Thiền định sáng suốt
thực tiễn
Venerable Mahāsi
Sayādaw
Mục Lục
1. Lời nói đầu
2. Bước chuẩn bị
3. Thực tập căn bản bài I
4. Thực tập căn bản bài II
5. Thực tập căn bản bài III
6. Sự tiến bộ về trầm ngâm, suy ngẫm
7. Thực tập căn bản bài IV
8. Tóm Lược
Lời nói đầu
Lẽ thật là không ai muốn đau khổ và
mọi người đều tìm kiếm hạnh phúc. Trong thế giới của chúng ta, con người
cố gắng làm mọi cách để phòng ngừa và làm giảm đau khổ, đồng thời hưởng
thụ hạnh phúc. Tuy nhiên, tất cả cố gắng của con người đều chỉ hướng về
phúc lợi của thân và về mặt vật chất. Hạnh phúc, thật ra, bị điều kiện hoá
bởi thái độ của tâm thức, và chỉ có vài người thật sự nghĩ đến việc phát
triển khía cạnh tâm thức, và lại rất ít người lại chịu thực tập thiền định
một cách miên mật.
Để minh hoạ điểm nầy, có lẽ chúng ta
nên để ý đến những thói quen thường ngày như làm vệ sinh thân thể, sự theo
đuổi không ngừng về thức ăn, quần áo, chỗ ở, và sự tiến bộ về mặt kỹ thuật
thật là to lớn, hầu để nâng cao đời sống vật chất ở mức căn bản, cải thiện
cách thức chuyên chở và truyền thông tin tức, để phòng ngừa, chữa trị
những ốm đau, bệnh tật. Thông thường tất cả những cố gắng nầy chỉ để chăm
sóc và nuôi dưỡng thân thể. Phải công nhận rằng những việc nầy rất cần
thiết. Tuy nhiên, những cố gắng của con người và sự tiến bộ không làm giảm
thiểu hoặc nhổ bỏ được gốc rễ đau khổ của già và bệnh, sự bất hạnh trong
gia đình, nỗi lo lắng về mặt kinh tế ; tóm lại, không thể nhổ bỏ tận gốc
rễ của sự bất mãn hay những ham muốn. Đau khổ về mặt nầy không thể bị khắc
phục bởi những phương thức thiên về vật chất; chúng chỉ có thể bị khắc
phục bởi một tâm thức thiền và sự phát triển về mặt tâm linh.
Kế đó, cần biết rõ con đường đúng
đắn để thực tập, ổn định và thanh tịnh hoá tâm thức. Con đường đúng đắn
nầy được nhắc đến trong Kinh Mahā Satipatthāna (Đại Tập Kinh), một bài
giảng nổi tiếng của đức Phật, cách đây đã trên 2.500 năm. Đức Phật tuyên
bố như sau :
« Đây là con đường duy nhất để
thanh tịnh hoá con người, để khắc phục buồn phiền, than vãn, để diệt trừ
niềm đau và nỗi sầu khổ, để đạt đến con đường chân chính, đạt đến nibbāna
(Niết Bàn), đó là bốn nền tảng của chính niệm. (Tứ Niệm Xứ) »
Bốn nền tảng của chính niệm là (1)
sự suy ngẫm về thân, (2) sự suy ngẫm về cảm giác, (3) sự suy ngẫm về tâm
thức, và (4) sự suy ngẫm về đối tượng của tâm thức.
Hiển nhiên, những người đi tìm hạnh
phúc có thể đi theo con đường nầy, với mục đích là gột rửa những nhiễm ô
của tâm thức, những nguyên nhân đã tạo nên đau khổ.
Nếu một người được hỏi, anh ta có
mong muốn khắc phục được nỗi phiền muộn và sầu não không, tất nhiên anh ta
sẽ nói, « Vâng, tôi muốn. » Kế đó, anh ta có thể sẽ nói, cần phải thực
tập Tứ Niệm Xứ.
Nếu một người được hỏi, nếu anh ta
muốn diệt trừ nỗi đau và phiền muộn, anh ta sẽ không ngần ngại mà trả lời
một cách khẳng định. Kế đó, anh ta nói, cần thực tập bốn niệm xứ.
Nếu một người được hỏi nếu anh ta
muốn đi trên chính đạo, để đạt niết-bàn, một trạng thái hoàn toàn xa rời
khỏi già, hư hoại và chết, và xa rời tất cả đau khổ, anh ta chắc chắn sẽ
trả lời một khách quả quyết rằng anh ta đồng ý. Kế đó, có thể nói, nên
thực tập bốn niệm xứ.
Làm thế nào để một người thực tập
bốn nền tảng của chính niệm ? Trong kinh Mahā Satipatthāna Sutta ( Đại Tập
Kinh), đức Phật đã nói, « Hãy thực tập suy ngẫm về thân, suy ngẫm về cảm
giác, tâm thức và đối tượng của tâm thức. » Nếu không có sự chỉ dẫn từ
một vị thầy có đủ tư cách, thì thật không phải dễ cho một người bình
thường thực tập những suy ngẫm nầy một cách có hệ thống, để có thể tiến
bộ, phát triển sự chú tâm và sự sáng suốt của chính niệm.
Chính bản thân tôi đã từng chịu đựng
sự thực tập miên mật về thiền satipatthāna (bốn niệm xứ), dưới sự chỉ dẫn
riêng của Thầy Mingun Jetavan Sayādaw ở Thaton, tôi đã từng truyền đạt
cách thức thiền nầy từ năm 1938 với sự chỉ dẫn riêng, cũng như đã ghi lại
trong sách, trong các bài giảng cho cả ngàn du sĩ (yogis). Để chìu theo
những yêu cầu của những nhóm người trước đó, đã từng học tập với tôi, tôi
viết bảng luận thuyết về Vipassanā và thiền định sâu sắc, trong hai bộ
sách. Luận thuyết đã hoàn tất vào năm 1994, và đã được xuất bản bảy lần.
Trong tất cả các chương, trừ Chương V, những bài bình luận, thảo luận có
sự tham khảo của các bảng kinh Pali, với những lời dẫn giải, chú giải.
Trong Chương V, tôi chọn cách viết trong một ngôn ngữ bình thường, dễ hiểu
cho học trò, chỉ dẫn làm thế nào để họ có thể bắt đầu thực tập, và tiến
hành ra sao, từng bước một, ghi chú rõ ràng những điểm đặc biệt nổi bật,
cùng với những lời giảng trong Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo) và những
bài kinh khác.
Quyển sách hiện nay là quyển đã được
dịch sang Anh ngữ với Chương 5 đã nói ở trên. Mười bốn trang đầu của quyển
sách chính bằng tiếng Miến Điện đã được U Pe Thin, dịch sang Anh ngữ từ
năm 1954, là một học trò lâu năm của tôi, ông ta đã dịch quyển sách sang
tiếng Anh vì phúc lợi của những người ngoại quốc đến thiền viện của chúng
tôi để thực tập. Từ trang 15 tới trang 51 của bảng gốc đã được Myanaung U
Tin, một học trò của tôi dịch sang Anh ngữ, theo lời yêu cầu của Thầy
Venerable Nyanaponika Mahāthera. Thật là ngẫu nhiên, Thiền viện của chúng
tôi có một khu gọi là Thathana Yeiktha, diện tích đất gần hai mươi bốn
mẫu, với trên năm mươi toà nhà dành cho các thiền sư và các du sĩ (yogis),
tu sĩ, cũng như các cư sĩ nam và nữ.
Thầy Nyanaponika Mahāthera đã đúc
kết bản dịch nầy sau khi đã ghi lại những ý kiến giá trị. Bản dịch của U
Pe Thin đã được Cô Mary McCollum, một nữ cư sĩ người Mỹ hiệu đính và cải
thiện đúng cách. Cô đã thực tập thiền satipatthāna dưới sự hướng dẫn của
ông Anagarika Munindra ở Burmese Vihāra, Bodh-Gaya, Bihar, Ấn độ. Ông
Anagarika Munindra đã từng sinh hoạt với chúng tôi trong một thời gian
dài. Ông ta đã gửi đến chúng tôi bản hiệu đính của cô, nhờ chúng tôi đọc
kỹ và chấp thuận. Sau khi hoàn tất, quyển sách ấy được gửi đến Thầy
Nyanaponika Mahāthera. Và như vậy, quyển sách nầy đây, là sự đóng góp và
tích luỹ của hai bản dịch trước đó, cộng với lời ngõ của tôi.
Chương V của bản luận thuyết bằng
tiếng Miến Điện, như đã nói ở trên, được viết bằng một ngôn ngữ bình
thường. Tôi cũng muốn nhắc rằng trong những từ ngữ có tính chất học thuyết
trong sách nầy, tôi đã không sử dụng những từ Pali, mà là giải thích tường
tận về « việc phát triển sự sáng suốt », được dịch từ bài luận thuyết bằng
tiếng Pali của tôi, đã được thầy Nyanaponika Mahāthera dịch sang Anh ngữ.
Quyển sách của ông, « Trọng tâm của Thiền phật giáo », là một kho tàng vô
giá về tài liệu cũng như những chỉ dẫn quan trọng về Thiền định.
Tóm lại, tôi muốn nói (1) tôi rất
cảm kích sự giúp đỡ của mọi người trong việc dịch sách và hiệu đính, cũng
như những người chịu trách nhiệm xuất bản quyển sách nầy, (2) để thúc đẩy
các bạn đọc đừng dừng lại ở sự hiểu biết lý luận, mà phải áp dụng cái hiểu
biết đó trong sự thực tập có hệ thống và miên mẫn, và (3) tôi muốn nói lên
nguyện vọng chân thành ước muốn các vị đạt được sự sáng suốt một cách
nhanh chong và hưởng được những ích lợi thiết thực đã được đức Phật nói
đến trong lời nói đầu của Satipatthāna Sutta (Đại Tập Kinh) .
Bhaddanta Sobhana (Agga Mahāpandita)
Mahāsi Sayādaw
October 1st, 1970
'Thathana Yeiktha',
16, Hermitage Road,
Rangoon, Burma
Bước chuẩn bị
Nếu
anh thật lòng mong muốn phát triển sự thiền định và đạt sáng suốt trong
đời hiện tại, anh phải thực tập, từ bỏ hết những ý nghĩ và hành động có
liên quan đến cuộc đời. Hành động nầy là một cách để thanh tịnh hoá hạnh
kiểm, bước đầu quan trọng để tiến đến sự phát triển thiền định một cách
đúng đắn. Anh phải gìn giữ giới luật của người cư sĩ tại gia, (hoặc tu
sĩ, tuỳ vào trường hợp), giới luật giúp cho anh có cái nhìn sáng suốt. Đối
với những cư sĩ, những giới luật bao gồm Bát giới mà các phật tử thuần
thành thường tham dự vào ngày trai giới (uposatha), và trong những lúc
thiền định 1
. Một giới luật nữa đó là không được nói bài xích, diễu cợt, hoặc có ác ý
đối với những người đang đạt đến trạng thái bất khả xâm phạm
(states
of sanctity.2).
Nếu anh đã lỡ phạm sai lầm nầy, anh nên đến trước người ấy để xin lỗi, và
gửi lời xin lỗi đến họ qua vị thiền sư của anh. Trong quá khứ, nếu như anh
đã có nói những lời xúc phạm đến một vị đáng kính, và bây giờ người đã
không còn nữa, hoặc đã chết, anh cũng nên tỏ rõ lỗi nầy và nhờ vị thiền sư
giúp đỡ hoặc anh có thể duyệt xét lại nội tâm của mình.
Các vị thầy phật giáo xưa kia thường
hay khuyên chúng ta nên giao phó chính bản thân mình cho đức Phật, vị đã
giác ngộ, trong khi thực tập thiền định, anh có thể sẽ bị sửng sốt khi
nhận thấy tâm thức của anh không hoàn thiện hoặc có những ảo ảnh đáng sợ
trong khi thiền định. Lúc nầy, anh hãy nương theo sự chỉ dẫn của vị thiền
sư, bởi vì chỉ có thầy mới có thể nói rõ với anh việc anh cần làm khi
thiền định và cho anh lời khuyên thích hợp nhất. Có rất nhiều lợi ích khi
đặt hẳn niềm tin vào bậc giác ngộ, đức Phật, và thực tập dưới sự chỉ dẫn
của một vị thầy. Mục đích của sự thực tập là lợi ích cao tột để buông bỏ
tham, giận và si mê, chúng là những gốc rễ của xấu ác và đau khổ. Sự thực
tập miên mật trong quá trình đạt sáng suốt cần được hoàn thành một cách mỹ
mãn. Cách thực tập thiền định dựa trên căn bản của chính niệm
(satipatthāna), đã được các chư Phật và thánh chúng thực tập và thành
công. Các vị cũng nên mừng vì đã cơ hội để thực tập giống như vậy.
Lúc nầy cũng là lúc quan trọng để
anh có thể bắt đầu sự thực tập của mình, dù ngắn ngủi, dựa vào « bốn sự
bảo hộ » mà bậc giác ngộ, đức Phật, đã ban tặng cho anh để suy ngẫm. Việc
nầy rất tốt cho phúc lạc tinh thần của anh. Những chủ thể của bốn suy ngẫm
bảo hộ là : đức Phật, lòng từ bi, sự chán ghét thân thể, và sự chết. Đầu
tiên, hãy dâng bản thân anh cho đức Phật bằng cách biết đánh giá chín phẩm
chất tốt lành nhất như sau :
Thật
vậy, đức Phật là một vị thánh thiện, hoàn toàn giác ngộ, hoàn hảo trong sự
hiểu biết và hạnh kiểm, một người phúc lạc, nổi tiếng, một vị lãnh đạo
không ai sánh bằng, bậc đạo sư của trời và người, bậc tỉnh thức, giác ngộ.
Điều
hai, hãy suy ngẫm và ban phát lòng từ bi của anh đến các chúng sinh, và
hãy xem anh và các chúng sinh ấy là một, không phân biệt, như vậy : Nguyện
sao cho tôi thoát khỏi hận thù, bệnh hoạn và muộn phiền. Cũng như tôi,
nguyện cho cha mẹ, thầy cô, những chúng sanh thân thuộc, xa lạ và không
quen biết, được xa lìa sự thù hằn, bệnh hoạn và phiền muộn. Nguyện cho họ
thoát khỏi đau khổ.
Điều ba, suy ngẫm về tính chất tự
nhiên ô uế của thân thể, sẽ giúp cho anh giảm đi sự bám víu không tốt lành
mà đa số mọi người đều nuông chìu, tham đắm. Suy ngẫm về những
thứ bất tịnh, như bao tử, ruột non ruột già, đàm, mủ, máu3.
Luôn suy ngẫm về những thứ bất tịnh nầy sẽ làm giảm đi sự yêu mến bám víu
vào thân thể.
Sự bảo hộ thứ tư về mặt lợi ích tinh
thần là suy ngẫm về hiện tượng của cái chết gần kề. Các bài giảng phật
giáo nhấn mạnh rằng đời sống là không chắc chắn, nhưng sự chết là một điều
chắc chắn ; cuộc sống quý giá nhưng sự chết thì hiển nhiên. Mục đích của
sự sống là sự chết. Có sanh, bệnh, khổ, già, và rồi chết. Tất cả những
khái niệm nầy là quá trình của sự hiện hữu.
Để
bắt đầu thực tập, hãy ngồi thẳng theo tư thế kiết già. Anh sẽ cảm thấy
thoải mái hơn nếu hai chân không khoá vào nhau nhưng đặt bằng trên sàn,
đôi chân không chận lên nhau. Nếu anh thấy ngồi trền sàn không thoải mái
khi thiền định, thì anh có thể tìm một cách ngồi khác sao cho thoải mái.
Bây giờ bắt đầu với mỗi bài thực tập sau đây.
Bài tập I
Hãy giữ tâm
thức (không phải cặp mắt) ở phần bụng. Anh sẽ biết khi nào có sự chuyển
động của bụng lên cao hay xuống thấp. Nếu những chuyển động nầy không rõ
ràng cho anh từ lúc bắt đầu, anh hãy để hai bàn tay lên bụng để cảm nhận
sự lên cao, xuống thấp của bụng. Sau một thời gian ngắn với sự chuyển động
lên cao và hơi thở ra vào sẽ trở nên rõ ràng. Kế đó, hãy ghi nhớ trong tâm
thức sự chuyển động lên cao nầy, cũng như sự chuyển động xuống thấp. Ghi
nhớ bằng tâm thức mỗi một sự chuyển động khi nó xuất hiện.
Từ
sự thực tập nầy, anh học được sự chuyển động lên xuống của bụng. Anh không
lo lắng về hình dạng của bụng. Anh chỉ nhận biết cảm thọ của thân đối với
lực ép khi bụng phồng lên xẹp xuống. Như vậy, đừng dừng lại ở hình dạng
của bụng mà hãy tiếp tục với việc thực tập. Đối với những người sơ cơ,
cách nầy rất hữu hiệu để phát triển những khả năng về sự chú ý, chú tâm
của tinh thần và suy ngẫm sáng suốt. Khi việc thực tập tiến triển, mỗi một
chuyển động sẽ rõ ràng hơn. Khả năng biết trước mỗi bước kế tiếp của tiến
trình về thân cũng như tâm, để đạt đến trạng thái phát triển hoàn toàn về
sáu giác quan thì cần phải có sự thiền định sáng suốt. Vì anh chỉ là một
người sơ cơ nên sự chú tâm và khả năng chính niệm rất yếu, anh có thể sẽ
thấy khó khăn khi để tâm thức theo dõi mỗi sự chuyển động lên xuống của
bụng. Thấy được sự khó khăn nầy, anh có thể cho rằng, «Tôi không biết kềm
giữ tâm thức theo những chuyển động. » Hãy chỉ nhớ đây là một quá trình
học tập. Sự chuyển động lên xuống của bụng lúc nào cũng hiện diện, và như
vậy, cũng không cần thiết phải tìm kiếm chúng. Thật ra, việc nầy khá dễ
đối với người sơ cơ khi họ chỉ cần nhớ rõ sự chuyển động lên xuống giản dị
nầy.
Hãy tiếp tục với thực tập nầy trong
chính niệm hoàn toàn, để ý sự chuyển động lên xuống của bụng. Đừng bao giờ
lặp đi lặp lại, lên, xuống, và đừng nghĩ đến lên xuống là những chữ. Chỉ
cần biết rõ quá trình hiện tại với sự chuyển động lên xuống của bụng. Đừng
để thở quá nhanh hay quá sâu với chủ yếu chỉ làm cho sự chuyển động của
bụng rõ ràng, vì cách nầy sẽ làm cho mau mệt và sẽ phản tác dụng đối với
cách thực tập nầy. Hãy hoàn toàn tỉnh giác với sự chuyển động lên và xuống
như khi chúng xuất hiện trong quá trình hít ra thở vào một cách bình
thường.
Bài thực tập II
Khi anh đang
theo dõi sự chuyển động của bụng, những hoạt động khác của tâm thức cũng
xuất hiện giữa những chuyển động lên xuống nầy. Các ý nghĩ hoặc những hoạt
động tinh thần, như dự định, ý kiến, sự tưởng tượng thường hay xuất hiện
giữa những ghi nhận về sự chuyển động của bụng khi lên cao xuống thấp.
Không thể không để ý đến chúng. Một ghi nhận tâm thức cũng nên được ghi
lại đúng với sự xuất hiện của nó.
Nếu anh tưởng tượng một vật gì, anh
phải biết rằng anh đang tưởng tượng việc đó và ghi lại nơi tâm thức, tưởng
tượng. Nếu anh chỉ đơn giản nghĩ đến một việc gì đó, thì ghi nhớ - suy
nghĩ. Nếu anh suy ngẫm, thì ghi nhớ - suy ngẫm. Nếu anh có ý định làm việc
gì, thì ghi nhớ ý định đó. Khi tâm thức lang thang khỏi đối tượng thiền
định thì sự lên xuống nơi bụng không được tập trung, nhưng vẫn được ghi
nhận. Nếu anh tưởng tượng phải đi đến một nơi nào đó, ghi nhớ là phải đi.
Khi anh đến, cứ đến. Khi ấy trong ý tưởng, anh gặp một người, ghi nhận gặp
mặt người ấy. Nếu anh phải nói chuyện với cô hay anh ấy, hãy cứ nói. Nếu
anh tưởng tượng bàn cãi với người đó, hãy bàn cãi. Nếu anh thấy màu sắc
hay ánh sáng, chỉ cần ghi nhận là anh nhận thấy chúng. Một hình ảnh từ tâm
thức cũng cần được ghi nhận mỗi khi nó xuất hiện và biến mất. Sau khi nó
biến mất thì anh hãy tiếp tục với Bài thực tập I, bằng cách chú tâm vào
mỗi chuyển động của bụng khi lên cao xuống thấp. Tiến bước một cách cẩn
thận, không giãi đãi. Nếu anh có ý định nuốt nước miếng khi nói, thì hãy
ghi nhận ý định ấy. Trong khi anh nuốt nước miếng, hãy nuốt nước miếng.
Nếu anh phải khạc nhổ, hãy khạc nhổ. Sau đó, anh quay lại bài thực tập
chuyển động của bụng lên cao, xuống thấp.
Thí dụ anh có ý định quay cổ, hãy
ghi nhận ý định ấy. Trong khi quay cổ, quay cổ. Khi anh có ý định làm
thẳng cổ thì hãy ghi nhận ý định ấy. Trong hoạt động làm thẳng cổ, hãy cứ
làm việc ấy. Sự chuyển động về quay cổ, làm thẳng cổ cần được làm một cách
từ từ. Sau khi ghi nhận lại nơi tâm thức của mỗi hoạt động nầy, tiến từng
bước trong sự chú tâm và ghi nhận những chuyển động của bụng nhô lên xẹp
xuống.
Bài thực tập III
Anh phải tiếp tục suy ngẫm rất lâu
trong một tư thế, hoặc ngồi hoặc nằm (thật không nên khuyên thiền sinh
trong tư thế nằm, ngoài trừ khi ngủ), nếu anh thường cảm thấy mệt mỏi, cơ
thể, tay chân thường cứng ngắt. Nếu việc nầy xảy ra, chỉ cần giữ trong tâm
thức cái cảm giác khó chịu đó ở một phần nào của cơ thể, và nghiền ngẫm
nó, ghi nhận sự mệt mỏi và căng thẳng của nó. Hãy làm việc nầy một cách tự
nhiên ; nghĩa là, không nhanh hoặc không chậm. Những cảm giác nầy dần dần
sẽ trở nên mờ nhạt, và cuối cùng sẽ tự hoại diệt. Nếu một trong những cảm
giác nầy trở nên mãnh liệt, cho đến khi cơ thể mệt mỏi và cứng ngắt ở các
đốt xương thì thật là rất khó chịu, anh nên thay đổi tư thế. Tuy vậy,
trước khi anh bắt đầu thay đổi tư thế, đừng quên ghi nhận lại nơi tâm thức
ý định nầy. Mỗi một sự chuyển động cần được suy ngẫm một cách mạch lạc rõ
ràng, với đầy đủ chi tiết.
Nếu anh có ý định giở tay hay chân,
hãy ghi nhận lại nơi tâm thức ý định nầy. Trong quá trình giơ tay hoặc
chân, chỉ việc giơ tay chân. Duỗi tay hay chân, cứ duỗi tay chân. Khi anh
cúi xuống, hãy cứ cúi xuống. Khi bỏ một vật gì xuống, hãy bỏ xuống. Nếu
chân hay tay đụng nhau, thì cứ để chúng đụng nhau. Hãy làm tất cả những
việc nầy trong tư thế chậm rãi khoan thai. Khi anh đã yên vị ở một tư thế
mới, hãy tiếp tục suy ngẫm trong một tư thế khác, giữ kỹ quá trình đã phác
thảo ở đoạn văn nầy.
Nếu có một cảm giác ngứa ngáy ở phần
nào của cơ thể, hãy ghi nhận lại nơi tâm thức phần ngứa ngáy đó. Hãy làm
việc nầy một cách điều hòa, không nhanh mà cũng không chậm. Khi một cảm
giác ngứa ngáy biến mất trong sự chú tâm hoàn toàn, hãy tiếp tục với bài
thực tập về ghi nhận lại sự lên cao xuống thấp của bụng. Nếu cảm giác ngứa
ngáy tiếp tục, và trở nên mãnh liệt và anh có ý định gãi chỗ ngứa đó, hãy
ghi nhận lại ý định đó nơi tâm thức. Từ từ giơ tay lên, đồng thời ghi nhận
hành động giơ tay lên, và chạm vào, khi tay chạm vào phần ngứa đó. Hãy chà
nhẹ nhẹ và hoàn toàn có chính niệm về sự thoa chỗ ngứa ấy. Khi cảm giác
ngứa ngáy biến mất và anh có ý định ngừng thoa bóp, hãy luôn giữ chính
niệm và ghi lại ý định nầy nơi tâm thức. Từ từ rút tay ra, đồng thời cũng
ghi nhận hành động rút tay về. Khi tay trở về chỗ cũ, đụng chân. Kế đó,
hãy trở lại theo dõi sự chuyển động của bụng.
Nếu có một cảm giác đau đớn hoặc khó
chịu, hãy ghi nhận phần cảm giác khó chịu ấy bắt đầu từ nơi nào của cơ
thể. Hãy ghi nhận lại nơi tâm thức cảm giác đặc biệt khi nó xuất hiện,
như đau đớn, mỏi, tê, xót, mệt, chóng mặt. Cần nhấn mạnh rằng sự ghi nhận
bằng tâm thức không nên bị bắt buộc hay làm cho chậm lại, nhưng cần phải
ghi nhận trong tư thế tự nhiên bình tĩnh. Cảm giác đau đớn có thể ngưng
bặt hoặc là gia tăng. Đừng hoảng hốt khi nó gia tăng. Hãy tiếp tục kiên
quyết với sự suy ngẫm. Nếu anh làm được, anh có thể thấy cảm giác ấy tự
dưng ngưng bặt. Nhưng sau một lúc, cảm giác đau đớn lại gia tăng và trở
nên không chịu nổi, anh có thể bác bỏ cảm giác đau đớn và tiếp tục suy
ngẫm về sự chuyển động của bụng trồi lên xẹp xuống.
Khi anh tiến triển về mặt giữ gìn
chính niệm, anh kinh nghiệm những cảm giác đau đớn mãnh liệt : ngột ngạt
hoặc khó thở, như một nỗi đau từ vết dao, như bị một vật nhọn đâm vào,
những cảm giác khó chịu như bị những mũi kim chích, hoặc thân thể cảm thấy
như bị các côn trùng nhỏ bò đầy người. Anh cũng có thể kinh nghiệm về sự
ngứa ngáy, nhức nhối, hoặc lạnh lẽo dữ dội. Khi anh bắt đầu ngừng suy
ngẫm, anh có thể cảm thấy những cảm giác đau đớn nầy ngưng bặt. Khi anh
tiếp tục suy ngẫm anh lại cảm thấy những cảm giác đau đớn nầy trở lại.
Những cảm giác đau đớn không thể bị coi là sai lầm. Chúng không phải là sự
biểu thị của bệnh tật, nhưng chúng là những yếu tố bình thường luôn hiện
diện trong cơ thể, và chúng chỉ bị che lấp khi tâm thức mắc bận rộn với
những đối tượng dễ thấy hơn. Khi những khả năng tâm thức trở nên bén nhạy
hơn, anh sẽ có chính niệm nhiều hơn về các cảm giác. Với sự phát triển đều
đặn và suy ngẫm trong thời gian dài anh mới có thể khắc phục được những
cảm giác nầy và làm cho chúng bị ngưng bặt hoàn toàn. Nếu anh tiếp tục suy
ngẫm, kiên quyết với mục đích, anh sẽ không sao. Nếu anh bị mất can đảm,
phân vân lưỡng lự trong việc thiền định và không tiếp tục thực tập trong
một thời gian, anh có thể sẽ phải đối diện với những cảm giác khó chịu ấy
hoài hoài mỗi khi anh bắt đầu quá trình suy ngẫm. Nếu anh tiếp tục với sự
kiên định, anh chắc chắn sẽ khắc phục được chúng và sẽ không bao giờ gặp
lại chúng trong những lần thiền định tới.
Nếu anh có ý định xoay người, hãy
ghi nhớ ý định ấy. Trong khi nghiêng người, hãy ghi nhớ hành động nầy. Khi
anh suy ngẫm, đôi lúc anh có thể thấy được cơ thể đang lắc tới lắc lui.
Đừng hốt hoảng ; đừng tiếp tục khó chịu hay mong muốn. Việc xoay người nầy
rồi cũng bị dừng bặt khi anh ghi lại nơi tâm thức hành động nầy, và tiếp
tục để ý nó cho tới khi nó ngừng hẳn. Nếu sự lắc lư tiếp tục cho dù anh đã
ghi nhận lại rõ ràng, hãy dựa lưng vào tường, vào một cây cột, hoặc nằm
xuống nghỉ một chút. Sau đó thì tiếp tục với sự suy ngẫm. Tiếp tục theo
quá trình mà anh đã ghi nhận, lắc lư hoặc run rẩy. Khi sự suy ngẫm phát
triển thì anh có lẽ sẽ có cảm giác run sợ hoặc lạnh lẽo ở sống lưng hoặc
toàn thân. Đây là một triệu chứng thích thú, hăng hái mãnh liệt của cảm
giác. Nó xảy ra một cách tự nhiên trong tiến trình của việc suy ngẫm đúng
đắn. Khi tâm thức của anh được giữ nơi chính niệm, anh có thể sẽ giật mình
bởi vì một tiếng động rất nhỏ. Việc nầy xảy ra khi anh bị ảnh hưởng của ấn
tượng giác quan quá mạnh mẽ, và bởi vì anh đang trong trạng thái chú tâm
tối đa.
Nếu anh khát nước trong lúc đang
thiền, hãy ghi nhận cảm giác khát nước. Khi anh có ý định đứng dậy, hãy
ghi nhớ ý định ấy. Luôn luôn ghi lại nơi tâm thức hành động của việc đứng
lên, hãy ghi nhớ đứng lên. Khi anh nhìn thẳng để tiến bước, hãy ghi nhận
cái thấy, cái nhìn của anh. Nếu có ý định đi thẳng tới trước, ghi nhớ ý
định ấy. Khi anh bắt đầu bước tới, hãy ghi nhớ lấy bước đi đó, hoặc bước
trái, bước phải. Rất quan trọng khi anh luôn chú tâm đến mỗi giây phút của
bước đi, từ đầu đến cuối. Hãy ghi nhận quá trình của việc đi lại hoặc khi
anh thiền hành. Hãy cố gắng ghi nhận lại nơi tâm thức mỗi bước đi trong
hai phần sau đây : giở chân lên, để chân xuống, giở chân lên, để chân
xuống. Khi anh đã thực tập một thời gian dài trong tư thế đi đứng nầy, sau
đó hãy ghi nhận mỗi bước qua ba phần sau ; giơ chân lên, đẩy xuống, để
xuống ; hoặc giơ chân lên, bước chân tới trước, để chân xuống.
Khi anh nhìn thấy ống nước, hay vòi
nước nơi anh định giải khát, hãy ghi nhận lại cái thấy, cái nhìn của anh.
-
Khi anh ngừng đi, hãy ngừng lại.
-
Khi anh vươn vai, hãy vươn vai.
-
Khi anh đụng đến cái tách, hãy
chạm vào tách.
-
Khi anh cầm cái tách, hãy giữ lấy
nó.
-
Khi anh hứng tách vào vòi nước,
hãy để nước thấm tách.
-
Khi anh đưa tách lên môi, hãy ghi
nhận đang đưa tách lên.
-
Khi tách nước đụng vào đôi môi,
hãy ghi nhận lấy sự va chạm nầy.
-
Khi anh nuốt nước, hãy nuốt nước.
-
Khi để lại tách, hãy ghi nhận hành
động nầy.
-
Khi rút tay về, hãy ghi nhận việc
rút tay về.
-
Nếu anh bỏ tay xuống, hãy ghi nhận
bỏ tay xuống.
-
Khi tay đụng bên thân hình, hãy
ghi nhận điều nầy.
-
Nếu anh có ý định xoay lưng, hãy
ghi nhớ.
-
Nếu anh xoay lưng rồi, thì hãy cứ
xoay lưng.
-
Khi anh tiến bước, thì hãy ghi nhớ
cứ tiến bước.
-
Khi đến nơi mà anh muốn ngừng lại,
thì hãy ghi nhận ý định nầy.
-
Khi anh ngừng, thì hãy ghi nhớ là
anh ngừng lại ở đây.
Nếu anh phải đứng một lúc lâu, thì
anh nên kiên trì thực tập sự chú tâm về việc nhô lên xẹp xuống của bụng.
Nếu anh có ý định ngồi xuống, thì hãy ghi nhớ ý định ấy. Khi anh đi đến
chỗ ngồi, hãy đi và ghi nhớ. Khi đến nơi anh phải đến, anh sẽ ngồi. Khi
anh quay lưng ngồi, thì cứ quay lưng. Trong khi ngồi, thì hãy ghi nhớ tư
thế ngồi của anh. Ngồi xuống một cách từ tốn, luôn ghi nhớ sự chuyển động
của thân thể. Anh có thể nhận thấy mỗi chuyển động của tay và chân trong
tư thế ngồi. Kế đó, hãy quay lại việc quan sát sự chuyển động của bụng.
Nếu anh có ý định nằm xuống, hãy ghi
nhớ ý định nầy. Sau đó, tiếp tục suy ngẫm về mỗi chuyển động của tư thế
nằm : giở tay chân, vươn vai, đặt lưng xuống giường, nằm yên. Hãy dùng đối
tượng của mỗi chuyển động để suy ngẫm, như đưa tay, chân và thân vào tư
thế nằm. Làm những hành động nầy một cách từ tốn. Sau đó, tiếp tục ghi
nhận sự trồi lên xẹp xuống của bụng. Nếu có bất cứ cảm giác nào như đau
đớn, mệt mỏi, ngứa ngáy, hãy ghi nhận mỗi cảm giác nầy. Ghi lại tất cả
những cảm giác, ý nghĩ, ý kiến, sự quan tâm, sự suy nghĩ; tất cả chuyển
động của tay, chân, và thân thể. Nếu không có gì đặc biệt để ghi nhớ, hãy
quay về với sự chuyển động của bụng. Khi buồn ngủ, hãy ghi nhận việc nầy.
Sau khi đã thực tập đầy đủ anh có thể khắc phục được sự buồn ngủ và anh có
thể sẽ cảm thấy khoẻ khoắn hơn sau thực tập. Hãy tập luyện sự suy ngẫm
thông thường đối với những đối tượng căn bản. Khi anh không thể khắc phục
được cảm giác buồn ngủ, anh cần phải tiếp tục quán tưởng về sự buồn ngủ
cho đến khi anh rơi vào giấc ngủ.
Trạng thái ngủ là sự tiếp tục của
tiềm thức. Nó tương tự như trạng thái đầu tiên của ý thức tái sinh, và là
trạng thái cuối cùng của ý thức ngay khi chết. Trạng thái ý thức nầy rất
yếu và như vậy không có khả năng để ghi nhận rõ ràng một đối tượng. Khi
anh thức dậy, ý thức tiếp tục xuất hiện bình thường giữa những khoảnh khắc
nhìn thấy, nghe, nếm, ngửi, xúc chạm và suy nghĩ. Bởi vì những việc nầy
xảy trong khoảnh khắc nên thường chúng không rõ ràng và như vậy đã không
được ghi nhận lại. Tiềm thức lại tiếp tục trong trạng thái ngủ -- yếu tố
quan trọng là khi anh thức dậy ; trong trạng thái thức dậy những ý nghĩ và
những đối tượng của giác quan trở nên rõ rệt hơn.
Thiền minh sát cần được thực hiện
ngay khi anh thức dậy. Vì anh là người sơ cơ, cho nên anh khó thực hiện
việc suy ngẫm ngay từ phút đầu tiên khi thức dậy. Nhưng khi anh nhớ, anh
nên bắt đầu quan sát kỹ. Thí dụ, nếu anh thức dậy và đang suy nghĩ về việc
gì đó, anh nên chú tâm về yếu tố nầy và bắt đầu ghi nhận nó lại nơi tâm
thức. Kế đó tiếp tục sự chú tâm vào bụng khi trồi lên xẹp xuống. Khi rời
khỏi giường, cần chú tâm vào mọi chi tiết hoạt động của thân thể. Mỗi một
chuyển động của tay, chân và mông cần được thực hành với chính niệm. Anh
đang nghĩ về giờ giấc của ngày hôm nay khi anh thức dậy ? Nếu đúng như
vậy, thì anh hãy ghi nhớ điều nầy. Anh có ý định rời khỏi giường ? Nếu
đúng vậy, thì hãy ghi nhớ ý định nầy. Nếu anh sửa soạn tư thế để đứng lên,
hãy sửa soạn. Và anh từ từ đứng dậy. Nếu như anh muốn ngồi thêm một thời
gian, thì hãy quay về quan sát sự chuyển động của bụng.
Hãy rửa mặt hoặc tắm một cách tỉnh
thức, trong chính niệm của mỗi sự chuyển động ; thí dụ, nhìn, thấy, vươn
vai, cầm, nắm, cảm thấy lạnh, chà xát. Những hành động như mặc quần áo,
làm giường, mở và đóng cửa lớn, cửa sổ, cầm vật nầy, vật kia, luôn ghi nhớ
mọi chi tiết của những hành động nầy một cách liên tục.
Anh cũng cần phải suy ngẫm về mọi
chi tiết trong việc ăn uống :
-
Khi anh nhìn thức ăn, nhìn, và ghi
nhận cái thấy nầy.
-
Khi anh sắp xếp thức ăn vào dĩa,
hãy sắp xếp.
-
Nếu anh đưa thức ăn lên miệng, thì
cứ đưa lên.
-
Nếu anh cúi xuống, thì cứ cúi
xuống.
-
Khi thức ăn chạm đến miệng, hãy để
nó chạm vào.
-
Khi để thức ăn vào miệng, hãy ghi
nhận việc nầy.
-
Khi ngậm miệng lại, thì hãy ngậm
miệng.
-
Khi rút tay về, thì ghi nhận rút
tay về.
-
Nếu tay đụng cái dĩa, thì hãy để
nó đụng.
-
Khi ngồi thẳng lại, thì ghi nhớ
việc nầy.
-
Khi nhai thì cứ nhai.
-
Nếu anh có chính niệm về hương vị,
hãy ghi nhận điều nầy.
-
Khi nuốt thức ăn, thì cứ nuốt thức
ăn.
-
Trong khi nuốt thức ăn, nếu thức
ăn chạm vào cổ họng, hãy ghi nhớ.
Hãy suy ngẫm theo cách nầy mỗi lần
anh ăn cho đến khi xong bữa. Trong buổi đầu thực tập, có thể anh sẽ quên
vài điều. Không quan trọng đâu. Đừng nản lòng. Nếu anh thực tập miên mật
thì dần dà anh sẽ ít quên hơn. Khi sự thực tập của anh tới mức cao anh sẽ
có khả năng nhận thấy nhiều chi tiết hơn những gì đã kể ở trên.
Tiến bộ về sự suy ngẫm
Sau khi thực
tập trong vòng một ngày, một đêm anh có thể nhận thấy thiền tập của anh đã
tiến bộ rất nhiều. Anh có khả năng kéo dài bài thực tập căn bản về việc
quan sát những chuyển động của bụng. Lúc nầy, anh nhận thấy, thông thường
hay có một khoảng trống giữa những chuyển động trồi lên và xẹp xuống. Nếu
anh đang ngồi, hãy điền vào khoảng trống nầy một ghi chú về kiểu ngồi :
trồi lên - rào chắn - ngồi. Khi anh ghi chú về kiểu ngồi, hãy nhớ giữ
thẳng lưng. Khi anh nằm xuống, hãy tiếp tục với chính niệm như sau : trồi
lên, xẹp xuống, nằm. Nếu anh thấy việc nầy dễ dàng, hãy tiếp tục ghi chú
mọi việc trong ba phần. Nếu anh nhận thấy có sự tạm ngưng xuất hiện vào
phần cuối của chuyển động trồi lên cũng như xẹp xuống, thí dụ khi anh cảm
thấy không còn dễ dàng để ghi nhớ ba hoặc bốn đối tượng trong một lần. Hãy
tiếp tục cách nầy : trồi lên, ngồi, xẹp xuống, ngồi. Hoặc khi nằm : trồi
lên, nằm, xẹp xuống, nằm. Sau đó, hãy quay lại tiến trình đầu tiên của
việc ghi chú, chỉ ghi chú ra hai phần ; trồi lên và xẹp xuống.
Trong thực tập hàng ngày, khi suy
ngẫm về những chuyển động của thân thể, anh không cần phải để ý đến những
đối tượng của cái thấy và cái nghe. Quan trọng là anh có thể giữ sự chú
tâm vào những chuyển động lên xuống của bụng, với mục đích nhận diện rõ về
cái thấy cùng đối tượng của nó. Tuy vậy, anh có thể có ý định chỉ chăm chú
vào một đối tượng ; đồng thời cũng nên ghi nhận nơi tâm thức, hai hoặc ba
lần, sự nhìn thấy. Kế đó, quay về quan sát những chuyển động của bụng.
Thí dụ có vài người chợt xuất hiện
trong tầm nhìn của anh. Hãy ghi nhận về cái thấy nầy, hai hoặc ba lần, và
rồi đưa sự chú tâm về với những chuyển động lên xuống của bụng. Nếu như
anh nghe có tiếng nói thì sao ? Anh có lắng nghe tiếng nói ấy ? Nếu có,
hãy ghi chú về cái nghe nầy, sau khi nghe xong, hãy quay về với sự chuyển
động lên xuống. Nhưng nếu anh nghe những tiếng động lớn, giống như tiếng
chó sủa, nói năng, la lối lớn tiếng. Nếu vậy, hãy tức khắc ghi chú hai
hoặc ba lần, việc nghe thấy nầy, rồi quay lại với sự thực tập căn bản
(chuyển động của bụng). Nếu anh quên ghi chú và bỏ qua những tiếng động
đặc biệt nầy khi chúng xuất hiện, anh có thể rơi vào việc suy nghĩ về
những tiếng động nầy, mà không hay rằng anh phải tiếp tục quan sát miên
mật những chuyển động lên xuống của bụng, có thể ngay lúc nầy sự việc rất
rõ ràng và dễ nhận thấy. Ngay khi chính niệm bị yếu đi, thì những cảm xúc
mạnh mẽ của tâm thức ô nhiễm sẽ có dịp sinh sôi và nảy nở. Nếu như những
suy nghĩ như vậy xuất hiện, hãy ghi nhớ về suy nghĩ nầy, hai hoặc ba lần,
rồi quay về chú tâm ở sự chuyển động lên xuống của bụng. Nếu như anh quên
ghi chú những chuyển động của thân, chân hoặc tay, vậy thì hãy ghi chú
rằng anh đã quên, và rồi quay về với sự chuyển động của bụng. Lúc nầy, anh
có thể cảm nhận hơi thở chậm dần hoặc những chuyển động lên xuống rất khó
nhận diện. Khi việc nầy xảy ra, và nếu như anh đang ngồi, chỉ cần đưa sự
chú tâm về tư thế ngồi, sự xúc chạm ; hoặc nếu như anh đang nằm, ghi chú
về tư thế nằm và sự xúc chạm. Khi đang suy ngẫm về sự xúc chạm, tâm thức
của anh không nên dừng lại ở phần nào của thân, mà phải để sự chú tâm lần
lượt hiện diện ở những phần khác nhau của thân. Có tất cả bảy phần
về xúc chạm và ít nhất có sáu hoặc bảy phần cần được suy ngẫm.
4
Thực tập căn bản IV
Cho tới thời
điểm nầy, anh đã kiên trì thực tập một thời gian rồi. Anh bắt đầu cảm thấy
lười biếng và nghĩ rằng anh đã không tiến triển chút nào. Đừng nên chán
nản. Chỉ cần ghi nhớ sự lười biếng. Trước khi anh có đủ nghị lực về sự chú
tâm, và có sự hiểu biết sáng suốt, anh có thể nghi ngờ về sự chính xác
hoặc hữu dụng của phương thức nầy. Trong trường hợp nầy, hãy quay về sự
suy ngẫm của ý nghĩ, nghi ngờ. Anh mong mỏi hoặc ước mong những kết quả
tốt ? Nếu đúng vậy, hãy ghi nhớ ý nghĩ về sự việc nầy trong lúc thiền,
ghi nhớ, mong mỏi hoặc ước muốn.
Cho đến lúc nầy, anh có thử nhớ lại
cách thức đã sử dụng trong lúc thực tập hay không ? Có ? Như vậy anh hãy
suy ngẫm về những gì đã được ghi nhớ. Có những lúc nào anh xem xét đối
tượng của thiền định để định nghĩa việc ấy từ thân hay tâm ? Nếu vậy, hãy
chú ý vào sự quán xét. Anh có hối hận là không có tiến triển nào về thực
tập của anh ? Nếu vậy, hãy chú ý về cảm giác hối hận. Ngược lại, anh có
cảm thấy sung sướng khi thực tập của anh tiến triển ? Nếu đúng vậy, hãy
suy ngẫm về cảm giác sung sướng ấy. Đây là cách anh ghi nhớ bằng tâm thức
về mỗi vật hoặc mỗi ý nghĩ, mỗi hành động khi nó xảy ra, và nếu không có
những ý tưởng xen kẽ hay nhận xét nào để ghi nhớ, anh hãy chú tâm vào
chuyển động lên xuống của bụng. Trong khoá thực tập thiền gay go, thời
gian thực tập bắt đầu ngay từ lúc anh thức dậy cho đến phút cuối cùng
trước khi anh ngủ. Không thể thư giãn được. Đến lúc anh tiến triển đến một
giai đoạn anh sẽ không còn buồn ngủ khi ngồi thiền trong một thời gian
lâu. Ngược lại, anh có khả năng ngồi thiền liên tục cả ngày.
Tóm Lược
Trong phần dàn bài ngắn gọn đã nhấn
mạnh rằng anh có thể quan sát và suy ngẫm về mỗi việc xảy ra nơi ý thức,
dù tốt hoặc xấu ; mỗi một chuyển động của cơ thể, lớn hay nhỏ ; mỗi cảm
xúc (về thân hay tâm), hài lòng hay bất mãn ; v…v… Nếu, trong lúc thực
tập, đôi lúc chẳng có gì đặc biệt để suy ngẫm, ghi nhớ, hãy hoàn toàn chú
tâm vào chuyển động của bụng. Khi anh phải chú tâm về bất cứ hành động cần
thiết nào, như đi, trong chính niệm, mỗi bước cần được ghi nhớ ngắn gọn là
đi, đi hoặc trái, phải. Nhưng nếu khi anh đang tập thể dục, thì suy ngẫm
về mỗi bước trong ba phần ; lên, trước, xuống. Thiền sinh nào hết lòng
thực tập ngày đêm, sẽ đạt đến giai đoạn đầu trong bốn giai đoạn về sự hiểu
biết sâu sắc (sự hiểu biết xuất hiện và rồi biến mất)5 và sẽ
tiếp tục tiến triển ở những giai đoạn cao hơn của thiền định
(vipassanā-bhavana).
Chú thích
1
The eight Uposatha precepts are: abstention from 1) killing, 2) stealing,
3) all sexual activity, 4) lying, 5) intoxicants, 6) taking food after
twelve noon, 7) dancing, singing, music, shows (attendance and
performance), the use of perfumes, ornaments, etc., and 8) using luxurious
beds.
2
There are four noble individuals (ariya-puggala). They are those who have
obtained a state of sanctity:
a) The stream-winner (sotāpanna) is one who has become free from the first
three of the ten fetters which bind him to the sensuous sphere, namely:
personality belief, sceptical doubt, and attachment to mere rites and
rituals.
b) The Once-returner (sakadāgāmi) has weakened the fourth and fifth of the
ten fetters - sensuous craving and ill-will.
c) The Non-returner (anāgāmi) becomes fully free from the above-mentioned
five lower fetters and is no longer reborn in the sensuous sphere before
reaching nibbāna.
d) Through the path of Holiness (Arahatta) one further becomes free of the
last five fetters: craving for fine material existence (in celestial
worlds), craving for immaterial (purely mental) existence, conceit,
restlessness, and ignorance.
3
The thirty-two parts of the body as used in body contemplation are:
haed-hair, body-hair, nails, teeth, skin; nails, teeth, skin, flesh,
sinews; bones, marrow; kidney, heart, liver, diaphragm, spleen; lungs,
intensities, mesentery, stomach, excrement, bile, phlegm, pus, blood,
sweat, lymph, tears, serum, saliva, nasal mucus, synovial fluid, urine,
and brain.
4
Some of these points where the touch sensations may be observed are: where
thigh and knee touch, or where the hands are placed together, or finger to
finger, thumb to thumb, closing of the eyelids, tongue inside the mouth,
lips touching when the mouth is closed.
5
'Taruna-udayabbaya-ñāna — On the degrees of insight knowledge see
'The Progress of Insight' by the
Venerable Mahāsi Sayādaw (Published by The Forest Heritage, Kandy, Sri
Lanka)
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/sangsuot&thuctien.htm