- Bàn về Thiền
Nguyên Thủy và Thiền Phát Triển
- Giáo sư Minh Chi
Pháp Sư Thái Hư cũng như Hòa Thượng
Thích Minh Châu đều dùng các từ Như Lai Thiền để chỉ Thiền Nguyên Thủy
và Tổ Sư Thiền để chỉ các hình thức Thiền Phát Triển sau này do các
Tổ Sư các Thiền phái nổi danh đề xướng và truyền lại cho các đệ tử
của mình. Cũng có người dùng các từ Thiền Tiểu Giáo (tức Thiền Tiểu
Thừa) và Thiền Ðại Giáo (tức Thiền Ðại Thừa) như Trần Thái Tôn
trong bài "Tọa Thiền Luận " của Khóa Hư Lục.
Chúng ta, những người hậu học,
chúng ta hãy thử không chấp nê vào từ ngữ, và nghiên cứu xem những gì
là mới, là sáng tạo mà các Tổ Sư đã đem lại cho nội dung và hình thức
của Thiền Như Lai, tức là Thiền Nguyên Thủy, như chúng ta có thể biết
rõ trong các bài kinh nổi danh, như "Kinh Tứ Niệm Xứ
(Satipatthana-sutta)" Trung Bộ 1 trang 96. Các Kinh "Nhập tức xuất tức
niệm", "Thân hành Niệm", "Ðại kinh bốn mươi" (Trung
Bộ III, trang 194, 206, 184) v.v...
Tư tưởng cơ bản không có gì thay
đổi.
Hãy dẫn chứng các đoạn điển hình
trong một số Kinh Nguyên Thủy:
"Các niệm và tư duy thuộc về
thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được
an trú, an tọa, chuyên nhứt, định tỉnh. Như vậy, này các Tỳ Kheo, vị Tỳ
Kheo tu tập thân hành niệm. (Kinh Thân Hành Niệm, Trung Bộ III, trang 207)
Chúng ta thấy qua đoạn kinh trên, mục
đích của Thiền là an trú, chuyên nhất, định tỉnh nội tâm và phương
pháp là đoạn trừ các niệm và tư duy thuộc thế tục.
Khi trình bày bốn cấp thiền của
sắc giới, Ðức Phật nói cụ thể hơn ở cấp Tứ Thiền của sắc giới,
hành giả thành tựu được cái gọi là xả niệm thanh tịnh, tức là ở
trong hành giả, chỉ còn lại một bầu nội tâm trong sáng vắng lặng
(thanh tịnh) và bất động, nghĩa là xả bỏ mọi niệm khả dĩ làm cho nội
tâm không được thanh tịnh, định tỉnh, chuyên nhứt.
Xả bỏ những niệm gì? Trước nhất
ở cấp sơ thiền, xả bỏ mọi niệm bất thiện, mọi dục vọng, thèm muốn
thế tục (ly dục, ly bất thiện pháp). Thứ hai, xả bỏ tầm và tứ, tức
là mọi niệm hướng tới bất cứ một đối tượng nào. Tầm và Tứ
chính là hoạt động bình thường của tâm thức chúng ta, hướng tới đối
tượng là tầm, tập trung vào đối tượng ấy là tứ, rất có thể là
thiện, khi chúng ta nghĩ điều hay, việc lành, nhưng nó làm tâm chúng ta động,
cho nên hại cho định tâm. Muốn thành tựu định tâm, hưởng được tâm
hỷ, lạc do định tâm, phải loại bỏ tầm và tứ. Ðó chính là câu thường
gặp trong các kinh nguyên thủy: "Tỳ kheo ấy diệt sạch tầm và tứ,
chứng và trú thiền thứ hai, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm....
" (Kinh Thân Hành Niệm đã dẫn, trang 212)
Do xả được tầm và tứ mà hành
giả có được định tâm, và hưởng được niềm vui do định tâm, như
trong kinh nói: "Chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc
do định sanh". Thế nhưng, sự định tâm vẫn chưa được hoàn hảo,
cho nên hành giả tiếp tục xả luôn cả tâm trạng hỷ để chứng thiền
thứ ba (Tỷ kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm lạc thọ
mà các bậc Thánh gọi là " Xả niệm lạc trú" chứng và trú thiền
thứ ba - Kinh đã dẫn, trang 212).
Do xả hỷ mà hành giả đạt tới
cảnh giới "Xả niệm lạc trú" thế nhưng hành giả nhận thấy,
tuy bỏ hỷ, nhưng vẫn còn lạc, còn động tâm, tuy là một động tâm rất
nhỏ nhiệm vi tế, cho nên, hành giả xả lạc, để chứng cấp thiền thứ
tư "không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh".
Có thể nói, các Tổ về sau không
nói gì hơn được về tiến trình biến chuyển nội tâm qua các cấp thiền
của sắc giới. Như là đúc Phật đã trình bày trong các Kinh Nguyên thủy.
Ở đây, chúng ta không cần nói tới các cấp thiền của Vô sắc giới,
trong đó, hành giả phá bỏ mọi sắc tưởng, mọi đối ngại tưởng, chứng
hư không vô biên xứ, thức vô biên xứ, không vô sở hữu xứ, phi tưởng
phi phi tưởng xứ và diệt thọ tưởng định....
Sở dĩ, tôi dẫn chứng các cấp
thiền của vô sắc là bởi vì trong bài Tọa Thiền Luận của Trần Thái
Tông, có những câu như:
"Liễu sinh không lý, chứng
thiên chân đạo nhi tu giả, thị tiểu giáo thiền. Ðạt nhân pháp không
nhi tu giả, thị đại giáo thiền. Kim hậu học chi nhân tu dĩ đại giáo
thiền vi chính. Thử tập tọa thiền tức niệm, vật sanh kiến giải
nhi".
Ðại ý, vua Trần Thái Tông phân biệt
thiền tiểu thừa là tu thiền mà còn chấp pháp là thực, tuy đã ngộ
thân năm uẩn là không có thực. Còn tu thiền đại thừa là tu thiền mà
không còn chấp các pháp là có thực, nghĩa là cả chánh y bào đều là
không, thân năm uẩn là không, ngoại trần cũng là không... Thực ra, tư tưởng
cơ bản của các kinh nguyên thủy là Vô Ngã, nhân cũng vô ngã mà cả
y báo cũng là vô ngã, nghĩa là không thật có, không đáng chấp trước, chấp
thủ.
Trong các Kinh Nguyên Thủy như các
kinh Tiểu Khổ Uẩn, Ðại Kinh Khổ Uẩn, Ðức Phật khuyên các đệ tử nên
xuất ly các dục, vì các dục là nguy hiểm. mặc dù có vị ngọt, là bởi
vì đối tượng sắc thanh hương vị xúc pháp của các dục là vô thường,
khổ, không, vô ngã... Ðó là tư tưởng căn bản của đạo đức Phật Giáo,
là mục đích trước mắt gần gũi của sơ thiền sắc giới là ly dục,
ly pháp bất thiện.
Cho nên, theo tôi suy nghĩ, nếu trong
thời Phật Giáo bộ phái, có một bộ phái nào đó tách khỏi Thượng Tọa
Bộ, chấp rằng các pháp là thật có, thì đó quyết không phải là giòng
tư tưởng chính thống của Phật Giáo Nguyên Thủy. Ðiều này thật rõ
ràng, đối với những ai có đọc và nghiên cứu các kinh Nguyên Thủy. Tư
tưởng cơ bản của Phật Giáo Nguyên Thủy là Vô Ngã, đối với chánh
báo cũng như y báo, đối với các loài hữu tình cũng như thế giới vô cơ,
tất cả đều là Vô thường, Khổ, Không, vì không có thực thể, do nhân
duyên sanh.
Nói tóm lại, tư tưởng cơ bản của
Phật Giáo, của thiền học từ khi đức Phật còn tại thế vẫn không có
gì thay đổi, tức là Chân Lý tối hậu là siêu ngôn ngữ, siêu tư duy cho
nên tự mỗi người phải thể hội qua nếp sống đạo đức và tu tập
thiền định, đạt tới chỗ dứt bỏ mọi vọng niêm, xả ly mọi kiến giải,
kiến thủ, trên thực tế chỉ là lý luận suông, (Trần Thái Tôn nói là
chớ có kiến giải). Nhưng muốn vậy, phải trên cơ sở tránh mọi điều
ác, làm mọi điều lành (giữ giới), thì mới có thể làm cho nội tâm trở
thành vắng lặng, sáng suốt được (Tự tịnh kỳ ý). Vắng lặng là định,
cũng gọi là Chỉ (nghĩa là ngưng chỉ mọi niệm). Sáng suốt là Tuệ,
cũng tức là Quán.
Nội dung của Thiền định là Chỉ
Quán . Hồi Phật còn tại thế là như vậy, hồi ngài Thiên Thai viét cuốn
"Chỉ quán nhập môn" cho tới bây giờ, các nhà Phật học bàn về
thiền ở Nhật, Trung Hoa hay là Thái, Miến Ðiện, Sri Lanka v.v... cũng chỉ
bàn Chỉ và Quán mà thôi. Và khi bàn, danh từ có thể đổi
thay, thế nhưng nội dung cũng không có gì đáng gọi là mới. Nội tâm
chúng ta xao động vì chạy theo ngoại trần, do đó phải ngồi thiền nơi vắng
lặng, giữ các căn không tiếp xúc với ngoại trần, cột niệm của mình,
tức là tư tưởng của mình vào một đối tượng để nó khỏi chạy lung
tung... Trong Kinh "Bốn Niệm Xứ", Phật dạy cột niệm vào bốn đối
tượng, tức là thân, cảm thọ, tâm và pháp. Như vậy, Ðức Phật dạy
phép chỉ quán đồng tu, mà mục đích tu tập Bốn niệm xứ cũng chỉ là:
- "Tỉnh giác, chánh niệm, chế
ngự tham ưu ở đời". (Kinh Niệm Xứ, Trung Bộ 196)
- "Ðoạn trừ các niệm và tư
duy thuộc về thế tục". (Kinh Thân Hành Niệm, Trung Bộ III . 206)
- "Ðoạn trừ tham ưu, sau khi thấy
với trí tuệ, khéo nhìn sự vật với niệm xả ly" (Kinh Nhập Tức Xuất
Tức Niệm, Trung Bộ III).
a) Cuốn Ðại Trí Ðộ Luận của
Ngài Long Thọ, nói về Thiền có điểm gì mới?
"Kẻ thực hành thiền quán biết
giác và quán là thiện pháp, nhưng chúng nhiễu loạn định tâm...
"Nếu có Tỷ kheo rời dục và
các pháp bất thiện, có giác có quán, sống hỷ và lạc thì vào được
thiền thứ nhứt.."
Ở đây, chỉ có sự thay đổi danh
từ dịch. Vitarka và Vicara chữ Phạn, về sau được dịch là tầm và tứ.
Thời Long Thọ dịch là giác và quán. Vào sơ thiền, ly dục ly bất thiện
pháp, được hỷ lạc, nhưng còn tầm và còn tứ... (tức là còn giác và
quán).
Trí Ðộ Luận viết tiếp: "Khi
giác và quán diệt, thì bên trong thanh tịnh, cột tâm vào một chỗ, không
còn giác, không còn quán, định sanh hỷ và lạc, thời vào được thiền
thứ hai".
Có thể nói, Phật nói về sơ thiền
như thế nào thì Long Thọ nói lại y nguyên như vậy, không gì gọi là
thêm mới.
b) Luận Sư Vô Trước (Asanga) trong
cuốn Sravakabbumi, giải thích về mục đích của Phật dạy phép bốn niệm
xứ: "Ðể đối trị nhận thức sai lầm về cái không trong sạch lại
cho là trong sạch, Phật dạy phép niệm thân, quán thân.. Ðể đối trị nhận
thức sai lầm cái khổ lại cho là vui, Phật dạy phép niệm thọ, quán thọ.
Ðể đối trị nhận thức sai lầm cái vô thường lại cho là thường, Phật
dạy phép quán tâm, niệm tâm. Ðể đối trị nhận thức sai lầm chấp các
pháp là có ngã, có thực, Phật dạy phép quán pháp, niệm pháp..." Như
vậy, là Vô Trước giải thích về Bốn Niệm xứ, làm cho rõ mục đích của
phép tu Bốn niệm xứ mà thôi.
c) Santideva tức là Thanh Thiên trong
chương XIII bộ Luận Siksasammuccaya, giải thích về phép Bốn Niệm xứ, có
hơi khác với Vô Trước đôi chút. Cần nhắc lại Santideva là đệ tử của
Long Thọ thuộc Không Tông, còn Vô Trước cùng với Thế Thân là người sáng
lập ra Du Già Tông tức Duy Thức Tông. Và hai tông này không phải là nhất
trí với nhau hoàn toàn. Santideva viết là: "Mục đích của phép quán
thân bất tịnh, suy già là để liên hệ tới pháp thân thường trú, vĩnh
hằng của Phật; khi quán thọ, vì Bồ Tát liên hệ tới chúng sanh đang bị
cảm thọ chi phối và mở rộng lòng đại bi đối với họ; khi quán tâm vị
Bồ Tát quán thấy mọi hành tướng của tâm như là ảo ảnh; và khi quán
các pháp, vị Bồ Tát thấy mọi pháp đều là vô ngã, không có thực thể."
d) Cuốn "Tu Tập Chỉ Quán Toạ
Thiền Pháp Yếu Giảng Thuật " của Pháp Sư Bảo Tịnh có giới thiệu
khá chi tiết phép Thiền Quán của Tông Thiên Thai, như Ðại sư Trí Khải dạy.
Theo tôi, ngoài sự sắp xếp các mục có vẻ mới ra, còn nội dung không
có gì mới hơn, cụ thể hơn những gì Phật dạy trong các Kinh Nguyên Thủy.
Về Chỉ tức là phương pháp làm cho tâm không bị tán loạn, không
chạy theo ngoại trần, đại sư Trí Khải giảng ba phương pháp:
1) Hệ Duyên Thủ Cảnh Chỉ: Tức
là cột tưởng, hay là cột niệm vào một đối tượng như là đầu lỗ
mũi, đầu lỗ rốn (đan điền), hay một câu, một chữ thường gọi là
thoại đầu, hay là tượng ảnh Phật, Bồ Tát. Kinh Nguyên Thủy thì dạy cột
niệm vào hơi thở, hay cột niệm vào bốn xứ như trên đã phân tích.
2) Chế Tâm Chỉ: Tức là
trong nội tâm, khởi lên niệm gì, đều xả bỏ hết, ngài Trí Khải dùng
từ phóng bạ, nghĩa là không chấp thủ, không nắm lấy, không vướng.
3) Thế Thân Chỉ: Tức là
quán nhân duyên, bất cứ sự gì, vật gì, hiện tượng gì chúng ta nghĩ tới
đều là nhân duyên sanh, nghĩa là vô ngã, không có thực, cho nên không đáng
tham đắm, chấp trước.
Như chúng ta thấy ở ba mục nầy,
ngài Trí Khải kết hợp Chỉ và Quán, như Phật đã làm ngay từ đầu, với
kinh Niệm Xứ: "Quán thân trên thân, quán thọ trên thọ....."
Về phép Quán, ngài Trí Khải cũng
phân biệt hai loại:
1) Ðối trị Quán: Như quán bất
tịnh để đối trị lòng tham, quán từ bi đối trị lòng giận, quán sổ
tức (đếm hơi thở) đối trị vọng niệm và động niệm.
2) Chánh Quán: Cũng tức là
nhân duyên quán, tức là quán trực tiếp tất cả mọi pháp đều là nhân
duyên sanh, cho nên không có thực thể, rỗng không, hư giả, hết thảy các
tướng như kinh Kim Cang nói, đều là hư vọng, nếu quán thấy được hết
thảy các tướng đều là phi tướng, như vậy mới thấy được thực tướng
v.v...
Nói tóm lại, nội dung chỉ quán
theo tông Thiên Thai là như vậy, thực ra không có gì mới mẻ so với Thiền
Nguyên Thủy.
e) "Zen Training". Cuối cùng
tôi muốn giới thiệu vài nội dung trong cuốn "Zen Training" của Thiền
sư Nhật Katsuki Ikeda. Một cuốn "Luyện thiền" (Ðầu đề cuốn sách)
so với cuốn sách Thiền của tông Thiên Thai thì mới hơn nhiều, bởi vì nếu
tôi không nhầm thì vị Thiền sư Nhật này hiện còn sống, từng giảng
Thiền ở Nhật và Hạ Uy Di trong nhiều năm. Theo ông, có hai loại Samadhi:
Samadhi tích cực và Samadhi tuyệt đối. Khi chúng ta tập trung tư tưởng không
xao lãng vào bất cứ một đối tượng hay công việc gì, thì đó là
Samadhi tích cực. Có thể nói, bất cứ người nào muốn làm việc gì có
hiệu quả, đều mặc nhiên thực hành Samadhi tích cực. Loại này ông Ikeda
không bàn nhiều. Ông chỉ nói, để có được Samadhi tích cực, thì một
cách không tự giác, chúng ta phải giữ thân bất động, phải nín thở hay
là thở nhẹ đều... Như vậty, ông Ikeda kết luận là để thành tựu định
tâm nói chung, phải có sự phối hợp của cả thân và hơi thở. Và ông
nói muốn đạt tới cảnh giới Samadhi tuyệt đối nghĩa là một cảnh giới
nội tâm hoàn toàn bình lặng, mà ông gọi là vô niệm (Kinh Nguyên Thủy
nói tịnh chỉ tầm và tứ), thì phải ngồi thiền, đạt tới thân bất động
và thở đều, lúc đầu thì đếm hơi thở, rồi sau theo dõi hơi thở, tập
mãi đến lúc không còn cảm giác về thân nữa, cũng không còn cảm thọ nữa,
một tình trạng mà thiền sư gọi là off sensation nghĩa là không còn
có thọ nữa, cũng không còn có tưởng nữa, bởi lẽ mọi hoạt động của
tâm thức đều ngưng chỉ. Tình trạng bình lặng nội tâm đó được gọi
là tình trạng tồn tại thuần túy (pure existence).
Tôi nghĩ, đó chỉ là cảnh nhị
thiền mà Phật đã nói tới trong các kinh Nguyên Thủy mà thôi, chứ không
có gì mới lạ.
( Trích: "Thiền Nguyên Thủy
và Thiền Phát triển", Thiền viện Vạn Hạnh, Sài gòn, 1994)
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/045-banvethien.htm