hoang thôi
mà!". Trong những cơn giận dữ, chúng ta thường khi tự đánh
mất nhận thức về nó bởi vì cứ mãi lo bận tâm hướng về cái
đối tượng đã chọc giận mình mà ít khi chịu nhìn ngắm lại nội
tâm bản thân. Đó cũng là một cái thói quen xấu của chúng ta.
Luôn nhìn ra mà chẳng mấy khi chịu nhìn vào!
Đức Phật đã từng dạy rằng tất cả những đối
tượng ngoại vi thật ra chẳng có ý nghĩa gì, điều quan trọng là
chúng ta phải tự biết cách đón nhận và xử lý nội tâm mình
bằng một trí tuệ quán sát. Chúng ta hãy học cách nhận diện và
nhìn ngắm từng thứ phiền não khi chúng đi qua lòng mình, xem mình có
cảm giác gì trước sự xuất hiện của chúng. Làm được điều
đó, có nghĩa là ta đã nhìn thấy được mọi sự qua ánh sáng của
Phật pháp. Vấn đề xem ra cũng không có gì là khó hiểu và xa vời
cho lắm: Khi ta hiểu được một cách chính xác cái bản chất gây
khổ của các phiền não thì ta cũng dần dần giải quyết được
chúng. Nhưng đến đây, thì chúng ta lại phải trả lời một câu hỏi
khác: tại sao tất cả chúng ta vẫn biết các phiền não là cội
nguồn của đau khổ mà vẫn tiếp tục ôm giữ nó?
Câu trả lời cũng đơn giản thôi: Nói thì dễ mà
làm thì mới khó. Nhưng chẳng sao hết, vì những thời pháp thoại
sẽ giúp đỡ chúng ta các hướng dẫn và nâng bước cho chúng ta
vào đường tu. Cho dầu hành trình đó có gian khổ đến mấy nhưng
trong từng phút giây nổ lực đưa mình ra khỏi những ràng buộc của
nội tâm thì chúng ta cũng đã là những Phật tử đúng nghĩa rồi .
Mấy ngày qua, trời không có mưa. Đi kinh hành khắp
rừng thiền, tôi cứ thấy như cây cối ở đây đang dần dần muốn
chết khô. Nhưng hôm nay trời đã mưa trở lại. Các vị có thấy
không, lũ ếch nhái cứ nhảy tới lui và kêu vang như hạnh phúc
lắm vậy. Trong rừng thiền này có mấy vũng nước cạn cho bọn
chúng tha hồ rong chơi và rất có thể ngay trong lúc này chúng chỉ
đơn giản tin tưởng rằng mấy vũng nước đó sẽ mãi mãi đầy
tràn mà đâu hề biết là chỉ nay mai thôi, khi trời không còn mưa
nữa, những ngày nắng sẽ kéo dài và chúng rất có thể sẽ bị
chết đi khi mấy vũng nước kia bắt đầu khô nứt.
Cuộc đời của chúng ta đâu có khác gì lũ ếch
nhái đó. Khi những điều kiện sống thoải mái chưa bị xâm phạm thì
ai cũng có thể thấy mình tràn trề hạnh phúc. Rồi đến lúc mọi
sự đổi thay, thì chắc chắn nếp sống của chúng ta cũng bị thay đổi
theo. Chúng ta có hiểu là từng người trên thế giới này phải
luôn sống lệ thuộc vào thiên nhiên nhưng có mấy ai đã nhận ra
điều đó. Hầu hết chúng ta cũng giống như đám ếch nhái bé nhỏ
kia thôi. Tâm sinh lý của con người cũng là một phần trong tạo hóa
thiên nhiên. Chúng ta đi ngược lại với thiên nhiên cũng có nghĩa
là chúng ta đang tự hủy diệt chính mình. Chúng ta không ai có thể
sống chối bỏ qui luật thiên nhiên mà ngược lại phải biết sống
hài hòa với nó. Chống lại thiên nhiên là đồng nghĩa với tự
sát .
Đến đây thì tôi xin kết thúc thời pháp thoại. Tôi
hy vọng rằng một số điều tôi đã đề cập có thể được quí vị
ứng dụng. Hay ít nhất các vị cũng có thể lấy đó làm một đề
tài để trở về tự kiểm nghiệm rồi nếu được, áp dụng chúng
vào cuộc tu của bản thân bằng chính trí tuệ của mình./.
(Trích "Họ đã nghĩ như thế", Tỳ kheo
Giác Nguyên dịch, Pháp Luân, Hoa Ky,ø xuất bản)