- THIỀN SƯ BĂNG HOÀI TẾ
NĂNG THỊ CHÚNG
Sư họ Châu, người
Sơn Âm, từ nhỏ đã biết lấy việc niệm Phật thoát liễu sanh tử làm
việc bổn phận. Năm 19 tuổi Sư xuất gia, tham học với Hòa thượng Trạm
Nhiên ở Hiển Thánh, theo Hòa thượng Kim Túc Mật thọ giới. Túc Mật dạy
Sư tham thoại đầu “Que phân khô”. Sau, Sư đến Bắc thiền ở Cô Tô
tham vấn Lão hòa thượng Hán Nguyệt, thấy đạo tràng có người tỉnh ngộ,
Sư bùi ngùi sanh hổ thẹn, từ đó dõng mãnh dụng công. Ngày nọ, đang ăn
cơm, Sư ngẩng đầu thấy cửa sổ, hoát nhiên tỉnh ngộ. Hán Nguyệt xuống
trai đường hỏi Sư :
- Nghe nói ông có lối
vào, ông vào bằng cách nào ?
Sư lấy chân đạp
đất. Hán Nguyệt hỏi :
- Gót chân này
của ông so với Mã Tổ đạp Hòa thượng Thủy Lạo ngã nhào là giống hay
khác ?
Sư đáp :
- Giống và khác rốt cuộc chẳng dính
dáng.
Hán Nguyệt dựng
đứng thanh tre hỏi :
- Gọi thanh tre
thì kẹt, không gọi thanh tre thì sai, ông gọi là cái gì ?
Sư đáp :
- Sông Phổ uốn
quanh chảy vào Trường Giang.
Hán Nguyệt nói :
- Ông cứ như hôm
nay mà hạ thủ công phu đi.
Lúc này Hòa thượng
Tam Phong Phạm Y, Hòa thượng Thụy Quang Đảnh Mục làm Thủ tòa hai đạo
tràng, Sư đều đến tham vấn. Ngày nọ, tiết trời mát mẻ, Sư thả bộ
xuống khe suối. Chợt thấy hoa đào nở đầy, mọi mối nghi từ trước
trong Sư rủ sạch. Sư thể nhập yếu chỉ tông Lâm Tế và làm bài kệ :
Năm
xưa rớt trong đám dây leo
Ngày
nay thoát khỏi mớ lau bèo
Từ
đây ngồi phá trăng ngàn đỉnh
Thay đổi mắt mi kẻ nhìn theo.
Thế rồi Sư mai
danh ẩn tích trong Lô Sơn mấy năm, sau vân du khắp nơi, rồi quy ẩn trong Vân
Đảnh Sơn, Diêu Giang, tự lấy hiệu là Nhất Hác Tử. Những năm về già,
Sư thâm nhập pháp môn Tịnh độ.
*
* *
Pháp ngữ khai thị
hành giả Tịnh độ
Người niệm Phật
chỉ cần cử một câu Di-đà, lấy đó làm việc hướng thượng thẳng tới.
Ngài Vĩnh Minh nói : “Cách học đạo không có gì kỳ đặc, ngoài việc chỉ
cần tẩy sạch chủng tử nghiệp thức từ vô lượng kiếp đến nay của
sáu căn”. Lời này quả rốt ráo ! Bởi con người sống trong vòng ngũ dục,
thí như thích sắc thì có bóng dáng của sắc rơi ngay trong cửa ngõ sáu căn.
Khi vào sâu trong ruộng tám thức, nó thường hiện khởi trong thấy, nghe,
hiểu biết, sanh tình sanh ái, xả bỏ không được. Nó khởi vô số Hoặc,
sanh vô lượng tham đắm, tạo vô lượng nghiệp, chịu vô vàn khổ, đều
do bóng dáng này gây nên. Bóng dáng tức là chủng tử, cũng chính là tập
khí. Phật biết tập khí khó trừ nên dạy chúng ta chấp trì một câu Di-đà,
chuyên tâm mà niệm thì tập khí dần dần tiêu, ánh sáng của tâm dần dần
hiển lộ, từ phần chứng dần dần đến toàn chứng. Niệm niệm liên tục,
tất đến lúc tập khí tiêu hết, gốc rễ tự dứt thì tự nhiên cùng chư
Phật sánh vai mà đi, đồng thở một lỗ mũi. Đó chẳng phải là một
câu mà rõ ràng vượt hẳn trăm ức chăng ! Sắc là một trong ngũ dục đã
như vậy, thì thanh, hương, vị, xúc có thể tự nghiệm biết.
Kinh Hoa Nghiêm chép
: “Nếu người muốn biết cảnh giới Phật, phải tịnh ý mình như hư không,
lìa xa vọng tưởng và các nẻo, khiến người hướng đến đều không ngại”.
Cảnh giới Phật thì người người vốn có, mỗi mỗi hiện thành, chỉ
vì trần tình che lấp nên nó trở thành biển nghiệp. Nay muốn chuyển biển
nghiệp này thành cảnh giới Phật thì trước tiên phải làm thanh tịnh ý
mình. Ý đã tịnh thì ngày ngày thường ở trong cảnh giới Phật. Rất nhiều
người sở dĩ không làm thanh tịnh ý mình được, đều do bị vọng tưởng
và các nẻo làm nhiễm ô. Muốn lìa xa nó thì phải thống thiết mà sách tấn
lên, nhất tâm bất loạn chấp trì danh hiệu, chớ bàn thị phi, được mất,
chỉ một lòng tin vào lời Phật, niệm tịnh liên tục, câu câu rõ ràng.
Niệm đến lâu ngày tất nhiên chuyển hóa vọng tưởng thành chánh niệm,
biến các nẻo thành giải thoát.
Pháp môn Tịnh độ
xem thì dường như dễ, trì thì thật là khó. Bởi người học tập thì
ít, người nghi ngờ thì nhiều, nên pháp môn vi diệu này ít có người đủ
lòng tin thú hướng tu tập. Do đó trong Kinh Di Đà gọi đây là “pháp khó
tin”. Phàm ý chỉ thâm sâu của Phật là muốn con người mượn Di-đà ở
Tây phương để chứng Di-đà của chính mình, mượn Tịnh độ của Tây phương
để chứng Tịnh độ của chính mình. Chứng đắc Tịnh độ, Di-đà của
chính mình, thì Tây phương cũng là cõi Phật của chính mình. Không những
Tây phương là cõi Phật của chính mình mà Đông phương, Uế độ của tất
cả chúng sanh cũng là Tịnh độ của chính mình, Di-đà của chính mình,
cho đến thế giới mười phương, không có mảy vi trần nào mà chẳng phải
là cõi Phật tự tâm của ta. Tất cả diệu dụng ấy đều nằm trong một
câu Di-đà. Khai cội nguồn, mở căn nguyên thì một Tịnh thì tất cả Tịnh,
một chứng thì tất cả chứng. Pháp môn này ý chỉ sâu xa, không phải người
học rộng, tu tập lâu ngày thì không thể thấu suốt được.
Tây phương được
gọi là thế giới Cực Lạc. Lạc này là sự an lạc xứng tánh. Cơm áo hiện
thành, lầu đài đủ cả, ao báu tùy ý, nhạc trời rộn vang, khí trời ôn
hòa, con người không bị cái lạnh cắt da. Gió nhẹ thổi qua, phiền não
tiêu sạch, hoa rơi lả tả, hương trời thơm ngát, lại có chim muông thuyết
pháp nên người mê cũng ngộ. Có bậc Thượng thiện làm bạn, nên kẻ tà
cũng thành chánh; ánh sáng có cả ngày đêm, nên u ám trừ sạch, thấy nghe
thanh tịnh, trí tuệ tăng trưởng, hằng sa Tam-muội chẳng cầu mà tự chứng,
vô lượng diệu dụng, đâu đợi tu lâu. Còn nữa, không có cái vui thoái
đọa mà có niềm vui tinh tấn, bởi vậy chư Phật mười phương tán thán,
quả thật là cảnh giới không thể nghĩ bàn của Đại thừa, khiến cho chúng
sanh vượt ngang ba cõi, lên thẳng Bát địa, Quyền thừa Nhị thừa lẽ đâu
sánh kịp ! Còn như người chuyên chí Tây phương, chỉ trong bảy ngày được
Nhất tâm bất loạn thì vào ngay đất Bất thoái, khoanh tay an nhàn, như vầng
trăng sáng rỡ giữa hư không, không mảy trần nào vấy bẩn được, như
hoa sen mọc lên từ đất dơ. Cuối cùng khép mắt, đứng mà chết, ngồi
mà tịch, thong dong nơi thế giới Cực Lạc, không khác Phật A-di-đà.
Sau khi tỏ ngộ còn
phải siêng niệm Phật để sanh Tây phương chứng đắc hằng sa diệu dụng.
Một khi đã sanh về cõi ấy thì không thứ gì ta không biết, không hiểu,
thấu tận căn nguyên của các pháp, đó gọi là “chứng đắc trí tuệ đồng
như Phật”. Hễ thân cận Di-đà thì tất cả phiền não trong đất phàm
tâm, nào hiện hành, chủng tử đều dứt sạch, đó gọi là “làm sạch
không phiền não đồng như Phật”. Hàng Ngũ địa Bồ-tát của Hoa Nghiêm
vẫn còn học khắp tất cả pháp thế gian để tùy thuận giáo hóa chúng
sanh, còn như người sanh Tây phương, thì tất cả Hoặc nghiệp chướng ngại
việc giáo hóa, dù nhỏ nhiệm như mảy trần, hạt cát đều rốt ráo đoạn
sạch, đó gọi là “phá sạch trần sa như Phật không khác”. Tất cả
vô minh khó đoạn nhất, Thích-ca tu tập trong muôn kiếp ngàn đời mới đoạn
sạch, còn như người sanh Tịnh độ liền đoạn ngay được vô minh, lên
ngay quả Đẳng giác, đó gọi là “đoạn sạch vô minh như Phật không
khác”. Hễ người sanh về Tây phương, đi trên đất như đi trên nước,
đi trên nước như đi trên đất, vô số biến hóa, không thứ gì mà làm
chẳng được, đó gọi là “đủ cả thần thông như Phật không khác”.
Hễ nghe diệu pháp âm thì thấu triệt ngọn nguồn lý tánh, tự tại vô ngại,
an vui xứng tánh, đó gọi là “thấy suốt thể tánh như Phật không khác”.
Hễ nương thần lực của Phật thì đủ sức giải thoát, làm được việc
khó làm, độ những kẻ khó độ, điều phục kẻ cang cường, hạnh nguyện
Bồ-đề thảy đều tu tập, không thứ gì chẳng thể viên mãn, lại có hằng
sa diệu dụng, vô lượng diệu trang nghiêm, đó gọi là “chứng các diệu
hạnh như Phật không khác”. Đến được đất này thì gọi là sanh vào
nhà Như Lai, thọ dụng đồng như Phật. Nếu sau khi rõ tâm thấy tánh mà
liền khoanh tay, không đặt chí về Tây phương Tịnh độ thì người này
trụ nơi Hóa thành của Thanh văn, rốt cuộc không được vào Bảo sở của
chư Phật.
Phàm con người, chỉ
một niệm bất giác thì mê việc lớn này, đánh mất chánh niệm Kim cang
liền trở thành vọng niệm tạp nhiễm. Niệm này vừa khởi ở trong thì
hiện ngay ra đầu cửa sáu căn, đều là việc tạp nhiễm. Bởi vậy, những
gì chiêu cảm từ bên ngoài đều là Uế độ tạp nhiễm. Thế giới một
phương đã Uế thì thế giới mười phương cũng thành Uế độ, vô lượng
diệu nghĩa, trăm ngàn pháp môn đều biến thành gai góc. Những thứ mắt
thấy, những điều tai nghe, tất cả đều thành cảnh của phiền não. Bởi
vậy, chúng sanh bị nó trói buộc, chịu vô lượng khổ, không được giải
thoát. Phật mở con đường thẳng tắt vi diệu, khiến người tin mà đi tới,
có thể đoạn dứt khổ, chuyển được tâm. Nhưng cần phải buông bỏ mọi
việc, chỉ cử một câu Di-đà, chẳng kể gì rảnh bận. Tu tập nhiều
tháng nhiều năm, tự nhiên thuần nhất không tạp, đã thuần lại thuần hơn,
liền được nhất niệm thuần chân. Đó là nhất niệm thuần tịnh. Một
niệm thanh tịnh thì sáu căn thanh tịnh. Bên trong thân tâm đã thanh tịnh,
thì bên ngoài chiêu cảm thế giới Tịnh độ cũng được thanh tịnh. Nói
rộng ra thì thế giới mười phương cũng thanh tịnh, đương nhiên không rơi
vào bốn câu, trăm lỗi. Đây là diệu dụng xuất cách. Nhân đã thanh tịnh
thì quả đương nhiên sẽ thanh tịnh. Như cha thanh tịnh hay thực hành lòng
từ, thì con thanh tịnh hay tận tâm hiếu kính; vua thanh tịnh hay dùng người
sáng suốt thì bề tôi thanh tịnh hay bắt chước người tài. Tăng thanh tịnh
hay thành tựu đạo nghiệp thì tục thanh tịnh hay học theo phạm hạnh ấy.
Trong cảnh thuận mà thanh tịnh thì trong cảnh nghịch cũng thanh tịnh, nhẫn
đến hạnh tham của Bà Tu Mật Nữ cũng thanh tịnh, tâm sân của Quốc vương
Vô Yểm cũng thanh tịnh, tâm si độn của Thắng Nhiệt Bà-la-môn cũng thanh
tịnh. Tất cả vô minh phiền não đều hóa thành thanh tịnh, phường dâm
quán rượu cũng thanh tịnh. Đến cảnh giới này thì cung ma, hang hùm,
thiên thượng, nhân gian đều vỗ tay đi qua, ca sầu vui múa, làm kẻ tự tại.
Vậy thì, niệm Phật hay sanh Tây phương, phá sanh tử, ra khỏi ba cõi, vượt
khỏi trói buộc, thoát khỏi hầm lửa, thấy rõ tự tâm, ra khỏi nanh vuốt,
sức ấy lớn thay ! Có đường thẳng tắt như vậy mà không chịu đi, trái
lại còn chê bai bài xích, quả thật là kẻ phàm phu điên đảo, chủng tử
ngu mê, thật xót thương thay !
Một môn niệm Phật,
nếu thâm nhập thì nhận được phép tắc Vô tận tạng của Như Lai. Tạng
ấy, ai nấy đều sẵn có, nhưng bị trần duyên che lấp nên không tự thấy,
cần phải niệm Phật để khơi nó lộ ra. Như kẻ nghèo túng biết có của
báu ẩn tàng ngay trong nhà thì phải kiên tâm trì chí, lao động cật lực,
cày xới đất lên. Một khi đất đã hết thì kho báu tự hiện. Từ đó,
kẻ ấy được gọi là ông Trưởng giả giàu có. Nên biết một câu Di-đà,
đi đứng chẳng lìa, khổ vui chẳng quên, tâm tâm liên tục, đọc nghe rõ
ràng, tiến mãi chẳng dừng. Niệm đã tha thiết, trần chướng liền mở,
lên nhà vào thất liền có thọ dụng, đó là kho báu vô tận. Trong đời mạt
pháp, tuy người tham thiền hầu hết có tỏ ngộ, nhưng rất khó chứng,
không thoát khỏi triền phược. Nếu như niệm Phật ngay thì dõng mãnh tiến
tới, có thể thực hành thì ít nhưng công năng thì sâu. Các ngài như Tử
Tâm Ngộ Tân, Thiên Như Duy Tắc, Viên Chiếu Tông Bản, Tịnh Thọ Từ
Thâm, Chơn Hiết Thanh Liễu, Vĩnh Minh Diên Thọ là bậc rường cột của
năm tông, đều thú hướng pháp môn này mà nhận được Như Lai tạng. Bởi
vậy, thâm nhập pháp môn này thì cặn đục tự nhiên tiêu hết, vô minh tự
nhiên hết sạch, sáu căn tự nhiên thanh tịnh, biển nghiệp tự nhiên cạn
khô, sanh tử tự nhiên tịch diệt, Tam-muội tự nhiên hiện tiền, Lục
thông tự nhiên đầy đủ, bờ Giác tự nhiên vượt lên, công đức tự
nhiên thành tựu, rõ nhân thấu quả, lợi mình lợi người, cùng sanh Cực
Lạc, vào ngôi Bất thối. Cổ đức nói : “Nhiếp phục 6 căn, Tịnh niệm
liên tục, không quá 49 ngày liền chứng Tam-muội. Tam-muội đã thành, đều
được giải thoát, ta mặc tình lấy nhưng không hết, dùng nhưng không cạn”.
Ngài Vân Thê nói : “Ngang bằng chư Thánh trong một lời, vượt ngoài ba kỳ
trong một niệm, thì chỉ có công đức niệm Phật mà thôi”. Như vậy, chặt
thẳng thống khổ, chẳng qua chi ly, vượt ngay nhân hữu lậu, trọn chứng
quả vô vi, pháp môn thù thắng này, ta nguyện cùng tất cả chúng sanh trong
đại địa nhắm ngay đó mà vào.
Có người hỏi :
Nghĩa của Tây phương Tịnh độ thế nào ?
Sư đáp : Tịnh độ
tức là công phu tu tập đến chỗ rốt ráo nhất, mọi thứ cặn bã đều
tiêu sạch, không còn mảy may cấu uế. Khi thật sự đến đất ấy rồi
thì phàm thánh đều hết, chân ngụy đều quên thì đó là Tịnh độ chân
thật, mới là nơi an thân lập mạng của ta. Còn như Tây phương, có đủ
7 nghĩa :
1. Đứng về năm màu
mà luận, thì Tây phương là màu trắng, không có các thứ nhiễm ô, tượng
trưng cho sự sáng sạch. Người tu Tịnh độ dùng một câu Di-đà gội rửa
ba nghiệp thân khẩu ý, là làm thanh tịnh chánh nhân, nhân tịnh thì quả cũng
tịnh. Bởi vậy người niệm Phật, lâm chung sanh Tây phương, chính là
nhân quả tương hợp.
2. Đứng về bốn mùa
mà luận, thì Đông phương là đất sinh trưởng tượng trưng cho mùa Xuân;
Tây phương là nơi làm cho chín, tượng trưng cho mùa Thu. Giống như phàm
phu phát tâm ở phương Đông, nhờ niệm Phật mà vãng sanh, tức là thành
thục đạo quả ở phương Tây.
3. Theo Ngũ hành mà
luận, thì Đông phương thuộc Mộc, Tây phương thuộc Kim. Mộc gặp búa
rìu đẽo gọt chuyển cây tạp thành rường cột. Phàm phu giống như cây
chưa đẽo gọt, chịu nhất tâm hệ niệm danh hiệu Phật ở Tây phương, rõ
ràng được búa rìu đẽo chạm, tự chuyển phàm thành thánh, đạo đức
hoàn bị.
4. Theo Bát quái mà
luận, thì Đông phương thuộc quẻ Chấn, biểu trưng cho động, động thì
sanh các thứ khổ não, nên thế giới Ta bà được gọi là Khổ hải. Tây
phương thuộc quẻ Đoài, tượng trưng cho an vui, nên Tây phương có tên là
thế giới An Dưỡng hay cõi Cực Lạc.
5. Theo mặt trời mặt
trăng mà luận thì, mặt trời là Dương, tượng trưng cho Trời, mặt trăng
là Âm, tượng trưng cho Đất. Hai hành tinh này mọc ở phương Đông và lặn
ở phương Tây, con người nên bắt chước, siêng tu Tịnh nghiệp cầu về
Tây phương, đó gọi là đạo Tam tài nhất quán (Thiên, địa, nhơn).
6. Con người ở Đông
phương giống như cây, mùa Xuân thì đâm chồi nảy lộc, mùa Thu thì lá rụng
cành khô. Tươi, khô, thịnh, suy này giống như chúng sanh khi ở trong biển
khổ Ta bà bị phiền lụy bởi những thứ như sống chết, thành bại, được
mất … Còn Tây phương giống như vàng
ròng, vàng thì trải qua muôn kiếp vẫn chẳng hư hoại, ở trong dơ bẩn
nhưng không biến chất, vào nước lửa chẳng đổi thay, nên người sanh Tây
phương được gọi là Cực Lạc, vượt sanh tử, thoát ba cõi.
7. Đông phương là
nước hữu vi, nào ăn, mặc, cung điện, nhà cửa, vật dụng, tất cả phải
do sức người làm ra mới có, Đông
phương là cõi Dục lạc. Phàm những ai ở quốc độ này đều tham cái vui
ngũ dục, mê mất mặt mũi thanh tịnh xưa nay. Còn Tây phương là nước vô
vi, nghĩ đến áo thì áo hiện, nghĩ đến ăn thì ăn đến, muôn ngàn thọ
dụng tự nhiên, chẳng phải nhọc công làm, Tây phương là cõi Tánh lạc.
Người sanh Tịnh độ hưởng sự an vui xứng tánh soi thấy năm uẩn đều
không.
Hỏi : Buông bỏ hết
tình thức, xưa nói “liền có thể ngộ được ông chủ trong mộng” sao
còn dùng công phu thẳng tắt, lại dạy người phải khổ công niệm Phật,
nhắm trong cái chi ly mà cầu ?
Đáp : Buông bỏ hết
tình thức rất là dễ dàng, chỉ là người đời không thể buông bỏ, mà
cũng chưa từng buông bỏ. Nếu khởi tâm muốn buông thì liền nảy sinh lắm
việc, vừa khởi tâm muốn bỏ, lại càng thêm phiền toái. Bởi phàm phu
tìm kế sống ngay nơi tâm ý thức, muốn dùng tâm ý thức để buông bỏ
muôn duyên, chẳng khác nào đem lửa đom đóm thiêu cháy núi Tu Di, rốt cuộc
không thể thiêu được. Chỉ có người đại triệt đại ngộ mới hay khéo
dùng, còn lại đều không thể. Cho nên nếu không thâm nhập pháp môn niệm
Phật, thì mặc kệ người khác buông hay không buông, bỏ hay không bỏ,
mình chỉ lớn tiếng niệm đi niệm lại, đầu sào trăm thước hố thẳm
buông tay, tình duyên chẳng đoạn nhưng mất, khí chất chẳng đổi nhưng
thay, liền có thể buông thân nằm ngang, đến đi tự tại, hiện tại chính
là cố hương yên bình của mình.
Hỏi : Trong thời
Oai Âm Vương, trước lúc cha mẹ sanh ra ấy, có gọi là Tịnh độ không ?
Có gọi là Tự tánh Di-đà không ?
Đáp : Thời Oai Âm
Vương, trước lúc cha mẹ sanh ra, cố nhiên là chân Tịnh độ, chân Tự
tánh Di-đà, chỉ do vì gọi tên không được. Nhưng nếu gọi được thì
thành Uế độ mà không còn là Tịnh độ, liền thành phàm phu mà không phải
là Di-đà. Chúng sanh trong thế giới Ta bà chỉ vì danh tự này mà bỏ
không được, quên không xong, cho nên chuyển Phật Di-đà trong pháp giới
thanh tịnh xưa nay vốn có thành phàm phu trong đời ác ngũ trược. Nếu
trong lòng không có thứ tạp nhạp ấy thì tự nhiên cùng tắc biến, biến
tắc thông, chỗ thông ấy thấy Tự tánh Di-đà, liền chứng Duy tâm Tịnh
độ.
Hỏi : Thiền sư khi
đại ngộ rồi, có thể thong dong trong Thường Tịch Quang, đâu cần cầu
sanh Tây phương, sau đó mới gọi là
có ích ?
Đáp : Thiền sư quả
thật có sức mạnh lớn, đến khi buông bỏ thân mạng thì liền được chút
phần thọ dụng trong Thường Tịch Quang. Nhưng tập khí vẫn còn dày, nên
tiến tới rất khó khăn. Trí tuệ cỡ như Lô Xá Na Phật mà còn phải tu
tâm trăm kiếp, nếu người trí chưa bằng như Phật ấy thì chưa có ai chẳng
bị nghịch cảnh đánh mất. Bởi vậy cầu sanh về báo độ của Phật
Di-đà, gần gũi báo thân Di-đà, trước giữ chắc mình không thoái chuyển,
lại càng phải tinh tấn mới vào được giai vị Phật.
Hỏi : Cõi này cũng
có ao, hoa, suối, cây v.v… đáng vui, cõi kia ao, hoa, suối, cây v.v… cũng
đâu hơn cõi này, tại sao lại nói Tây phương là do xứng tánh mà hiện ?
Đáp : Phàm phu có
hai tình chấp khó thay đổi, nên rơi hết trong sanh tử luân hồi. Cảnh giới
mà cõi này có đều do đối đãi mà hiện. Có thành có hoại, nên gọi là
cảnh sanh diệt. Nếu sanh cõi kia rồi, lìa đối đãi của ba cõi, vượt
sanh tử thoát luân hồi, cho nên trong thế nào thì hiện ra ngoài thế ấy.
Nếu chúng ta đến được đất ấy, tức chân ngụy đều quên, ao, suối,
hoa, cây muôn thứ hiện ở bên ngoài đó không rơi vào chân ngụy trùng
trùng, có thể thấy chân cảnh của xứng tánh, an vui xứng tánh, không hề
có các việc tươi, khô, thịnh, suy, tuyệt nhiên không phải do đối đãi
mà thành, không mảy may rơi vào pháp sanh diệt. Đương nhiên, ta không thể
đem tâm phàm phu suy lường rồi nghĩ bàn mà cầu được, lẽ đâu cõi này
sánh kịp !
Hỏi : Nghe rằng, người
niệm Phật cũng vào được pháp giới Tịnh độ, vậy cái gì gọi là
pháp giới Tịnh độ ? Và phải tu như thế nào để vào được ? Nếu xưa
nay thanh tịnh thì dùng niệm Phật làm gì ? Nếu xưa nay dơ uế thì tại
sao niệm Phật liền được thanh tịnh ?
Đáp : Pháp giới xưa
nay thanh tịnh, do trong tâm chúng sanh có vô lượng tạp nhạp, pháp tùy tâm
biến nên thành Uế giới. Nay nếu cử một câu danh hiệu Phật, buông bỏ
muôn duyên, vững chắc như người đàn bà câm cầm chổi quét dọn suốt
12 thời, đâu đâu cũng sạch sẽ. Niệm đến tâm không, tâm không thì tạp
nhiễm cũng không, tạp nhiễm đã không thì trở lại là pháp giới thanh tịnh
xưa nay. Đó thật là lắng đục thành trong, chuyển uế thành tịnh. Đến
được đất này thì sanh tử cũng là Tịnh độ, Thiên đường địa ngục
cũng là Tịnh độ, núi cao đất sâu cũng là Tịnh độ, vinh nhục thăng trầm
cũng là Tịnh độ, thị phi được mất cũng là Tịnh độ, cả thế giới
mười phương cũng là Tịnh độ, nên gọi đó là pháp giới thanh tịnh, do
công dụng niệm Phật mà vào được, há không thẳng tắt ư !
Hỏi : Người vào
pháp giới Tịnh độ, thức thứ tám của họ rỗng rang chưa ? Nếu chưa rỗng
rang thì sao gọi là pháp giới Tịnh độ ?
Đáp : Đây chỉ là
chút phần tịnh, đâu thể làm rỗng rang thức thứ tám. Nếu muốn toàn tịnh
thì thẳng đến thành Phật, thức thứ tám mới rỗng rang, nên nói : “Sau
đạo Kim cang dị thục không”.
Hỏi : Pháp giới Tịnh
độ thuộc độ nào trong bốn độ ?
Đáp : Nếu đoạn
Hoặc chưa hết thì đó là Phương Tiện Hữu Dư độ, hay Thiểu phần Thường
Tịch Quang độ. Nếu vào đó thì phải càng tinh tấn tu tập, thẳng đến
thành Phật thì mới gọi là Toàn cư Thường Tịch Quang độ.
Hỏi : Đã có pháp
giới Tịnh độ để sanh thì đâu cần dạy người cầu sanh Tây phương Tịnh
độ ?
Đáp : Thế giới mười
phương tuy là một pháp giới Tịnh độ, nhưng căn cơ chúng sanh có lợi
có độn, đâu thể chứng nhập được. Bởi vậy, Phật mở cửa phương
tiện, dạy người phải từ Tây phương mà thể nhập. Tây phương là báo
độ của Di-đà. Thân cao 60 vạn ức na-do-tha hằng hà sa số do-tuần là
báo thân của Di-đà. Báo thân tất ở nơi báo độ. Người học đạo hễ
nghĩ đến Phật quả Bồ-đề tất phải thân gần báo thân Phật, nghe diệu
pháp của Phật mới chứng đắc rốt ráo pháp giới Tịnh độ. Bởi vậy,
đã vào được một phương thì thế giới mười phương cũng vào được.
Một phương thanh tịnh thì mười phương thế giới đều thanh tịnh; một
phương thành thế giới Cực Lạc, thì mười phương thế giới cũng thành
Cực Lạc.
Hỏi : Nghe thầy dạy,
niệm Phật không cho niệm thầm, nếu người ốm yếu, thật không thể
ngày đêm niệm lớn tiếng. Người xưa thì dạy, âm thanh ở ngay cửa miệng,
lặng lẽ mà niệm, cách này thế nào ?
Đáp : Người niệm
thầm, sức yếu khí hôn, dễ sanh giải đãi, hơn nữa không thể tác động
đến người khác. Những âm thanh tạp nhạp, vọng tưởng nhân cơ hội ấy
tác động vào tâm thì đâu thể thành tựu Tịnh nghiệp ? Nếu thật người
đó ốm yếu không thể niệm lớn tiếng thì cho phép dùng cách ấy, nhưng
phải tâm tâm phản chiếu, quyết chí Tây phương, mỗi ngày phải tinh tấn
lên mới được.
Hỏi : Người niệm
Phật lớn tiếng không cần ghi số lượng được không ?
Đáp : Người mới
thực hành, ngày ngày phải ghi, lấy thời khóa làm lộ trình thì không rơi
vào giải đãi, biếng nhác. Nếu không có số lượng nhất định, thì lúc
niệm lúc không, vui chán xen tạp, rảnh bận không chừng, dễ sanh phóng
túng, tịnh nghiệp khó thành. Duy người tu lâu thì ghi hay không ghi cũng
được. Nhưng lúc chấp trì một câu Di-đà phải như cầm kiếm Thái A,
muôn người địch không lại, phá thủng vòng vây, chém sạch quân giặc,
thì tự nhiên đến được thế giới thanh tịnh.
Hỏi : Người tu tập,
quý ở chỗ một thấu tỏ thì tất cả thấu tỏ, trong lòng không gá nương,
không duyên niệm, nay luôn luôn niệm Phật là có duyên niệm, có gá nương,
đâu thể gọi là một thấu tỏ thì tất cả thấu tỏ ?
Đáp : Đây chẳng
qua lấy nêm tháo nêm, lấy độc trị độc mà thôi. Người đời nếu niệm
thanh sắc, tài lợi thì sẽ bị những thứ này trói buộc, rồi nuôi dưỡng
nó trong lòng. Niệm thứ gì cũng đều như vậy cả. Phật thương chúng
sanh không thể buông bỏ tâm niệm, nên lấy một câu Di-đà này thay thế
tình niệm của người đời. Đây gọi là lấy niệm xuất thế thay đổi
niệm thế gian, lấy niệm công đức thay cho niệm tội lỗi, lấy niệm giải
thoát thay cho niệm trói buộc, lấy niệm an lạc thay cho niệm hiểm nguy. Như
người thợ khéo tay lấy rường thay cột, tẩy rửa làm cho chúng sanh sạch
hết tạp niệm, nhân một niệm của sự niệm Phật này mà trở về cố hương
vô sở hữu. Người xưa nói : “Qua sông phải nhờ bè, đến bờ chẳng dùng
ghe”, thì làm gì có gá nương hay duyên niệm đâu !
Hỏi : Người ta nói,
tham thiền là lộ trình thẳng tắt, niệm Phật là con đường quanh co, đúng
không ?
Đáp : Tham thiền cốt
phải chăm chăm buông bỏ, niệm Phật cốt phải câu câu toàn đề. Đề và
buông tuy khác, nhưng công dụng như nhau. Nếu người giỏi hạ thủ công
phu thì nơi quanh co cũng thành thẳng tắt, không biết dụng công thì nơi thẳng
tắt trở thành quanh co. Hơn kém là ở con người, không nên nghi ngờ pháp
môn sâu cạn. Cổ đức nói : “Chỉ đề mà không cần tham gì khác, cầu
thì sẽ thấy”. Con đường niệm Phật, rất dễ thực hành, vô cùng thẳng
tắt, xin suy xét kỹ.
Hỏi : Trước đây
có một người nói mình đã tỏ ngộ, chê niệm Phật là kế sanh nhai của
kẻ độn căn, nói vậy là thế nào ?
Đáp : Miệng nói tỏ
ngộ, nhưng mới chuyển một bước liền có không biết bao thứ chấp trước
dắt dẫn, vô minh hiện ngay trước mắt, phải gọi gã là kẻ chẳng biết
gì mới đúng. Hơn nữa, do không biết lực dụng của một câu Di-đà nên
mới cho đó là kế sanh nhai của kẻ độn căn. Nếu hiểu được như vậy,
thì liền chứng câu thoại đầu “Bất thoái chuyển”, gót chân chỉ mới
đứng vững mà thôi. Tồi tệ thật ! Người đời nay chẳng thể sánh với
người xưa. Việc ấy đâu có gì lạ !
Hỏi : Người tu Tịnh
độ có nên ghi nhớ, ấp ủ trong lòng tất cả những cảnh mình đã thực
hành thuần thục rồi không ?
Đáp : Người niệm
Phật nhưng không thành tựu Tam-muội, lỗi chính ở chỗ này. Cảnh chưa
thuần thục thì muốn tập thuần thục, nhưng chẳng chịu buông bỏ. Cảnh
thuần thục rồi thì thường sợ bị quên mất, nên nhớ nghĩ hoài, đó
là cái tệ đáng trách. Nhẫn đến, nhận ân chịu oán của người khác
quyết lòng phải trả hết mới thôi, dù chết cũng cam tâm. Nếu thay đổi
cái nhớ nghĩ đó bằng một câu danh hiệu Phật, buông bỏ hết mọi thứ
đã học đã thực hành đi, phó thác nó cho nước chảy mây trôi, lâu ngày
chầy tháng tự nhiên thành một khối Tịnh độ vững chắc.
Hỏi : Niệm Phật cầu
sanh Tây phương có thể đọc sách Phật và sách Nho không ?
Đáp : Tất cả Phật pháp và các nghĩa lý
đều trợ giúp ta tiến tu, nhưng nếu không hiểu rõ diệu nghĩa của pháp
môn Tịnh độ và tin không tha thiết thì phải xem gấp những kinh sách nói
về Tịnh độ để quyết định sự tu tập và thú hướng. Còn những
sách vở khác không nên dung nạp bừa bãi trong tâm, chúng sẽ trở thành
nhân duyên chướng đạo. Bởi vậy Nhất tâm bất loạn là tông chỉ của
việc tu Tịnh độ, là cửa lớn để thành tựu Tam-muội.
Hỏi : Như Lai dạy
người cầu sanh Tây phương, lại dạy người hồi nhập Ta bà, hai ý này
trái nhau, nguyên nhân là thế nào ?
Đáp : Ông không thấy
đoạn văn trước có câu “Không trái An Dưỡng” đó ư ? Bởi người mới
phát tâm Bồ-đề, sanh trong nước Cực Lạc ở Tây phương, có nhiều thời
giờ hàm dưỡng huân tu, Hoặc chướng hết sạch, cửa Tuệ mở toang, thần
thông đốn phát lên ngôi Bất thoái, sau đó lại ra giáo hóa chúng sanh, đến
đi vô ngại. Do đó những người ở lâu nơi Cực Lạc rồi, Phật lại sai
họ hồi nhập Ta bà để độ chúng sanh, nhưng vẫn không trái với An Dưỡng.
Trụ thần ở đây, phân thân hồi nhập, tùy loại hóa hiện. Nên biết,
khuyên người bỏ Ta bà để sanh Tịnh độ, hay khuyên người bỏ Tịnh độ
để sanh Ta bà đều phải quán cơ khế giáo, tùy căn cơ mà hóa độ, lợi
mình lợi người. Đạo Bồ-tát viên mãn thì Phật đạo nào khó gì ! Đây
là phương pháp độ sanh vô cùng nhiệm mầu của Phật A-di-đà và Phật
Thích-ca.
Hỏi : Pháp môn
này, vượt thẳng ba cõi, điều ấy tin rồi. Còn chúng sanh trong thời mạt
pháp sợ rằng họ tự sanh chướng ngại, chưa rõ có mối tệ nào không ?
Đáp : Người tu Tịnh
độ có 10 cái tệ làm chướng ngại pháp môn. Đó là :
1.
Tin không hết lòng.
2.
Làm không hết sức.
3.
Phát nguyện không
sâu.
4.
Lẳng lặng niệm thầm.
5.
Tâm duyên việc đời.
6.
Chẳng trừ thương
ghét.
7.
Ôm nhiều nội điển
ngoại điển.
8.
Thích ngâm nga phân
tâm.
9.
Tán gẫu nói chuyện
phiếm.
10. Không được nhất tâm bất loạn.
Người ra công khắc
kỳ thủ chứng, tha thiết hạ thủ công phu quyết không để phạm phải 10
mối tệ vừa nêu, chống mắt dựng mày, truy đảnh niệm Phật, tự nhiên
hiện tại thấy bản tánh Di-đà, mãn báo thân này về ngay Tây phương Cực
Lạc.
(Trích dịch
từ Giác Hổ Tập - Tục 62)
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/TeNang_thichung.htm