- LỤC TỰ ĐAI MINH CHÂN NGÔN TRONG THIỀN
QUÁN
- Huệ Khải
UM
MANI PADMI HUM! gọi là Lục Tự
Đại Minh Chân Ngôn. Nó có công năng diệt trừ mọi tai nạn,
đau khổ, giúp người tu đạt trí tuệ sáng suốt của Phật Thừa, gọi
là Đại Minh. Bởi vậy thực hành sáu chữ này thì đạt cái huệ tự
nhiên, cái vô phân biệt trí, cái trí tự nhiên biết, thấy như thật, biết
như thật để làm như thật. nên gọi là Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn.
Trong đó Chân Ngôn nghĩa là Đalani. Lục Tự nghĩa là gồm có sáu chữ . Đại
Minh nghĩa là sáu chữ này hành công rốt ráo sẽ đưa lại cái biết to lớn,
sự sáng suốt to lớn, nghĩa là cái huệ, cái tự nhiên biết, cái phản
ảnh như thật của Tâm Bát Nhã Bala Mật Đa (Prajna Paramita).
UM
MANI PADMI HUM! là câu thần chú nổi
tiếng ở thế giới. Phật tử nào cũng thuộc, môn phái nào
cũng trì tụng vì lực bất tư nghì của nó. Nó có công dụng diệt trừ
đau khổ. Giúp người tu tập vượt qua Dukkha, đạt giải thoát và cái huệ
tự nhiên của nhà Phật. Thần chú này do Đại Bồ Tát Quán Thế Âm thương xót chúng sanh mà tuyên thuyết
trước mặt Như Lai. Vậy phải hiểu thế nào là Quán Thế Âm thì bạn mới
biết cách dụng của Quán Thế Âm – ‘Um Mani Padmi Hum’.
Quán Thế Âm Bồ Tát
tượng trưng cho cái nghe ngược về bên trong của bạn. Chẳng những nó
có ý nghĩa là Bồ Tát quán sát, lắng nghe âm thanh kêu khổ của thế gian
để phát tâm đại từ đại bi cứu khổ chúng sanh. Chẳng những nó có ý nghĩa thông thường như vậy mà
đối với mật tông đại thừa, Quán Thế Âm Bồ Tát còn có ý nghĩa là
cách quán sát âm thanh thế gian để
đạt đến Phật Thừa.
Caùch ấy là thế nào?
Bạn quán sát âm thanh với tâm tịnh, để tịnh tiến dần đến điểm lặng
yên tột cùng . Theo đấy, âm thanh sẽ có năm dạng mà bạn phải thực
hành, quán sát và tu tập luyện công. Từ từ qua
kỹ thuật quán sát âm thanh này, bạn sẽ đạt nhĩ căn viên thông. Như vậy, đạt Bồ Tát Thừa và Phật Thừa qua kỹ thuật quán sát âm
thanh.
Năm dạng âm thanh ấy
là gì? Đầu tiên người mới tu tâm
loạn động, vọng niệm là đầu mối của vô minh. Muốn chặt đứt vọng
niệm này, người tu phải cột chặt tâm mình vào một giả âm cần thiết.
Cột chặt tâm vào một âm thanh giả tạo này để tạo chánh định cho tâm.
Thí dụ bạn trụ tâm chặt vào câu
niệm ‘Nam Mô A Di Đà Phật’, ‘Nam
Mô Quán Thế Âm Bồ Tát’ hoặc ‘tôi đang nhận khí đây’ chẳng hạn.
Đó là giả âm, đó là âm thanh giả
tạo chẳng hề có ở thế gian, do bạn tự đặt ra, do tôn giáo đặt ra. Nó
là phương tiện cột chặt tâm lại
mà thôi, không để nó phát triển tự phát.
Do trụ chặt vào câu giả
âm này, tâm đứng yên gọi là chánh định.
Sau thời gian chánh định.
Kỹ thuật quán sát âm thanh tiến lên
bậc thứ nhì đó là tập quán sát thực âm, âm thanh thực tế của cuộc
sống. Lúc bấy giờ, các tiếng động
ở thế gian, âm thanh ở thế gian, bạn sử dụng giống như câu niệm Phật,
giống như mã khóa. Nó có tác dụng để hành động bạn đáp ứng với
tình huống. Thay vì bạn niệm ‘Nam Mô A Di Đà Phật’ … thì nay bạn phải thích ứng với một âm
thanh tự nhiên có thật trong xã hội. Bạn quán sát âm thanh này, trụ tâm vào âm thanh này thì âm thanh này
biến thành mã khóa và nó có tác dụng cột chặt tâm bạn để vào định,
nên gọi là Quán Thế Âm ở bậc thực
âm.
Theo thời gian tu tập,
bạn tiến lên quán sát âm thanh vi tế hơn gọi là diệu âm. Thế nào là
diệu âm? Diệu âm có nghĩa là không
phải nghe âm thanh bằng lỗ tai, mà nó là cái hiểu biết qua sự nghe, gọi
là nhĩ thức. Bạn nghe một âm thanh não bạn vận động, tư duy tạo ra một
ý niệm về âm thanh này gọi là cái biết của sự nghe, gọi là nhĩ thức.
Nếu thực sự bạn tu đến mức độ này thì sáu căn bạn sẽ hợp nhất.
Chẳng những nghe bằng tai mà bạn còn nghe bằng mắt, nghe bằng mũi, nghe bằng
lưỡi, nghe qua xúc giác của đụng chạm sờ mó. Chẳng những bạn nghe bằng
tai mà ý nghĩ trong đầu bạn cũng là một dạng âm thanh. Bởi vì lục căn
tiếp xúc với lục trần sinh ra lục thức. Nếu không trụ vào các căn mà
trụ vào cái biết của căn khi đối diện với lục trần thì nhĩ thức cũng như các thức khác. Cái biết sau khi nghe cũng như cái biết
sau khi thấy, không khác gì nhau. Bởi vậy gọi là quán sát âm thanh ở thể diệu âm. Dù tai
bị điếc đi, bạn vẫn nghe bằng các giác quan khác như thường.
Qua quá trình tu tập,
nếu đã thực chứng diệu âm bạn tiến lên quán sát âm thanh của Đalani
nghĩa là âm thanh không nội dung. Đalani
hay thần chú của Chư Phật là âm thanh không nội dung, gọi là âm thanh vô
ngã. Bạn nhập vào biển âm thanh này, âm thanh chỉ là tác nhân, khiến năng
lượng giác ngộ (bodhi) hiển thị thành Phật lực, khiến trí tuệ phát triển thành tự nhiên trí.
Giai đoạn chót nghĩa
là âm thanh thứ năm, dạng âm thanh tối
thượng, nếu thực chứng sẽ đạt Bát Nhã Ba La Mật Đa, đó là âm thanh
cõi lặng yên, âm thanh không tiếng động. Làm sao quán sát âm thanh không
tiếng động (?), âm thanh cõi lặng yên là gì (?). Đó là ý nghĩ trong đầu, đó là cảnh biến
diệt của nội tâm, bạn là chứng nhân cho trạng thái vận động của não
bộ. Tâm không có ý niệm không có âm thanh nào thì biết nó không có âm thanh nào, âm thanh
nào khởi lên có đặc tính của âm thanh ấy. Một ý nghĩ sân hận khởi
lên, nghe được âm thanh sân hận này. Một ý nghĩ tham dục khởi lên, nghe
được âm thanh tham dục này. Bạn nhận biết, chứng kiến trạng thái biến
dịch của tâm qua kỹ thuật lắng nghe âm thanh của tâm thức mình. Âm
thanh này không có tiếng động mà như có tiếng động , người ngoài chẳng
biết, tai chẳng nghe được. Nó là sự cảm nhận, gọi là âm thanh cõi lặng
yên. Tâm thức bạn chính là pháp giới này, âm thanh của tâm chính là âm
thanh kêu khổ của thế gian. Bạn nghe được âm thanh của tâm thì tượng
trưng cho Bồ Tát Quán Thế Âm nghe tiếng kêu khổ của thế gian này. Bởi
vậy, niệm danh hiệu của Bồ Tát mà không quán tâm mình, chờ thần lực của Bồ Tát gia trì mà
âm thanh tâm mình khởi lên, mình
không thấy, mình không biết, mình chẳng chứng kiến nó, mình chẳng phải
là học trò của Quán Thế Âm, làm sao nhận được sự gia trì. Nếu niệm
Quán Thế Âm mà không biết lắng nghe âm thanh cõi lặng yên thì chính là sự
mê tín.
Vậy muốn giác ngộ
thành Phật, nhất thiết từng giờ từng phút trụ vào trạng thái nhận biết
tỉnh giác, quán sát âm thanh cõi lặng yên.
Nghĩa là thấy biết các ý nghĩ của mình.
Để giúp cho sự chứng
kiến này, để giúp cho trạng thái Quán Thế Âm, để giúp kiểm tra chứng
kiến điều chỉnh tâm mình bằng kỹ thuật Quán Thế Âm. Bồ tát Quán Thế Âm đã tuyên thuyết thần
chú ‘UM MANI PADMI HUM’. Công năng của
nó giúp bạn cực kỳ sáng suốt, luôn luôn nghe được âm thanh cõi lặng
yên nghĩa là luôn luôn biết được sự biến diệt trong não bộ , sự vận
động của tâm và tham dục khởi lên trong tâm mình, Bạn không biết làm
sao sửa, không biết làm sao tu, không
biết thì nhất thiết không thể giác ngộ. Phật Thừa là cái biết tối
thượng. Quán Thế Âm là con đường đến cái biết này. Thần chú ‘UM
MANI PADMI HUM’ có công năng giúp bạn đạt được sự việc ấy.
Thần chú là bất tư
nghì không giải thích được. Qua thực chứng, mỗi người có cái biết
riêng, kinh nghiệm riêng khi hành trì. Đây không phải ý nghĩa của thần chú
mà là cái biết của Chư Tổ và cái
biết riêng của các Vị tu chứng truyền thừa lại.
UM nghĩa là gì (?), UM
nghĩa là âm thanh mở luân xa bảy ở đỉnh đầu gọi là Sahasrara hoặc là
nê hoàn cung. Nó là luân xa chót khi nội khí thăng hoa vượt qua hệ thống
luân xa. Nó là cửa ngõ để nội điển bạn giao hòa với điển quang Chư
Phật, Chư Bồ Tát. UM tượng trưng cho bản thể, tượng trưng cho cái một,
tượng trưng cho Phật tánh ở thể dụng . Um là
cái bản thể hiện thị thành vạn pháp. MANI nghĩa là hạt ngọc
môni châu, nghĩa là tinh khí thần hợp nhất mà phát ra ánh sáng, còn gọi
là ‘tam miệu tam bồ đề’, còn gọi là ‘samadhi’(đại định). PADMI
nghĩa là hoa sen. HUM nghĩa là quay về, tịch diệt, lặng tắt.
Như vậy, UMMANI PADMI
HUM như bức tranh vẽ lại khung cảnh giữa hoa sen có hạt ngọc môni châu sáng
lấp lánh, tỏa hào quang. Sau đó lặng ngắt đi mọi sự trở về trống rỗng
(Sunnya).
Tại sao có hiện tượng
này ? Khi bạn tu pháp Quán Thế Âm vào định, độ định sâu dần. Trước khi vào đại định, trong sự lặng yên của tâm thức bạn bỗng vang
lên âm thanh UM! . . .UM! . . .UM! . . . . . . như
tiếng sấm rền, từ màn tối tăm của tâm thức ánh sáng bỗng bừng lên
bằng vô lượng vô biên các hạt sáng lập lánh gọi là hạt Bindu, hạt vi
trần, hạt điển quang. Các hạt sáng
này quay tít, sau đó co lại giống như hình hoa sen, ở giữa tâm của nó
có vùng rất sáng giống như hạt ngọc môni châu. Toàn thể quang cảnh này
xảy ra ở tâm khi bạn vào đại định. Sau đó quang cảnh này bỗng tắt
đi, bạn rơi vào trạng thái hẫng hụt gọi là trống rỗng không còn gì cả,
Bạn nhập vào Samadhi, bất tư nghì không thể nói lại được.
Như vậy, ‘UM MANI
PADMI HUM’ là quang cảnh ở tâm trước khi đạt
thể tâm không của nhà Phật.
Tâm không là gì ? Giống
như cái gương phản chiếu như thị mọi sự. Khi đối
diện với sự việc gì thì bạn biết như thật. Cái biết này không maya,
cái biết này không huyền ảo, cái biết này không méo mó khi qua tâm phóng
chiếu nhị nguyên. Khi đạt tâm không thì không có môi trường nhị nguyên
nữa nên bạn sẽ thấy như thật. Trước khi đạt trạng thái này thì ‘UM
MANI PADMI HUM’ xảy ra trong cơn thiền định của bạn.
Khi chưa đạt tâm
không, độ định còn kém bạn trì âm thanh này nghiã là làm định lý đảo
để nhằm đạt trạng thái HUM tiếp cận tâm không, nghĩa là với trạng
thái tịnh hành công với thần chú này, qua
thời gian tu tập nhất thiết sẽ đi vào Samadhi của Chư Phật và đạt trạng
thái prajna (bát nhã). Khi ấy, tâm bạn không phóng chiếu
sự vật nữa mà thấy như thật, biết như thật nên sẽ làm như thật. Như vậy gọi là
Nirvana, gọi là Niết Bàn vì thuận tự nhiên.
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/luctuchanngon.htm