...... ... |
.. |
. |
.. |
. |
. |
The
Benefits of Walking Meditation
|
Lợi ích của Thiền hành
|
Sayadaw
U Silananda
|
(Bình Anson dịch)
|
|
|
At our meditation retreats, yogis practise
mindfulness in four different postures. They practise mindfulness when walking, when
standing, when sitting, and when lying down. They must sustain mindfulness at all times in
whatever position they are in. The primary posture for mindfulness meditation is sitting
with legs crossed, but because the human body cannot tolerate this position for many hours
without changing, we alternate periods of sitting meditation with periods of walking
meditation. Since walking meditation is very important, I would like to discuss its
nature, its significance, and the benefits derived from its practice. |
Trong các
khóa thiền tập của chúng ta, các thiền sinh phải tập chú niệm trong cả
bốn tư thế đi, đứng, ngồi, nằm. Họ phải duy trì chánh niệm trong mọi
thời khắc, ở mọi tư thế của họ. Tuy nhiên, tư thế chính trong khi thực
tập quán niệm là tư thế ngồi với chân xếp chéo. Bởi vì thân thể con
người không thể nào chịu đựng được cách ngồi nầy trong nhiều giờ,
nên chúng ta xen kẽ các suất ngồi thiền với các suất đi kinh hành. Vì
pháp Thiền Hành, hay đi kinh hành, là một pháp thiền quan trọng, tôi muốn
thảo luận ở đây về bản thể, tầm quan trọng, và các lợi ích của
pháp thiền nầy. |
The practice of mindfulness meditation can be
compared to boiling water. If one wants to boil water, one puts the water in a kettle,
puts the kettle on a stove, and then turns the heat on. But if the heat is turned off,
even for an instant, the water will not boil, even though the heat is turned on again
later. If one continues to turn the heat on and off again, the water will never boil. In
the same way, if there are gaps between the moments of mindfulness, one cannot gain
momentum, and so one cannot attain concentration. That is why yogis at our retreats are
instructed to practise mindfulness all the time that they are awake, from the moment they
wake up in the morning until they fall asleep at night. Consequently, walking meditation
is integral to the continuous development of mindfulness. |
Việc thực
hành thiền quán niệm có thể ví như việc đun nước. Khi đun nước, ta đổ
nước vào nồi, đặt nồi lên bếp, rồi vặn lửa lên. Nếu ta tắt lửa
dù chỉ một thời gian ngắn, nước sẽ không bao giờ sôi, cho dù sau đó
ta lại vặn lửa lên nữa. Nếu ta cứ tắt và vặn lửa nhiều lần như thế,
nước sẽ không bao giờ sôi. Cũng như thế, nếu có những khoảng hở giữa
các thời khắc chánh niệm thì ta sẽ không thể tạo được một xung lực
và sẽ không đạt được Chánh Ðịnh. Vì vậy trong các khóa thiền, hành
giả được hướng dẫn thực tập chánh niệm liên tục khi họ tỉnh thức,
từ lúc mở mắt thức giấc vào buổi sáng cho đến khi bắt đầu ngủ vào
ban đêm. Từ đó, pháp thiền hành được dung hợp vào công phu phát triển
chánh niệm liên tục của mỗi hành giả. |
Unfortunately, I have heard people criticize
walking meditation, claiming that they cannot derive any benefits or good results from it.
But it was the Buddha himself who first taught walking meditation. In the "Great
Discourse on the Foundations of Mindfulness", the Buddha taught walking meditation
two times. In the section called "Postures," he said that a monk knows "I
am walking" when he is walking, knows "I am standing" when he is standing,
knows "I am sitting" when he is sitting, and knows "I am lying down"
when he is lying down. |
Một điều
đáng buồn mà tôi thường nghe người ta chỉ trích pháp thiền đi kinh hành,
cho rằng qua pháp thiền nầy, hành giả không thể thu lợi ích hoặc thành
quả tốt đẹp nào. Tuy nhiên, chính Ðức Phật là người đầu tiên dạy
dạy pháp thiền hành. Trong kinh Ðại Tứ Niệm Xứ, Ðức Phật đã dạy về
pháp đi kinh hành hai lần. Trong đoạn "Các Oai nghi", Ngài giảng rằng
vị tỳ kheo phải biết "Tôi đang đi" khi người ấy đi, phải biết
"Tôi đang đứng" khi người ấy đứng, phải biết "Tôi đang
ngồi" khi người ấy ngồi, và phải biết "Tôi đang nằm" khi
người ấy nằm. |
In another section called "Clear
Comprehension," the Buddha said, "A monk applies clear comprehension in going
forward and in going back." Clear comprehension means the correct
understanding of what one observes. To correctly understand what is observed, a yogi must
gain concentration, and in order to gain concentration, he must apply mindfulness.
Therefore, when the Buddha said, "Monks, apply clear comprehension," we must
understood that not only clear comprehension must be applied, but also mindfulness and
concentration. |
Trong đoạn
"Tỉnh giác", Ðức Phật dạy, "Vị tỳ kheo phải biết áp dụng
tỉnh giác khi đi tới và khi đi lui". Tỉnh giác ở đây có
nghĩa là thông hiểu chính xác những gì ta đang quán sát. Ðể hiểu đúng
những gì đang quán sát, hành giả phải đạt chánh định, và muốn có
chánh định, hành giả phải biết quán niệm. Vì vậy, khi Ðức Phật nói,
"Nầy các tỳ kheo, hãy áp dụng tỉnh giác," thì ta phải hiểu rằng
không phải chỉ áp dụng tỉnh giác, mà còn phải áp dụng quán niệm và
chánh định. |
Thus the Buddha was instructing meditators to
apply mindfulness, concentration, and clear comprehension while walking, while "going
forward and back." Walking meditation is thus an important part of this process. |
Như thế, Ðức
Phật đã dạy các thiền sinh áp dụng chánh niệm, chánh định, và tỉnh
giác khi bước đi, khi "đi tới và đi lui." Do đó, đi kinh hành là
một phần quan trọng trong tiến trình thực tập thiền định. |
|
|
How to Practice Walking
Meditation? |
Ði kinh hành như thế nào? |
Although it is not recorded in this sutta
that the Buddha gave detailed and specific instructions for walking meditation, we believe
that he must have given such instructions at some time. Those instructions must have been
learned by the Buddha's disciples and passed on through successive generations. In
addition, teachers of ancient times must have formulated instructions based on their own
practice. At the present time, we have a very detailed set of instructions on how to
practise walking meditation. |
Mặc dù kinh
Ðại Niệm Xứ không có ghi lại các chỉ dẫn chi tiết của Ðức Phật về
pháp thiền hành, chúng tôi tin rằng Ngài đã dạy cho các vị đệ tử thực
hành pháp nầy khi Ngài còn tại thế. Các hướng dẫn đó hẳn đã được
các môn đệ của Ngài học, hành và truyền lại từ đời nầy sang đời
khác. Hơn nữa, các thiền sư thời xưa hẳn phải thiết lập các công thức
giảng dạy dựa vào sự thực tập của các ngài ấy. Ngày nay, chúng ta đã
được thừa hưởng một bộ các lời chỉ dẫn chi tiết về phương cách
thực tập pháp thiền kinh hành. |
Let us now talk specifically about the
practice of walking meditation. If you are a complete beginner, the teacher may instruct
you to be mindful of only one thing during walking meditation: to be mindful of the act of
stepping while you make a note silently in the mind, "stepping, stepping,
stepping," or "left, right, left, right." You may walk at a slower speed
than normal during this practice. |
Bây giờ, ta
hãy nói chi tiết về cách thực tập đi kinh hành. Nếu bạn hoàn toàn là
người mới bắt đầu, vị thiền sư sẽ dạy cho bạn sự chánh niệm về
một điều duy nhất khi đi kinh hành: phải chánh niệm về động tác bước
chân bằng cách ghi nhận thầm lặng trong tâm là "bước, bước, bước,"
hoặc là "trái, phải, trái, phải." Trong lúc thực tập nầy, có thể
là bạn sẽ bước chậm hơn thường ngày. |
After a few hours, or after a day or two of
meditation, you may be instructed to be mindful of two occurrences: (i) stepping, and (ii)
putting down the foot, while making the mental note "stepping, putting down."
You will try to be mindful of two stages in the step: "stepping, putting down;
stepping, putting down." Later, you may be instructed to be mindful of three stages:
(i) lifting the foot; (ii) moving or pushing the foot forward; and (iii) putting the foot
down. Still later, you would be instructed to be mindful of four stages in each step: (i)
lifting the foot; (ii) moving it forward; (iii) putting it down; and (iv) touching or
pressing the foot on the ground. You would be instructed to be completely mindful and to
make a mental note of these four stages of the foot's movement: "lifting,
moving forward, putting down, pressing the ground." |
Sau vài giờ
thực tập, hoặc sau một hay hai ngày thiền tập, bạn sẽ được chỉ dẫn
đặt chú niệm vào hai động tác: (i) bước, và (ii) đặt chân xuống,
cùng lúc ấy ghi nhận trong tâm là "bước đi, đặt xuống", hoặc
"bước, đạp". Bạn phải gắng chú tâm vào hai giai đoạn của một
bước: "bước đi, đặt xuống; bước đi, đặt xuống". Sau đó, bạn
sẽ được dạy đặt chú niệm vào ba giai đoạn: (i) dở chân lên; (ii)
đưa chân đến trước; và (iii) đặt chân xuống. Sau đó nữa, bạn sẽ
được dạy chú niệm vào bốn giai đoạn: (i) dở chân lên; (ii) đưa chân
đến trước; (iii) đặt chân xuống; và (iv) chạm hoặc ấn bàn chân xuống
đất (hay đạp xuống). Lúc đó, bạn sẽ được chỉ dẫn là phải ghi nhận
trong tâm về bốn giai đoạn của động tác chân: "dở lên, bước
tới, đặt xuống, ấn xuống đất." |
At first yogis may find it difficult to slow
down, but as they are instructed to pay close attention to all of the movements involved,
and as they actually pay closer and closer attention, they will automatically slow down.
They do not have to slow down deliberately, but as they pay closer attention, slowing down
comes to them automatically. When driving on the freeway, one may be driving at sixty or
seventy or even eighty miles per hour. Driving at that speed, one will not be able to read
some of the signs on the road. If one wants to read those signs, it is necessary to slow
down. Nobody has to say, "Slow down!" but the driver will automatically slow
down in order to see the signs. In the same way, if yogis want to pay closer attention to
the movements of lifting, moving forward, putting down, and pressing the ground, they will
automatically slow down. Only when they slow down can they be truly mindful and fully
aware of these movements. |
Ban đầu,
thiền sinh sẽ cảm thấy khó bước chậm lại. Tuy nhiên, sau khi họ được
hướng dẫn để tâm theo dõi vào mọi cử động của chân, và khi họ thực
sự chú tâm theo dõi chặt chẽ, thì tự nhiên họ sẽ bước chậm lại. Họ
không cần phải cố gắng bước chậm, nhưng khi họ chú tâm thật kỹ,
các cử động chậm rãi sẽ tự động đến với họ. Khi ta lái xe trên
đường cao tốc, ta có thể phóng với tốc độ 100 km/giờ. Với tốc độ
như thế, ta không thể nào quán sát được tất cả các dấu hiệu bên
đường. Nếu ta muốn đọc được các dấu hiệu đó thì ta phải lái xe
chậm lại. Không cần phải có ai ra lệnh, "Chạy xe chậm lại!",
người tài xế sẽ tự động lái chậm lại nếu người ấy muốn đọc các
dấu hiệu bên đường. Cũng như thế, khi thiền sinh theo dõi bám sát các cử
động dở chân lên, đưa chân ra trước, đặt xuống, và ấn chân xuống
đất, họ sẽ tự động bước chậm lại. Khi bước chậm lại, họ mới
có thể có chánh niệm và hoàn toàn nhận thức được các động tác nầy. |
Although yogis pay close attention and slow
down, they may not see all of the movements and stages clearly. The stages may not yet be
well-defined in the mind, and they may seem to constitute only one continuous movement. As
concentration grows stronger, yogis will observe more and more clearly these different
stages in one step; the four stages at least will be easier to distinguish. Yogis will
know distinctly that the lifting movement is not mixed with the moving forward movement,
and they will know that the moving forward movement is not mixed with either the lifting
movement or the putting down movement. They will understand all movements clearly and
distinctly. Whatever they are mindful and aware of will be very clear in their minds. |
Mặc dù thiền
sinh theo dõi bám sát và bước chậm lại, có thể họ cũng vẫn chưa thấy
rõ tất cả các động tác và các giai đoạn của bước đi. Các giai đoạn
nầy có thể chưa được minh định trong tâm, và họ tưởng như là chúng
kết tạo thành một động tác liên tục. Khi sự định tâm gia tăng mạnh
hơn, thiền sinh sẽ dần dần thấy rõ hơn về các giai đoạn khác nhau của
một bước đi; và sẽ phân biệt được bốn giai đoạn của động tác đó.
Thiền sinh sẽ nhận biết rõ ràng rằng cử động dở chân không trộn lẫn
với cử động đưa chân ra phía trước, và họ sẽ biết rõ là cử động
đưa chân ra trước không có lẫn lộn với cử động đặt chân xuống hoặc
cử động ấn bàn chân xuống đất. Họ sẽ nhận biết rõ ràng và phân
biệt được các cử động nầy. Những gì họ quán niệm và tỉnh thức
theo dõi sẽ trở nên rõ ràng trong tâm thức của họ. |
|
|
The Four Essential
Elements |
Nhận thức được tứ đại |
As yogis carry on the practice, they will
observe much more. When they lift their foot, they will experience the lightness of the
foot. When they push the foot forward, they will notice the movement from one place to
another. When they put the foot down, they will feel the heaviness of the foot, because
the foot becomes heavier and heavier as it descends. When they put the foot on the ground,
they will feel the touch of the heel of the foot on the ground. Therefore, along with
observing lifting, moving forward, putting down, and pressing the ground, yogis will also
perceive the lightness of the rising foot, the motion of the foot, the heaviness of the
descending foot, and then the touching of the foot, which is the hardness or softness of
the foot on the ground. |
Khi thiền
sinh tiếp tục hành trì pháp kinh hành, họ sẽ quán sát được nhiều sự
kiện hơn. Khi họ dở chân lên, họ thực nghiệm tánh thể nhẹ nhàng của
bước chân. Khi đưa chân ra trước, họ thực nghiệm được sự chuyển động
từ nơi nầy sang nơi khác. Khi đặt chân xuống, họ thực nghiệm được tánh
thể nặng nề của bàn chân, bởi vì bàn chân sẽ trở nên nặng nề hơn
khi nó từ từ đưa hạ xuống đất. Khi bàn chân chạm đất, họ cảm nhận
được sự chạm xúc của gót chân với mặt đất. Do đó, cùng lúc với
quán sát sự dở chân, đưa ra trước, đặt xuống, và ấn xuống đất,
thiền sinh cũng sẽ cảm nhận được tánh thể nhẹ nhàng của bàn chân
đưa lên, chuyển động của chân, tánh thể nặng nề khi hạ chân xuống,
và sự chạm xúc của bàn chân, sự cứng mềm của bàn chân trên nền đất.
|
When yogis perceive these processes, they are
perceiving the four essential elements (in Pali, dhatu). The four essential
elements are: the element of earth, the element of water, the element of fire, and the
element of air. By paying close attention to these four stages of walking meditation, the
four elements in their true essence are perceived, not merely as concepts, but as actual
processes, as ultimate realities. |
Khi thiền
sinh cảm nhận được các tiến trình nầy, là họ đang cảm nhận được
bốn yếu tố cơ bản (tứ đại, dhatu). Bốn yếu tố cơ bản đó là: đất,
nước, lửa, gió. Bằng cách thật sự theo dõi bốn giai đoạn của bước
đi kinh hành, bản chất của bốn yếu tố nầy được cảm nhận, không phải
chỉ là các khái niệm, mà là các tiến trình thật sự, như là các thực
tại tối hậu (chân đế). |
Let us go into a little more detail about the
characteristics of the elements in walking meditation. In the first movement, that is, the
lifting of the foot, yogis perceive lightness, and when they perceive lightness, they
virtually perceive the fire element. One aspect of the fire element is that of making
things lighter, and as things become lighter, they rise. In the perception of the
lightness in the upward movement of the foot, yogis perceive the essence of the fire
element. But in the lifting of the foot there is also, besides lightness, movement.
Movement is one aspect of the air element. But lightness, the fire element, is dominant,
so we can say that in the stage of lifting the fire element is primary, and the air
element is secondary. These two elements are perceived by yogis when they pay close
attention to the lifting of the foot. |
Bây giờ,
chúng ta hãy đi vào chi tiết hơn về về đặc tính của các yếu tố nầy
khi đi kinh hành. Trong động tác thứ nhất, khi dở bước chân lên, thiền
sinh cảm nhận được sự nhẹ nhàng; và khi họ cảm nhận được sự nhẹ
nhàng, họ hầu như cảm nhận được yếu tố lửa. Một đặc tính của yếu
tố lửa là làm cho sự vật nhẹ nhàng hơn, vì khi nhẹ nhàng hơn thì
chúng sẽ bay lên. Trong khi cảm nhận được sự nhẹ nhàng của động tác
đưa lên, thiền sinh cảm nhận được bản chất của yếu tố lửa. Tuy
nhiên, ngoài sự nhẹ nhàng cũng còn có sự chuyển động khi dở chân lên.
Chuyển động là một đặc tính của yếu tố gió. Tuy nhiên, sự nhẹ
nhàng của yếu tố lửa thì bao trùm hơn. Cho nên ta có thể nói rằng trong
giai đoạn dở chân lên, yếu tố lửa là chánh và yếu tố gió là phụ.
Hai yếu tố nầy được thiền sinh cảm nhận khi họ chú tâm theo dõi động
tác dở chân lên. |
The next stage is moving the foot forward. In
moving the foot forward, the dominant element is the air element, because motion is one of
the primary characteristics of the air element. So, when they pay close attention to the
moving forward of the foot in walking meditation, yogis are virtually perceiving the
essence of the air element. |
Giai đoạn kế
tiếp là đưa chân ra trước. Khi di chuyển bàn chân ra trước, yếu tố bao
trùm là yếu tố gió, bởi vì chuyển động là một trong các đặc tính chủ
yếu của yếu tố gió. Vì vậy, khi thiền sinh chú tâm vào sự chuyển động
đưa chân ra trước trong khi đi kinh hành, họ hầu như sẽ cảm nhận được
bản chất của yếu tố gió. |
The next stage is the movement of putting the
foot down. When yogis put their foot down, there is a kind of heaviness in the foot.
Heaviness is a characteristic of the water element, as is trickling and oozing. When
liquid is heavy, it oozes. So when yogis perceive the heaviness of the foot, they
virtually perceive the water element. |
Giai đoạn
tiếp theo là sự chuyển động đặt chân xuống. Khi thiền sinh đặt chân
xuống, có một sự nặng nề nơi bàn chân. Tính nặng nề là một đặc tính
của yếu tố nước, như thể đang nhỏ giọt và sền sệt. Khi một chất
lỏng có tính nặng nề, nó trở nên sền sệt, dính nhờn. Như thế, khi
thiền sinh cảm nhận tính nặng nề của bàn chân, họ hầu như cảm nhận
được thể tính của yếu tố nước. |
In pressing the foot on the ground, yogis
will perceive the hardness or softness of the foot on the ground. This pertains to the
nature of the earth element. By paying close attention to the pressing of the foot against
the ground, yogis virtually perceive the nature of the earth element. |
Khi ấn bàn
chân xuống đất, thiền sinh cảm nhận được tính chất cứng hoặc mềm
của bàn chân trên mặt đất. Ðiều nầy đưa đến thể tính của yếu tố
đất. Bằng cách chú tâm vào sự đè ấn của bàn chân xuống đất, thiền
sinh hầu như cảm nhận được thể tính của yếu tố đất. |
Thus we see that in just one step, yogis can
perceive many processes. They can perceive the four elements and the nature of the four
elements. Only those who practise can ever hope to see these things. |
Như vậy, chỉ
trong một bước đi, thiền sinh nhận thức được nhiều tiến trình. Họ cảm
nhận được bốn yếu tố đất, nước, lửa, gió và thể tính của
chúng. Chỉ có những thiền sinh nào chịu khó thực tập như thế mới có
hy vọng nhận thấy được các điều nầy. |
|
|
Understanding of Mind and
Matter |
Tuệ Danh-Sắc |
As yogis continue to practise walking
meditation, they will come to realize that, with every movement, there is also the noting
mind, the awareness of the movement. There is the lifting movement and also the mind that
is aware of that lifting. In the next moment, there is the moving forward movement and
also the mind that is aware of the movement. Moreover, yogis will realize that both the
movement and the awareness arise and disappear in that moment. In the next moment, there
is the putting down movement and so also the awareness of the movement, and both arise and
disappear in that moment of putting the foot down on the ground. The same process occurs
with the pressing of the foot: there is the pressing and the awareness of pressing. In
this way, yogis understand that along with the movement of the foot, there are also the
moments of awareness. |
Khi thiền
sinh tiếp tục hành trì pháp thiền kinh hành, họ sẽ nhận thức được rằng
cùng với mỗi cử động, sẽ có một tâm ghi nhận, một sự tỉnh giác về
cử động đó. Có một chuyển động dở bước chân lên và cũng có một
cái tâm để nhận thức sự dở bước đó. Trong thời khắc kế tiếp, có
một chuyển động đưa chân ra trước và cũng có một cái tâm nhận thức
sự chuyển động. Hơn nữa, thiền sinh sẽ thấy rằng cả sự chuyển động
và sự nhận thức cùng sinh khởi và hủy diệt trong thời khắc đó. Qua
giai đoạn kế tiếp, có một chuyển động đưa chân xuống và cũng có một
tâm nhận thức sự chuyển động; và cả hai cùng sinh khởi và hoại diệt
ngay khi đặt chân xuống đất. Một tiến trình tương tự xẩy ra khi ấn
chân xuống đất: có sự đè ấn và sự nhận thức về đè ấn. Bằng
cách nầy, thiền sinh hiểu rằng song song với sự chuyển động của chân
là có các thời khắc của sự nhận thức. |
The moments of awareness are called, in Pali,
nama, mind, and the movement of the foot is called rupa, matter. So yogis
will perceive mind and matter rising and disappearing at every moment. At one moment there
is the lifting of the foot and the awareness of the lifting, and at the next moment there
is the movement forward and the awareness of that movement, and so on. These can be
understood as a pair, mind and matter, which arise and disappear at every moment. Thus
yogis advance to the perception of the pairwise occurrence of mind and matter at every
moment of observation, that is, if they pay close attention. |
Sự nhận thức
trong các lúc như thế gọi là Danh (nama) hay Tâm, và sự chuyển động
của chân gọi là Sắc (rupa) hay Vật chất. Như thế, thiền sinh sẽ
cảm nhận được tâm và vật chất khởi sinh và hoại diệt trong mỗi thời
khắc. Thời khắc nầy có sự dở bước chân và sự nhận thức về dở
chân lên, và thời khắc kế là có sự chuyển động đưa chân ra trước và
sự nhận thức về chuyển động đó, và cứ tiếp tục như thế. Ðiều nầy
được cảm nhận như là một cặp, danh và sắc, khởi sinh và hoại diệt
trong từng thời khắc. Như thế, nếu thiền sinh theo dõi chặt chẽ, họ sẽ
tiến đến sự cảm nhận về sự hiện diện của cặp danh-sắc, tâm và vật
chất, trong mỗi lúc quán sát. |
Another thing that yogis will discover is the
role of intention in effecting each movement. They will realize that they lift their foot
because they want to, move the foot forward because they want to, put it down because they
want to, press the foot against the ground because they want to. That is, they realize
that an intention precedes every movement. After the intention to lift, lifting occurs.
They come to understand the conditionality of all of these occurrences -- these movements
never occur by themselves, without conditions. These movements are not created by any
deity or any authority, and these movements never happen without a cause. There is a cause
or condition for every movement, and that condition is the intention preceding each
movement. This is another discovery yogis make when they pay close attention. |
Một điều
khác nữa mà thiền sinh sẽ khám phá ra là vai trò của ý định, chi phối
từng động tác. Họ sẽ trực nhận được rằng họ dở chân lên là vì
họ muốn như thế, họ đưa chân ra trước là vì họ muốn như thế, họ
đặt chân xuống là vì họ muốn như thế, họ ấn bàn chân xuống đất là
vì họ muốn như thế. Có nghĩa là họ sẽ trực nhận rằng có một ý định
xẩy ra trước mỗi động tác. Sau khi có ý định dở chân, là dở chân xẩy
ra. Từ đó họ thông hiểu được tíng "duyên sinh" của mọi sự
kiện -- các động tác nầy không thể tự xẩy ra nếu không có những điều
kiện. Các động tác nầy không tạo ra bởi thần linh hay một quyền lực
nào, và các động tác nầy không bao giờ xẩy ra nếu không có nguyên
nhân. Có một nguyên nhân hay một điều kiện cho mỗi động tác, và điều
kiện đó chính là ý định tiên khởi xẩy ra trước mỗi động tác. Ðây
là điều mà thiền sinh sẽ khám phá được khi họ chuyên chú quán sát. |
When yogis understand the conditionality of
all movements, and that these movements are not created by any authority or any god, then
they will understand that they are created by intention. They will understand that
intention is the condition for the movement to occur. |
Khi thiền
sinh thông hiểu được tính duyên sinh của mọi động tác, và các động tác
nầy không do thần linh hay quyền lực nào tạo ra, họ sẽ thông hiểu được
rằng các động tác đó là do ý định. Họ thông hiểu được rằng ý định
là điều kiện để động tác được xẩy ra. |
Thus the relationship of conditioning and
conditioned, of cause and effect, is understood. On the basis of this understanding, yogis
can remove doubt about Nama and Rupa by understanding that Nama and Rupa do not arise
without conditions. with the clear understanding of the conditionality of things, and with
the transcendence of doubt about Nama and Rupa, a yogi is said to reach the stage of a
"lesser sotapanna." |
Từ đó, sự
liên hệ giữa cái tạo điều kiện và cái bị điều kiện, giữa nguyên
nhân và hậu quả, được hiểu rõ. Trên cơ sở của sự hiểu biết nầy,
thiền sinh sẽ gỡ bỏ các nghi ngờ về Danh và Sắc qua sự nhận thức rằng
danh và sắc không thể khởi sinh nếu không có điều kiện. Với sự thông
hiểu rõ ràng về tính duyên sinh của vạn vật, và với sự vượt thoát
các nghi ngờ về danh và sắc, người thiền sinh được xem như là đã đạt
đến giai đoạn của một vị "cận Tu Ðà Hoàn" (tiểu Tu
Ðà Hoàn, cula-sotapanna) . |
A sotapanna is a
"stream-enterer," a person who has reached the first stage of enlightenment. A
"lesser-sotapanna" is not a true stream-enterer but is said to be assured of
rebirth in a happy realm of existence, such as in the realms of human beings and devas.
That is, a lesser-sotapanna cannot be reborn in one of the four woeful states, in one of
the hells or animal realms. |
Tu Ðà Hoàn
là người "nhập dòng" (dự lưu), người đã đạt được quả vị
đầu tiên của sự giác ngộ. Vị "cận Tu Ðà Hoàn" không phải
là một người "dự lưu" thực thụ, nhưng được xem như là sẽ
được tái sinh trong các cõi tương đối an nhàn sung sướng, như là cõi người
và cõi tiên. Người "cận Tu Ðà Hoàn" không thể tái sinh trong bốn
cõi đau đớn như là địa ngục, thú, cõi a-tu-la, ngạ quỉ. |
This state of lesser-sotapanna can be reached
just by practising walking meditation, just by paying close attention to the movements
involved in a step. This is the great benefit of practising walking meditation. This stage
is not easy to reach, but once yogis reach it, they can be assured that they will be
reborn in a happy state, unless, of course, they fall from that stage. |
Mức độ
"cận Tu Ðà Hoàn" nầy có thể đạt được bằng cách hành trì
pháp thiền kinh hành, luôn luôn chú tâm vào các động tác của bước đi.
Ðây là lợi ích lớn nhất của pháp thiền kinh hành. Tầng giác ngộ nầy
cũng không phải dễ đạt được, nhưng một khi thiền sinh đã đạt đến
đó, họ biết chắc rằng họ sẽ được tái sinh trong một cõi sung sướng,
trừ phi họ lại tạo nghiệp ác mà sa đọa. |
|
|
Three Signs of Being |
Tam pháp ấn |
When yogis comprehend mind and matter arising
and disappearing at every moment, then they will come to comprehend the impermanence of
the processes of lifting the foot, and they will also comprehend the impermanence of the
awareness of that lifting. The occurrence of disappearing after arising is a mark or
characteristic by which we understand that something is impermanent. If we want to
determine whether something is impermanent or permanent, we must try to see, through the
power of meditation, whether or not that thing is subject to the process of coming into
being and then disappearing. If our meditation is powerful enough to enable us to see the
arising and disappearing of phenomena, then we can decide that the phenomena observed are
impermanent. In this way, yogis observe that there is the lifting movement and awareness
of that movement, and then that sequence disappears, giving way to the pushing forward
movement and the awareness of pushing forward. These movements simply arise and disappear,
arise and disappear, and this process yogis can comprehend by themselves -- they do not
have to accept this on trust from any external authority, nor do they have to believe in
the report of another person. |
Khi thiền
sinh thông hiểu danh và sắc được sinh khởi và hủy diệt trong mỗi thời
khắc, họ sẽ thông hiểu được sự vô thường của các tiến trình bước
đi, và họ cũng thông hiểu được sự vô thường của nhận thức về bước
đi đó. Sự hiện hữu của hoại diệt tiếp theo sinh khởi là dấu hiệu
hoặc đặc tính của một sự vật gì đó mà ta biết rằng nó không thường
tồn. Nếu ta muốn xác định một vật gì đó là thường tồn hay vô thường,
ta phải cố gắng xem xét -- qua năng lực của thiền định -- rằng vật đó
có phải là đối tượng của một tiến trình sinh khởi rồi hoại diệt
hay không. Nếu khả năng thiền định của ta có đủ năng lực giúp ta thấy
được sự sinh diệt của hiện tượng, thì lúc đó ta mới có thể quyết
định hiện tượng được quán sát đó là vô thường. Bằng cách đó, thiền
sinh quán sát được sự hiện hữu của chuyển động dở chân và sự nhận
thức của chuyển động đó, rồi chúng lại biến mất đi, nhường chỗ
cho chuyển động đưa chân ra trước và nhận thức về chuyển động đưa
chân ra trước. Các động tác nầy sinh rồi diệt, sinh rồi diệt, và thiền
sinh tự mình thông hiểu được tiến trình nầy -- họ không cần phải chấp
nhận hay tin tưởng điều nầy qua một quyền lực ngoại vi nào, mà cũng
không cần phải dựa vào báo cáo của một người nào khác. |
When yogis comprehend that mind and matter
arise and disappear, they understand that mind and matter are impermanent. When they see
that they are impermanent, they next understand that they are unsatisfactory because they
are always oppressed by constant arising and disappearing. After comprehending
impermanence and the unsatisfactory nature of things, they observe that there can be no
mastery over these things; that is, yogis realize that there is no self or soul within
that can order them to be permanent. Things just arise and disappear according to natural
law. By comprehending this, yogis comprehend the third characteristic of conditioned
phenomena, the characteristic of anatta, the characteristic that things have no
self. One of the meanings of anatta is no mastery -- meaning that nothing, no entity, no
soul, no power, has mastery over the nature of things. Thus, by this time, yogis have
comprehended the three characteristics of all conditioned phenomena: impermanence,
suffering, and the non-self nature of things -- in Pali, anicca, dukkha, and
anatta. |
Khi thiền
sinh thông hiểu danh và sắc khởi sinh rồi hoại diệt, họ thông hiểu danh
và sắc là vô thường. Khi họ thấy chúng là vô thường thì tiếp theo là
họ sẽ thấy chúng là những gì bất toại ý bởi vì chúng luôn luôn bị
trạng thái sinh diệt áp bức và đè nén. Sau khi thông hiểu tính vô thường
và bất toại ý của vạn vật, thiền sinh thấy rằng họ không thể làm
chủ được chúng; có nghĩa là họ trực nhận rằng không có một bản
ngã hay linh hồn nào bên trong để ra lệnh cho chúng được thường tồn. Sự
vật chỉ sinh khởi rồi hoại diệt theo luật thiên nhiên. Nhờ thấu hiểu
như thế, thiền sinh thấu hiểu được đặc tính thứ ba của các hiện tượng
hữu vi -- tùy thuộc điều kiện, đặc tính của vô ngã, một đặc
tính của mọi vật vốn không có bản ngã. Một ý nghĩa khác của vô ngã
là không có chủ nhân -- nghĩa là không có một thực thể nào, một linh hồn
nào, một quyền lực nào có thể làm chủ được bản thể của vạn vật.
Như thế, đến lúc đó, thiền sinh đã thông hiểu được ba đặc tính của
mọi hiện tượng hữu vi -- Tam Pháp Ấn: vô thường (anicca), khổ
(dukkha), và vô ngã (anatta). |
Yogis can comprehend these three
characteristics by observing closely the mere lifting of the foot and the awareness of the
lifting of the foot. By paying close attention to the movements, they see things arising
and disappearing, and consequently they see for themselves the impermanent,
unsatisfactory, and non-self nature of all conditioned phenomena. |
Thiền sinh
có thể thông hiểu được ba đặc tính nầy qua cách theo dõi bám sát các
động tác bước đi và các nhận thức của động tác. Khi chuyên tâm chú
niệm vào các chuyển động nầy, họ sẽ thấy vạn vật khởi sinh và hoại
diệt, và từ đó, họ sẽ tự mình nhận thức được tính vô thường, khổ,
và vô ngã của tất cả mọi hiện tượng hữu vi. |
|
|
Non-Attachment |
Tâm Xả Ly |
Now let us examine in more detail the
movements of walking meditation. Suppose one were to take a moving picture of the lifting
of the foot. Suppose further that the lifting of the foot takes one second, and let us say
that the camera can take thirty-six frames per second. After taking the picture, if we
were to look at the separate frames, we would realize that within what we thought was one
lifting movement, there are actually thirty-six movements. The image in each frame is
slightly different from the images in the other frames, though the difference will usually
be so slight that we can barely notice it. But what if the camera could take one thousand
frames per second? Then there would be one thousand movements in just one lifting
movement, although the movements would be almost impossible to differentiate. If the
camera could take one million frames per second -- which may be impossible now, but
someday may happen -- then there would be one million movements in what we thought to be
only one movement. |
Bây giờ
chúng ta hãy khảo sát chi tiết về các động tác của đi kinh hành. Giả sử
ta quay phim, thu hình các bước chân dở lên. Giả sử thêm rằng khi dở
chân lên thì mất một giây đồng hồ, và giả sử rằng máy quay phim có
thể chụp được 36 ảnh trong mỗi giây. Sau khi quay phim, ta nhìn lại từng
tấm ảnh trong cuộn phim. Ta sẽ thấy rằng mặc dù dở bước chân lên có
vẻ chỉ là một động tác, nhưng thực ra là 36 sự chuyển động. Mỗi tấm
ảnh cho ta thấy các cử động khác nhau, mặc dù sự khác biệt nầy rất
nhỏ mà ta thường không để ý đến. Nếu máy quay phim đó có thể chụp
được một ngàn tấm ảnh trong một giây thì sao? Lúc đó, ta lại sẽ thấy
có một ngàn động tác trong một chuyển động dở bước chân, cho dù các
động tác nầy hầu như khó mà phân biệt được. Nếu máy quay phim có thể
chụp một triệu tấm ảnh trong một giây -- điều nầy chưa xẩy ra, nhưng
một ngày nào đó sẽ có như thế -- thì lúc đó, ta sẽ thấy có một triệu
động tác trong một hiện tượng mà ta cho rằng chỉ có một chuyển động
duy nhất. |
Our effort in walking meditation is to see
our movements as closely as the camera sees them, frame by frame. We also want to observe
the awareness and intention preceding each movement. We can also appreciate the power of
the Buddha's wisdom and insight, by which he actually saw all of the movements. When we
use the word "see" or "observe" to refer to our own situation, we mean
that we see directly and also by inference; we may not be able to see directly all of the
millions of movements as did the Buddha. |
Nỗ lực
trong pháp thiền kinh hành là để thấy các chuyển động của ta như là
máy quay phim, từng tấm ảnh một. Ta cũng muốn quán sát sự nhận thức
và ý định trước mỗi chuyển động. Như thế, ta mới khâm phục quyền
lực trí tuệ minh sát của Ðức Phật, qua đó Ngài đã thấy được tất
cả mọi chuyển động. Khi chúng ta dùng chữ "thấy" hay "quán
sát" trong tình huống của chúng ta thì chỉ có nghĩa là ta có thể thấy
một phần qua lối trực tiếp và một phần qua lối suy diễn; ta không thể
nào thấy trực tiếp cả triệu chuyển động như Ðức Phật đã thấy. |
Before yogis begin practising walking
meditation, they may have thought that a step is just one movement. After meditation on
that movement, they observe that there are at least four movements, and if they go deeper,
they will understand that even one of these four movements consists of millions of tiny
movements. They see Nama and Rupa, mind and matter, arising and disappearing, as
impermanent. By our ordinary perception, we are not able to see the impermanence of things
because impermanence is hidden by the illusion of continuity. We think that we see only
one continuous movement, but if we look closely we will see that the illusion of
continuity can be broken. It can be broken by the direct observation of physical phenomena
bit by bit, segment by segment, as they originate and disintegrate. The value of
meditation lies in our ability to remove the cloak of continuity in order to discover the
real nature of impermanence. Yogis can discover the nature of impermanence directly
through their own effort. |
Trước khi
thiền sinh thực tập pháp đi kinh hành, họ tưởng rằng một bước đi chỉ
là một động tác. Sau khi thiền quán về động tác đó, họ thấy có ít
nhất là bốn động tác. Nếu họ quán sát sâu xa hơn, họ sẽ hiểu rằng
mỗi một động tác nầy lại bao gồm cả triệu động tác nhỏ khác. Như
thế họ thấy Danh và Sắc, tâm và vật chất, khởi sinh rồi hoại diệt,
như là vô thường. Bằng cảm nhận thông thường, chúng ta không thể thấy
tính vô thường của vạn vật vì tính vô thường đó bị che phủ bởi một
ảo tưởng của sự liên tục. Ta tưởng rằng ta chỉ thấy có một động
tác liên tục, nhưng nếu ta nhìn kỷ hơn, ta sẽ thấy rằng cái ảo tưởng
về liên tục đó có thể bị phá vỡ. Ảo tưởng đó bị phá vỡ bằng
cách quán sát trực tiếp các hiện tượng vật lý, từng phần, từng
chút, khi chúng khởi sinh và hoại diệt. Giá trị của thiền quán là ở khả
năng của ta để gỡ bỏ màn liên tục và khám phá thực chất của vô thường.
Thiền sinh có thể khám phá trực tiếp bản chất của vô thường nầy qua
nỗ lực của chính họ. |
After realizing that things are composed of
segments, that they occur in bits, and after observing these segments one by one, yogis
will realize that there is really nothing in this world to be attached to, nothing to
crave for. If we see that something which we once thought beautiful has holes, that it is
decaying and disintegrating, we will lose interest in it. For example, we may see a
beautiful painting on a canvas. We think of the paint and canvas conceptually as a whole,
solid thing. But if we were to put the painting under a powerful microscope, we would see
that the picture is not solid -- it has many holes and spaces. After seeing the picture as
composed largely of spaces, we would lose interest in it and we would cease being attached
to it. Modern physicists know this idea well. They have observed, with powerful
instruments, that matter is just a vibration of particles and energy constantly changing
-- there is nothing substantial to it at all. By the realization of this endless
impermanence, yogis understand that there is really nothing to crave for, nothing to hold
on to in the entire world of phenomena. |
Sau khi trực
nhận rằng mọi vật được cấu tạo bởi các phần nhỏ, rằng chúng xẩy
ra rời rạc, và sau khi quán sát từng mảnh vụn một, thiền sinh sẽ trực
nhận được rằng không có gì trên đời để họ tham thủ, để họ thèm
muốn. Nếu ta thấy vật gì mà ta đã tưởng là đẹp nhưng lại có nhiều
lỗ trống, đang bị băng hoại và hủy diệt thì ta không còn chú ý đến
nó nữa. Thí dụ như khi ta xem một bức tranh sơn dầu thật đẹp. Ta nghĩ
rằng nước sơn và tấm vải dường như là một thực thể rắn chắc, đồng
nhất. Nhưng nếu ta đưa bức tranh qua một kính hiển vi cực mạnh, ta sẽ
thấy bức tranh có nhiều lỗ hỗng và khoảng trống. Sau khi thấy bức
tranh được cấu tạo bởi các khoảng trống, ta không còn chú ý đến nó
và không còn tham luyến nó nữa. Các nhà vật lý học hiện đại biết rất
rõ ý tưởng nầy. Họ đã quan sát, với các dụng cụ cực mạnh, để thấy
rằng vật chất chỉ là sự giao động của các hạt tử và năng lượng
thay đổi luôn -- không có một bản thể nào trong đó cả. Bằng cách trực
nhận sự vô thường bất tận đó, thiền sinh thông hiểu rằng không có
gì đáng để thèm muốn, không có gì đáng để chấp thủ trong thế giới
hiện tượng nầy. |
|
|
Conclusion |
Kết luận |
Now we can understand the reasons for
practising meditation. We practise meditation because we want to remove attachment and
craving for objects. It is by comprehending the three characteristics of existence --
impermanence, suffering, and the non-self nature of things -- that we remove craving. We
want to remove craving because we do not want to suffer. As long as there is craving and
attachment, there will always be suffering. If we do not want to suffer, we must remove
craving and attachment. We must comprehend that all things are just mind and matter
arising and disappearing, that things are insubstantial. Once we realize this, we will be
able to remove attachment to things. As long as we do not realize this, however much we
read books or attend talks or talk about removing attachment, we will not be able to get
rid of attachment. It is necessary to have the direct experience that all conditioned
things are marked by the three characteristics. |
Giờ đây
chúng ta đã hiểu được các lý do của pháp thiền kinh hành. Ta hành trì
thiền quán vì ta muốn gỡ bỏ mọi chấp thủ và luyến ái vào sự vật.
Qua sự thông hiểu ba đặc tính của hiện hữu -- vô thường, khổ, và vô
ngã của vạn vật -- ta gỡ bỏ được sự luyến ái. Ta bỏ luyến ái vì
ta không muốn phiền não. Khi nào còn chấp thủ và luyến ái, thì luôn
luôn còn sự hoạn khổ. Nếu ta không muốn hoạn khổ thì ta phải loại trừ
chấp thủ và luyến ái. Ta phải thông hiểu rằng mọi vật đều chỉ là
danh và sắc khởi sinh rồi hoại diệt, và chúng đều không có tự thể.
Khi ta thực chứng được điều nầy, ta sẽ có thể từ bỏ được lòng
chấp thủ vào mọi vật. Nếu ta không thực chứng được như thế -- cho dù
chúng ta đọc nhiều sách, đi nghe nhiều buổi thuyết giảng hoặc bàn luận
về sự từ bỏ tham thủ -- ta sẽ không thể nào thoát khỏi được lòng
chấp thủ. Ðiều cần thiết là chính ta phải có một kinh nghiệm trực tiếp
để thật sự thấy rằng vạn vật hữu vi đều mang dấu hiệu của vô thường,
khổ và vô ngã. |
Hence we must pay close attention when we are
walking, just as we do when we are sitting or lying down. I am not trying to say that
walking meditation alone can give us ultimate realization and the ability to remove
attachment entirely, but it is nevertheless as valid a practice as sitting meditation or
any other kind of vipassana (insight) meditation. Walking meditation is conducive
to spiritual development. It is as powerful as mindfulness of breathing or mindfulness of
the rising and falling of the abdomen. It is an efficient tool to help us remove mental
defilements. Walking meditation can help us gain insight into the nature of things, and we
should practise it as diligently as we practise sitting meditation or any other kind of
meditation. |
Vì thế, ta
phải chú tâm quán niệm khi ta đi, cũng như khi ta ngồi hoặc khi nằm xuống.
Tôi không có chủ tâm cho rằng chỉ có thiền kinh hành là đưa đến thực
chứng tối hậu và khả năng hoàn toàn từ bỏ lòng tham thủ. Tuy nhiên,
pháp đi kinh hành là một pháp thiền có giá trị như là pháp tọa thiền
và các pháp thiền minh sát (vipassana) khác. Ði kinh hành khuyến khích
phát triển tâm ý. Pháp nầy có nhiều sức mạnh như là pháp quán niệm hơi
thở hoặc pháp quán niệm sự phồng xẹp của bụng. Ðây là một dụng cụ
hữu hiệu để giúp ta loại bỏ các tâm bất thiện. Ði kinh hành giúp ta
được minh triết để thấy thực chất của vạn vật, và ta phải nỗ lực
hành trì pháp nầy cũng như ta hành trì pháp tọa thiền và các pháp thiền
khác. |
By the practice of vipassana meditation in
all postures, including the walking posture, may you and all yogis be able to attain total
purification in this very life! |
Qua sự hành
trì pháp thiền minh sát trong mọi tư thế, kể cả trong lúc bước đi, tôi
cầu mong bạn và tất cả các thiền sinh đạt được sự thanh tịnh viên
mãn ngay trong kiếp sống nầy! |
Thiền sư U
Silananda,
Tự viện Dhammananda,
California, Hoa Kỳ, 1995. |
Bình Anson lược dịch,
Perth, Western Australia,
tháng 3-1997 |
(Chân thành cám ơn bác Phạm Kim Khánh, anh Tôn
Thất Ðào và chị Hải Trần đã có thiện tâm giúp hiệu đính bản dịch
đầu tiên. -- Bình Anson, 1998)
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/loi_ich.htm
|
|