Thiền sư Nhật
Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253),cũng thường được gọi là
Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật. Hiện nay
Thiền tông (Zen) tại Nhật có hai tông thịnh hành nhất là tông Lâm Tế (Rinzai)
và tông Tào Động. Nhờ có giáo sư Daisetz Teitaro Suzuki (1870-1966) viết
nhiều sách bằng Anh ngữ từ khoảng năm 1900 nên Tây phương đã được biết
nhiều về Thiền tông Nhật bản nhưng chủ yếu về tông Lâm Tế. Điều đó cũng
hiểu được là vì Suzuki tu theo tông Lâm Tế và đã chứng ngộ thiền lý năm 27
tuổi, vì vậy ông chỉ chuyên viết về tông Lâm Tế.
Tuy nhiên gần đây
thì tông Tào Động cũng được biết đến vì nhiều thiền sư Nhật đã tới Mỹ để
truyền pháp, mở thiền viện, cùng lúc nhiều tác phẩm của các thiền sư Nhật
thuộc tông Tào Động được dịch ra tiếng Anh.
Hiện nay tông Tào
Động tại Nhật có khoảng 15.000 ngôi thiền viện và 8 triệu Phật tử.
Tại Mỹ: thiền sư
Nhật Soyen Shaku, cùng đệ tử là Nyogen Senzaki đến Mỹ năm 1905. Giáo sư D.
T. Suzuki, đệ tử của Soyen Shaku, đến New York năm 1951 và bắt đầu giảng
về Thiền. Thiền sư tông Tào Động Shunryu Suzuki tới Mỹ năm 1959 và lập
Thiền viện ở
San Francisco.
Tại Việt Nam thì
tông Tào Động được truyền qua từ đầu thế kỷ 17 do thiền sư Thủy Nguyệt,
hiệu Thông Giác (1637-1704) đã từ miền Bắc Việt Nam qua Trung hoa năm 1644
và thọ pháp của thiền sư Trung hoa là Nhất Cú Tri Giáo, đời thứ 35 tông
Tào Động. Sư được ấn chứng là tổ thứ 36 và được phép về Việt Nam truyền
tông Tào Động (HT Thích Thanh Từ: Thiền sư Việt Nam, trang 366).
Lịch sử tông Tào Động
Tông Tào động do
hai thiền sư Trung hoa sáng lập: vị khai tổ là Lương giới Động sơn
(807-869), và đệ tử là Tào sơn Bổn Tịch (840-901). Danh từ Tào động là
gồm hai địa danh Tào sơn và Động sơn nhập lại. Lương giới Động sơn là đệ
tử của Vân nham, thuộc dòng Hành tư Thanh Nguyên là một trong số đệ tử của
Lục tổ Huệ Năng. Trong đời nhà Đường (618-907) thì Thiền tông Trung hoa
chia làm 5 phái thuộc 2 hệ thống khác nhau: hệ thống Nam Nhạc có Lâm Tế và
Quy Ngưỡng, hệ thống Thanh Nguyên có Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn. Trong
sử gọi là Thiền Tông Ngũ Gia. Tông Tào Động sau này còn được gọi là Thiền
Mặc Chiếu (Silent illumination zen, Mokusho zen) do thiền sư Tan hsia Tzu
Chun (Đan Hà Tử Thuần, 1064-1117) khởi xướng. Sau đó tông này không phát
triển mạnh ở Trung hoa vì không có đệ tử nào xuất sắc nổi tiếng. Nhờ có
Dōgen qua Trung hoa thọ pháp và về truyền bá tại Nhật với một đường lối
đặc biệt nên tông Tào Động ngày nay vẫn được phát triển mạnh.
Cuộc đời của Dōgen
Dōgen sanh năm
1200 trong một gia đình quý tộc tại Kyoto, thân phụ của Dōgen là Kuga
Michichika giữ chức vụ quan trọng trong triều đình. Từ nhỏ Dōgen đã tỏ ra
rất thông minh. Mới 4 tuổi Dōgen đã biết đọc những bài thơ bằng chữ Hán,
năm 9 tuổi đã đọc bản tiếng Hán cuốn Abhidharma (Thắng pháp). Cuộc đời khó
khăn vì cha mất khi Dōgen mới lên 2, mẹ mất lúc 7 tuổi. Một người trong họ
là Minamoto, một vị quan trong triều đình, đem Dōgen về nhận là con nuôi
và tính dạy dỗ Dōgen theo con đường khoa bảng để sau này nối nghiệp. Nhưng
vì hoàn cảnh mồ côi sớm đã gây xúc động mạnh khiến Dōgen thấy rõ lý vô
thường nên quyết định xuất gia để tìm hiểu ý nghĩa về vấn đề sinh, tử. Đến
năm 13 tuổi Dōgen xuất gia tại núi Hiei với thiền sư Kōen thuộc tông Thiên
Thai, và được ban cho pháp danh là Buppō-bō Dōgen. Trong khi tu tập Dōgen
vẫn thắc mắc, nghi hoặc với vấn đề: theo các kinh điển thì tất cả chúng
sanh đều có Phật tánh, vậy tại sao phải khổ công tu hành để chứng đạt được
Phật tánh và giác ngộ. Không tìm được sự giải đáp nơi vị trụ trì Kōen nên
Dōgen rời đến thiền viện Mii-deraji với vị trụ trì là Kōin nhưng vị này
cũng không giải đáp được và có khuyên Dōgen đến gặp thiền sư Myōan Eisai (Minh
Am Vinh Tây) tại thiền viện Kenninji (Kiến nhân) ở Kyoto. Thiền sư Eisai
(1141-1215), đã qua Trung hoa và đem tông Lâm Tế về truyền bá tại Nhật,
được coi là vị tổ khai sáng Thiền tông tại Nhật.
Nhờ sự chỉ dạy
của Esai nên Dōgen đã sáng hiểu phần nào nên quyết định ở lại theo học
Eisai. Tiếc thay năm sau thì thiền sư Eisai qua đời. Dōgen tiếp tục ở lại
thiền viện để theo học thiền sư Myōzen (1184-1225) là người kế thừa Eisai.
Nơi đây Dōgen được chỉ dẫn tu tập theo pháp môn tông Lâm Tế và rời bỏ tông
Thiên Thai.
Năm 1223 Dōgen
lúc đó được 23 tuổi, theo thầy Myōzen qua Trung Hoa để tiếp tục tu học.
Trước hết Dōgen đến tu viện Ching-te tại núi T'ien t'ung (Thiên Đồng) thọ
giáo vị trụ trì Wu-chi, thuộc tông Lâm Tế. Ở đó Dōgen đã có nhiều tiến bộ
trong sự học hỏi về Thiền tông, nhưng vẫn chưa hoàn toàn thỏa mãn nên sau
đó lại đi tham vấn nhiều thiền sư khác. Thất vọng về việc đi tìm học đã
lâu mà chưa đem đến kết quả, Dōgen có ý định trở về Nhật thì tình cờ được
biết là vị trụ trì ở T'ien t'ung đã qua đời và vị kế nghiệp là Ju-ching (Thiên
Đồng Như Tịnh, Tendo Nyojo) (1163-1228), vị tổ thứ 13 tông Tào Động, rất
nổi tiếng, nên Dōgen quay trở lại đó.
Thiền sư Ju-ching
tổ chức thiền viện rất là nghiêm chỉnh, đặc biệt chú trọng vào việc ngồi
thiền. Nương theo gương của sư phụ nên Dōgen ngồi thiền chăm chỉ ngày đêm.
Nhờ sự chỉ dạy của Ju-ching nên đã đạt được ước vọng và chứng ngộ, nên
trong các tác phẩm sau này Dōgen luôn ghi nhớ công ơn đó. Sau khi đã được
chứng ngộ Dōgen vẫn còn ở lại đó để tiếp tục tu hành thêm 2 năm nữa.
Năm 1227 Dōgen
quyết định trở về Nhật để truyền bá Thiền tông. Ju-ching chấp thuận việc
đó và có tặng cho Dōgen chiếc áo cà sa của Fu-jung Tao ch'ueh (Phù dung
Đạo giai) (1043-1118), một vị tổ tông Tào Động, và hai cuốn sách nổi tiếng
của tông Tào Động: Pao ching San Mei (Hōkyō Zammai, Bảo cảnh Tam muội) và
Wu wei Hsien chueh (Goi Kenketsu) (Goi: Động sơn ngũ vị) cùng một bức họa
chân dung của mình. (Yokoi, tr. 32)
Sau khi trở về
Nhật Dōgen trở lại thiền viện Kenninji. Ở đó được 3 năm Dōgen thất vọng
thấy tình trạng tu hành của tăng đoàn quá suy thoái so với trước. Sư kể
lại là thấy các tăng ở phòng riêng, đồ đạc sang trọng, quần áo là lượt,
thích nói những danh từ hoa mỹ, còn thì quên cả nghi lễ, chánh pháp. Sư từ
giã thiền viện Kenninji và dọn tới thiền viện An'yō-in.
Sau đó sư dọn tới
thiền viện Kōshōji và lập thiền đường để huấn luyện tăng ni cùng các cư sĩ.
Vì nhu cầu nên sư phải lập thiền đường để có chỗ huấn luyện nhưng sư vẫn
luôn nhắc nhở là việc xây chùa lớn nguy nga không phải đương nhiên là dẫn
tới giác ngộ. Dù ở trong một chòi nhỏ, dưới gốc cây mà có theo hiểu được
lời Phật dạy và hành trì theo đúng pháp thì Phật giáo mới thịnh hành được.
Trong buổi khai mạc thiền đường sư nói là qua Trung Hoa thì sư ngộ được là
"mắt ngang, mũi dọc", "tay không" khi trở về Nhật, sư không đem theo một
cuốn kinh nào.
Trong thời gian ở
thiền viện Kōshōji, Dōgen tiếp tục viết nhiều bài để giảng thêm về Thiền
tông, mặc dầu số đệ tử càng ngày càng đông khiến sư không có nhiều thì giờ
như trước. Ngoài ra tông phái của sư còn bị các tăng của tông Tendai (Thiên
Thai), đang có nhiều thế lực lúc đó, vì ganh tị thấy tiếng tăm, ảnh hưởng
của sư mỗi ngày gia tăng nên kiếm đủ cách để ngăn cản, phá rối tới mức là
ra lệnh phá thiền viện Kōshōji.
Sư và một số đệ
tử phải dời đến một ngôi thiền viện nhỏ là Yoshimine-dera. Nơi đây nhờ sự
bảo trợ của quận trưởng Yoshishige có thế lực và rất sùng bái đạo Phật.
Sau đó ông quận trưởng xây một ngôi thiền viện vĩnh viễn cho sư trụ trì,
đó là thiền viện Daibutsu, mà sau đó được đổi tên là thiền viện Eiheiji (Vĩnh
Bình, Eternal Peace) là một trong hai tổ đình của tông Tào Động và cũng là
ngôi chùa Thiền tông được coi như lớn nhất của Nhật.
Sư mất năm 53
tuổi tại
Kyoto vào
ngày 28 tháng 8 năm 1253.
Tiến trình tu hành của Dōgen
Từ khi xuất gia
năm 13 tuổi cho tới khi được tiếp xúc với tông Tào Động, sư đã chuyển đổi
từ tông Thiên Thai qua tông Lâm Tế, nhưng mối "đại nghi" (great doubt) của
sư về Phật tánh (busshō, buddha-nature) vẫn chưa được giải đáp. Sư tự hỏi
theo kinh điển Đại thừa thì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng tại
sao phải tu hành khó khăn, khổ hạnh để đạt được giác ngộ. Như vậy dường
như có sự mâu thuẫn giữa cái sẵn có, bẩm sanh, với sự chứng đắc. Với sự
thành tâm quyết tìm cho được câu giải đáp sư đã hết lòng đi nhiều nơi để
mong gặp được vị "chân sư" (shōshi, authentic teacher) mà sư cho là cần
thiết để đạt mục đích. (Trong những tác phẩm sau này, sư luôn nhấn mạnh
đến vai trò của vị chân sư. Sư lấy ví dụ như có khúc gỗ quý nhưng nếu
không có người điêu khắc giỏi thì không thể có được một pho tượng tốt).
Điểm đại nghi của
Dōgen phần nào được sáng tỏ khi Esai, vị sơ tổ tông Lâm Tế Nhật giảng: "Tất
cả chư Phật ba thời đều không thấy là mình có Phật tánh, nhưng mèo, bò đều
thấy là chúng có Phật tánh". (Yokoi, tr. 28)
Nhờ có Esai khai
mở nên Dōgen thấy được con đường tu tập. Cũng nên ghi là Esai hai lần đi
Trung hoa mới thành công và được ấn chứng, trở nên sơ tổ tông Lâm Tế tại
Nhật. Sau khi Esai tịch thì Dōgen ở lại tu viện để tiếp tục theo học
Myōzen là người kế thừa của Esai. Dōgen rất kính phục Myōzen và chăm chỉ
tu tập theo pháp tu của tông Lâm Tế, nhưng vẫn chưa thỏa mãn trong việc
giải đáp mối đại nghi.
Khi qua Trung Hoa
sư may mắn gặp được thiền sư Ju-ching, một vị tổ tông Tào Động. Mặc dầu sư
là người Nhật nhưng sư được Ju-ching thương mến và hết lòng chỉ dậy. Ngay
ngày đầu tiên khi được yết kiến Ju-ching, sau khi trình bày sở nguyện của
mình sư đã được Ju-ching chấp nhận vào thiền viện. Sư cho đó là điều hết
sức may mắn nhờ phước đức từ kiếp trước. (Takashi, tr. 53). Ju-ching còn
đặc biệt cho phép sư được tham vấn bất cứ lúc nào. Sư coi đó là một bậc
chân sư mà sư ao ước được gặp từ khi có đại nghi.
Pháp tu của
Ju-ching chủ yếu là shikantaza (just sit, singleminded intense sitting,
nhất tâm chuyên chú tọa thiền). Dōgen viết:" Ju-ching dạy:"Học thiền với
một vị thầy là buông xả thân và tâm (drop the body and mind); đó là tọa
thiền chuyên chú, nhất tâm, không có thắp nhang, thờ cúng, niệm Phật, sám
hối, tụng kinh" (Takashi, tr. 58). Mặc dầu đã ngoài 60 tuổi, Ju-ching vẫn
tọa thiền cho tới hơn 11 giờ đêm và thức dậy 2 giờ rưỡi hoặc 3 giờ để tiếp
tục tọa thiền, mỗi đêm như vậy, không thiếu đêm nào. Những thiền sinh nào
mà ngủ gật trong khi tọa thiền thì bị Ju-ching thẳng tay đánh đập và trừng
phạt. Kỷ luật tại thiền viện này nổi tiếng là nghiêm ngặt so với những
thiền viện khác,
Một buổi sáng sớm
trong khi đi kiểm soát trong giờ thiền Ju-ching thấy một thiền sinh ngủ
gật nên rầy: "Việc tu tập tọa thiền (zazen) là phải buông xả thân và tâm.
Nay ngươi ngủ gật như vậy thì để đạt được gì?" Dōgen nghe thấy vậy thì tức
thời đại ngộ. Dōgen đi tới thất của Ju-ching thắp nén hương và qùy trước
mặt Ju-ching để trình kiến giải và được ấn chứng. Đó là vào năm 1225.
Trong một buổi lễ Ju-ching chánh thức trao cho Dōgen giấy chứng nhận ấn
chứng việc truyền pháp của tông Tào Động. Sau khi được ấn chứng, sư ở lại
thêm 2 năm để tiếp tục tu tập rồi mới trở về Nhật.
Sư kể lại: "… sau
khi tu học với sư phụ Ju-ching tôi đã ngộ rằng đôi mắt nằm ngang và mũi
dọc, không còn bị ai lừa nữa". Sư nói:
"Gần đây tôi trở
về quê nhà với hai bàn tay không.
Và như vậy sơn
tăng này không có Phật pháp."
(trích
Eihei-koroku (Vĩnh Bình quảng lục), tập 1, do Okumura & Leighton dịch)
Theo tác giả
Takashi, việc trở về "tay không" có nghĩa là Dōgen tin rằng mình đã thể
nhập được Phật pháp sau khi đã được sư phụ truyền pháp nên khỏi cần đến
các kinh sách. Chánh pháp đó đã được truyền từ đức Phật Thích Ca, qua các
vị Tổ rồi đến Dōgen.
Công cuộc hoằng pháp
Sau khi đã ngộ
đạo từ Trung Hoa về thì Dōgen trở lại thiền viện cũ là Kenninji, ở đó 3
năm và bất đầu công cuộc hoằng pháp.
Trước hết sư viết
bài Fukanzazengi (A universal recommendation for Zazen, Phổ khuyến tọa
thiền nghi). Trong đó sư giảng rất chi tiết về việc tọa thiền, từ lý do,
mục đích đến cách thực hành. Sư nhắc lại việc đức Phật Thích Ca đã ngồi
thiền trong 6 năm, còn tổ Bồ Đề Đạt Ma quay mặt vào vách ngồi thiền trong
9 năm, vậy mà các hành giả chỉ chạy theo ngôn ngữ để có kiến giải tri thức
thôi thì làm sao chứng đắc được. Phải tọa thiền mới có thể đạt tới giác
ngộ viên mãn. Đó là sự hiển lộ của thực tại tối thượng.
Sau đó Dōgen dời
về thiền viện An'yō-in và bắt đầu viết tác phẩm Shōbōgenzō. Một lần nữa
Dōgen dời về thiền viện Kōshōji. Số tăng chúng và cư sĩ theo học rất đông
nên sư phải khởi công xây cất thiền đường. Nhân dịp này sư thảo nội quy về
thiền đường rất kỹ lưỡng. Bản nội quy này có 20 điều, sau đây là vài điểm
đặc biệt: - không ra khỏi thiền viện, trừ khi có điều khẩn cấp, - không
đọc sách, kể cả những sách về Thiền tông, - không nói xấu người khác,
không tìm lỗi người khác, - không mang tràng hạt, - không đọc và tụng kinh.
Trong số đệ tử
của sư có những vị đặc sắc là Ejō, Sōkai, Sen'e, Ekan, Gikai, Giin, Gien,
Gijun. Đặc biệt là Koun Ejō (Cô Vân Hoài Trang) (1198-1280) rất thân cận
với sư, vị này sau này đã có công trong việc thâu thập những ngữ lục của
sư và làm cuốn Shōbōgenzō Zuimonki. Sau đó Ejō phụ giúp Dōgen trong việc
xây dựng thiền viện Eiheiji và được cử làm phó trụ trì và khi Dōgen tịch
thì Ejō được cử là vị tổ thứ 2.
Sau này người nổi
tiếng sau Dōgen là vị tổ thứ tư Taiso Keizan (Oánh Sơn Thiệu Cẩn), người
đã xây dựng ngôi thiền viện Sojiji, lớn thứ nhì của tông Tào Động.
Trong thời gian
10 năm ở thiền viện Kōshōji, Dōgen được coi như đạt tới đinh cao nhất
trong cuộc đời tu hành của sư. Tại đó sư đã sáng tác được nhiều tác phẩm
chánh của mình, và đã truyền bá pháp Thiền đem từ Trung Hoa về và thêm vào
những đường lối tu hành độc đáo của sư để tạo dựng nên tông phái Sōtō đặc
biệt của Nhật bản. Thiền viện Kōshōji được xây dựng theo một kiến trúc
khác hẳn, và tổ chức sinh hoạt cũng đặc biệt và nghiêm ngặt hơn các thiền
viện khác. Số đệ tử tăng lên rất nhiều, ngoài ra sư rất chú ý tới việc
giảng dậy cho các cư sĩ nữa.
Dōgen tiếp tục
hoàn tất cuốn Shōbōgenzō (Chánh pháp nhãn tạng), tác phẩm lớn nhất và quan
trọng nhất của sư. Cuốn này được viết bằng tiếng Nhật, là điều đặc biệt vì
thời đó các tài liệu Phật pháp khác đều viết bằng chữ Hán. Cuốn này gồm 95
chương, gồm các bài viết theo từng chủ đề khác nhau, chứ không phải là một
tài liệu thống nhất. Văn pháp của sư rất linh hoạt, sâu sắc, tự nhiên và
hấp dẫn nên được các giới Phật học cũng như văn học khen ngợi.
Đến năm 1243 sư
và một số đệ tử rời Kōshōji đến vùng Echizen, một vùng hẻo lánh miền bắc.
Việc rời đi đó khá đột ngột và gây ra thắc mắc cho các học giả sau này đã
đưa ra nhiều luận đoán và giả thuyết khác nhau. Tại nơi này sư đã xây dựng
nên thiền viện Eiheiji, và sư thường tự xưng danh trong các bài viết với
tên Eihei, cho nên sau này sư được kêu là Eihei Dōgen. Theo đúng chủ
trương của sư phụ Ju-ching nên sư không muốn liên lạc với các quan chức
triều đình. Tuy vậy đến năm 1247 sư lại nhận lời mời của Hōjō Tokiyori,
một vị võ quan trong triều đình, và đến Kamakura, gần Tokyo hiện nay, để
giảng dạy về Phật giáo. Sau một thời gian ở đó sư thất vọng nên sớm trở về
thiền viện.
Theo Heinrich
Dumoulin, giáo sư người Đức đã nghiên cứu kỹ về lịch sử Thiền Tông, thì đó
là bắt đầu thời kỳ "suy giảm" của Dōgen. Không rõ vì lý do gì nhưng những
bài viết sau này cho thấy có sự thay đổi về quan điểm của sư về một số
vấn đề. Thí dụ như lúc trước sư rất khen ngợi về tông Lâm Tế mà sư chứng
kiến khi đi tu học ở Trung Hoa, trong đó có thán phục về thiền sư Đại Huệ
Tông Cảo (1089-1163). Nhưng sau đó sư lại viết nhiều bài chỉ trích mạnh mẽ
Đại Huệ. Lúc trước sư chủ trương cởi mở và cho rằng các cư sĩ và phái nữ
đều có thể thành đạo được, nhưng sau đó sư lại chủ trương chỉ có những
người xuất gia mới có thể thành đạo được. Đó là vài thí dụ mà các học giả
đã đưa ra để kết luận là thời kỳ ở Echizen chứng tỏ có sự thay đổi quan
điểm của sư theo chiều hướng suy giảm so với sự phát triển mạnh mẽ trong
thời kỳ sư còn ở Kōshōji.
Những tác phẩm của Dōgen
Nhiều bài giảng
pháp của Dōgen đã do chính Dōgen viết hoặc do các đệ tử ghi lại vào khoảng
120 bài ghi trong 8 tác phẩm chánh. Những tác phẩm của Dōgen được coi là
xuất sắc trong nền văn học Phật giáo và cả ngay trong nền văn học Nhật bản.
Sau đây là một số tác phẩm thường được nhắc tới:
-Shōbōgenzō (True
Dharma Eye Treasury, Chánh pháp nhãn tạng).
-Shōbōgenzō
Zuimonki (Chánh pháp nhãn tạng tùy văn ký),
-Shōbōgenzō
sambyakusoku (Chánh pháp nhãn tạng tam bách tắc)
-Hōkyō ki, cuốn
nhật ký ghi chép những lời dạy của Ju-ching trong thời kỳ sư đi tầm đạo
tại Trung hoa 1225-1227.
-Tenzō kyōkun (Điển
tọa giáo huấn, Instructions for the Cook)
-Eiheiji kōroku (Vĩnh
Bình quảng lục), cũng được gọi là Ðạo Nguyên Hòa thượng quảng lục (Dōgen
ōshō kōroku).
Dōgen là vị thiền
sư Thiền tông viết nhiều nhất, khác hẳn các thiền sư khác thường viết vắn
tắt, hoặc chỉ do các đệ tử ghi lại. Sư thường tự tay viết các bài giảng
trước khi trình bày cho đệ tử hoặc quần chúng. Điểm đặc biệt là cách hành
văn của sư thường dùng các từ ngữ thời đó, thêm vào việc sư rất chú ý vào
việc giảng dạy kỹ lưỡng, như những bài triết học nên sau này việc phiên
dịch rất là khó khăn và khó hiểu. Cũng vì tự tay viết nên tùy thời kỳ tiến
triển giảng dạy, sư có khuynh hướng sửa đổi các bản viết, cho nên có bài
viết mà lại có nhiều bản khác nhau, đôi khi có ý tưởng đối chọi nhau,
khiến cho các học giả sôi nổi bàn cãi.
Tuy vậy các học
giả đều thán phục và công nhận tài năng về Phật học cũng như về văn hóa
của sư. Thomas Cleary, người đã dịch rất nhiều tài liệu về Phật giáo ra
tiếng Anh, đã viết là cuốn Shōbōgenzō là một tuyệt tác không những ở Nhật
mà "cùng đứng hàng đầu với các tác phẩm văn chương toàn thế giới". (trích:
Rational Zen- The Mind of Dōgen Zenji). Heinrich Dumolin, học giả người
Đức viết rất nhiều sách về Phật học, đã viết: "Đọc cuốn này người ta phải
ngạc nhiên nhận thấy rằng Dōgen luôn giữ được một ý chánh là nhìn được mọi
vật 'như là đức Phật nhìn' (butsu no kata yori), một thành quả đạt được
khi tọa thiền. Từ cái nhìn này nên mọi mỗi khía cạnh của đời sống được
nhìn rõ - từ những việc ở đời sống thường ngày, việc tu Thiền, khung cảnh
thiền viện, Phật pháp, lễ nghi cho đến cả thực tại tuyệt đối.", "Những bài
viết của sư về Phật giáo và lịch sử tôn giáo đã được nhiều triết gia Tây
phương say mê. Tư tưởng của sư được so sánh với Heidegger. Dù so sánh thế
nào thì Dōgen vẫn hoàn toàn đứng vai Phật tử và cũng là một nhà nghiên cứu
trọn vẹn." (trích "Zen Buddhism: A History- Japan).
Shōbōgenzō (Chánh pháp nhãn tạng)
Tác phẩm này được
coi là quan trọng nhất trong việc học hỏi hoặc tìm hiểu về Dōgen. Tác phẩm
này gồm những bài do Dōgen viết về những bài pháp mà sư giảng cho các đệ
tử hoặc cho những buổi thuyết trình cho các giới. Đây không phải là tác
phẩm trình bày thứ lớp, liên kết, có hệ thống, mà là những đề tài riêng
biệt của mỗi lần thuyết pháp ở những thời điểm khác nhau, và có thể ở
những trạng thái tinh thần khác nhau nữa.
Điểm khó khăn
trong việc nghiên cứu cuốn Shōbōgenzō là có nhiều bản khác nhau. Bản được
xử dụng nhiều nhất là bản có 95 chương. Bản này được thảo ra vào đời
Genroku (1688-1703) và được khắc gỗ năm 1816. Như vậy tức là bản này xuất
hiện sau thời Dōgen hơn 500 năm. Những bản khác đều là chép bằng tay. Sau
này ngưòi ta lại phát hiện ra bản 75 chương mà các học giả cho là chính
Dōgen tự tay viết bản này. Cuộc bàn cãi vẫn còn tiếp tục vì có ý kiến lại
cho rằng bản 12 chương mới là đích thực của Dōgen. Đó là 3 bản chánh được
bàn cãi nhiều nhất. Còn có những bản khác nữa, như là 12, 28, 60 84, 87,
88 chương. Đó là chưa kể đến việc lúc cuối cuộc đời Dōgen đang sửa lại
cuốn này thành 100 chương mà chưa hoàn tất. (Trích: Gudo Wafu Nishijima,
Understanding the Shōbōgenzō, 1992). Nay số đông thường dùng bản 95 chương
làm tài liệu chánh.
Việc tìm đọc cuốn
Shōbōgenzō rất là khó khăn, xin tạm dùng việc nghiên cứu của giáo sư
Nishijima để tóm tắt, người tự nhận đã nghiên cứu cuốn này hơn 50 năm.
Cuốn này có thể chia làm 4 đề tài:
1. Tâm: những
chương liên quan đến tâm, lý thuyết, tư tưởng, tôn giáo. (gồm 23 chương)
2. Cảnh: vật thể,
thiên nhiên, ngoại cảnh, không gian. (gồm 26 chương)
3. Hành: sự đồng
nhất giữa thân và tâm, giữa tâm và vật, hiện tại, hành động. (gồm 27
chương)
4. Thực tại
(reality): sự phức tạp của thực tại, biểu tượng của thực tại. (gồm 19
chương)
Theo giáo sư
cuốn này trình bày triết lý về thực tại, đó là một vấn đề không thể thực
hiện được vì Thực tại không thể dùng tri thức để đạt hay diễn tả được,
nhưng Dōgen đã làm được việc này.
Pháp tu của Dōgen
Tọa thiền
Dōgen cho rằng
chủ yếu trong việc tu hành của đạo Phật là tọa thiền. Tuy vậy phép tọa
thiền của sư khác hẳn với phép tọa thiền của các tông phái khác trong đạo
Phật, kể cả các tông phái khác trong Thiền tông.
Sư luôn nhắc nhở
các đệ tử là trong việc tu hành thì tọa thiền (zazen) là điều quan trọng
nhất. Sư dạy: "Phật pháp đã được trực tiếp truyền thừa từ các đức Phật và
các Tổ là shikantaza." Sư dùng danh từ Shikantaza để phân biệt pháp tọa
thiền của Thiền Tào Động với các pháp Thiền khác. (shikantaza' (祇管打坐,
just sitting) "Shikan" có nghĩa là "chỉ có" được dịch ra tiếng Anh là
"just" hoặc "nothing but". (Shikantaza= just sitting). Danh từ này được
dịch ra tiếng Việt là "Chỉ quản đả tọa" (Chân Nguyên, trang 90).
So sánh giữa
shikantaza và thiền "mặc chiếu" của Trung hoa
"Mặc" có nghĩa là
yên lặng (silent). "Chiếu" có nghĩa là giác ngộ (illuminate, enlightened
state, satori). Pháp này có 3 đặc tánh: 1- nhấn mạnh về "tự tánh thanh
tịnh", theo như lời dạy của Lục tổ Huệ Năng, 2- không có vấn đề chứng đắc,
3- nhấn mạnh tọa thiền là pháp hành của vị Phật bẩm sanh. (Kiyozumi Ishii,
trang 2)
Dōgen cũng theo
đúng đường hướng đó, nhưng cho rằng một số người đã hiểu lầm thiền Mặc
Chiếu và cho rằng như vậy không cần phải tu tập gì cả. Trong bài
Fukanzazengi (Phổ khuyến tọa thiền nghi) sư nhấn mạnh việc tọa thiền là sự
hiển lộ của thực tại tối thượng. Ngay khi tọa thiền thì chánh pháp tự hiển
lộ.
Trong cuốn
Bendōwa (Biện đạo thoại) Dōgen giải thích kỹ lưỡng hơn nữa về pháp tọa
thiền. Cuốn này gồm 18 câu hỏi-đáp. Về câu hỏi tại sao Phật pháp có nhiều
phương pháp tu hành mà nay sư cho là chỉ có tọa thiền là chân pháp. Sư đáp:
"Đức Thích Ca đã truyền diệu pháp này để tu hành đạt đạo, và các đức Như
Lai ba đời (quá khứ, hiện tại và vị lai) cũng đạt đạo do tọa thiền. Cho
nên nói đó là chánh pháp. Ngoài ra các tổ từ Ấn Độ và Trung hoa cũng đạt
đạo do tọa thiền." Cuốn sách đó ghi tiếp: "Quan niệm rằng chỉ cần lên
tiếng, với cái lưỡi cử động mà cho rằng có thể sánh được công đức hành trì
của đức Phật thì thật là việc không có nghĩa lý, còn xa, rất xa với Phật
pháp", "muốn đạt đạo bằng cách tụng cả triệu lần thì cũng vô ích như muốn
đi về phương nam mà xe lại hướng đi về phương bắc", "Cho rằng hành trì và
chứng ngộ là hai việc riêng biệt thì đó là cái nhìn của ngoại đạo. Trong
Phật pháp, hành trì và chứng ngộ là một và như nhau", "Phật pháp đã chỉ rõ
rằng thân và tâm là một, thể và tướng không hai".
Trong chương
Genjōkōan (được dịch theo ý là: spontaneous relization, đốn ngộ) thuộc
cuốn Shōbōgenzō, Dōgen tóm tắt: "Hành Phật đạo là phải biết rõ mình. Biết
rõ mình là phải quên mình. Quên mình là phải ngộ được muôn pháp. Ngộ được
muôn pháp là phải buông xả thân và tâm mình và người." (Yasutani dịch)
Thiền sư
Keizan
(Oánh Sơn, 1268-1325), vị tổ thứ tư tông Tào Động Nhật, trong bài "Tọa
thiền dụng tâm ký" viết rất rõ ràng về pháp tọa thiền này:
"Nay tọa thiền
chính là vào biển Phật tánh, tức là nêu bày cái thể chư Phật, cái diệu
tịnh minh tâm sẵn có được hiện tiền.
Chư Phật vì một
đại sự nhân duyên xuất hiện ra đời là chỉ thẳng chúng sanh mở bày ngộ nhập
tri kiến Phật. Cái diệu thuật để được tri kiến Phật là tọa thiền. Tọa
thiền tức là cái tam muội chư Phật tự thọ dụng, cũng gọi là tam muội vua
tam muội.
Phật nói: "Nghe (văn),
suy nghĩ (tư) như ở ngoài cửa, toạ thiền chính là trở về ngồi an ổn trong
nhà". Thật vậy, nếu nghe, suy nghĩ các kiến giải chưa dứt, tâm địa còn
ràng buộc, cho nên như ở ngoài cửa, chỉ có tọa thiền bỏ hết tất cả không
còn chỗ nào chẳng thông, nên tợ người trở về ngồi an ổn trong nhà.
Buông bỏ tâm ý
thức, dứt hết niệm tướng quán, chớ mong làm Phật, đừng nghĩ thị phi, khéo
gìn giữ quý tiếc ngày giờ như cứu lửa cháy dầu.
Không dùng thắp
hương, lễ bái, niệm Phật, tu sám, xem kinh, trì tụng, chỉ chú trọng tọa
thiền là đủ." (HT Thích thanh Từ, "Thiền đốn ngộ")
Sau đây là một
bài viết của thiền sư Kōshō Uchiyama (1912- ), trích trong cuốn
"Nothing is hidden" của Jisho Warner.
"Shikantaza có
nghĩa là "chỉ có" tọa thiền. Nhưng thực sự chúng ta thực hành như thế nào
khi tọa thiền?
Chữ "tâm" (Nh:
shin) là cả một vấn đề, tùy theo chúng ta hiểu nghĩa chữ này thế nào thì
việc hành thiền như vậy. Trước hết "tâm" thường được hiểu như là cái tâm
của tâm lý hoặc ý thức (citta). Khi hiểu như vậy thì "tập trung tâm vào
cái gì" có nghĩa là hướng tất cả tâm vào cái đó. Pháp thiền của ngoại đạo
và các tông phái ban đầu của đạo Phật đều hành như vậy. Tâm của chúng ta
lúc nào cũng rối loạn và hành giả dùng pháp đó để làm cho tâm yên tĩnh.
Dōgen nói rõ là
pháp tọa thiền này không phải là để kiềm chế tâm. Dōgen nói: " Tổ dạy rằng
thà để tâm như con cáo xảo trá còn hơn là dẫn dắt nó vào con đường chật
hẹp của việc kiềm chế".
Tâm này là cái
tâm đã được truyền thừa rõ rệt từ đức Phật: "một tâm là muôn pháp và muôn
pháp là một tâm". Tâm và pháp là một, chứ không phải như các phương pháp
tập trung, kiềm chế để trở thành vô tâm hay vô niệm như người ta thường
dùng.
Vì vậy khi nghĩ
rằng phải kềm, dẹp tất cả ý nghĩ khởi lên lúc hành thiền thì đó không phải
là phép tọa thiền của Dōgen. Rõ ràng khi ý nghĩ khởi lên và ta chạy theo
chúng thì không phải là tọa thiền. Ngay khi chúng ta cố gắng để ngăn chặn
không cho tâm khởi nghĩ thì cũng chỉ là ý thức tác dụng, đó cũng không
phải là tọa thiền. Chúng ta không chạy theo tâm đó, cũng không dụng trí để
dẹp bỏ chúng, nhưng chỉ để chúng tự do nổi lên và tự do tan biến. Chúng ta
nhìn tất cả như quang cảnh về thực tại của đời sống.
Chúng ta là sinh
vật có bộ óc. Như vậy khi tọa thiền những ý nghĩ sanh rồi diệt chỉ là điều
tự nhiên. Đó chỉ là sự hoạt động của bộ óc.
Khi tọa thiền,
tâm không còn bị ràng buộc vào bất cứ sự tác ý nào, ngay cả những ý nghĩ
như "tôi muốn giác ngộ", "tôi muốn an định tâm" … "
Thiền sư
Sekkei Harada
(1926- ), vị trụ trì thiền viện Hosshinji, trong cuốn: "The essence of
Zen" viết:
" "Không can
thiệp vào sự hoạt động của tâm" có nghĩa là để cho những cảm xúc hư huyễn,
những vọng tưởng, những quan niệm về tốt và xấu, đúng và sai … tự chúng
trôi chảy tự nhiên. Đừng can thiệp vào những ý nghĩ vì chúng chỉ là sự
hoạt động tự nhiên của tâm (bộ óc).
" Thiền là quán
tâm. Tâm thì luôn luôn chuyển động. Hoạt động đó là chức năng của tâm. Như
vậy có nghĩa là một sai lầm lớn nếu ai muốn dùng ý chí để chận đứng hoạt
động tự nhiên đó. Không có lý do để làm cho tâm trơ như cây, như đá. Cần
thiết là để cho tâm hoạt động theo chức năng của nó (as-it-is), tức là để
cho nó trôi chảy liên tục.
" Tôi thấy rằng
có nhiều người sẽ nghĩ như vậy: "Ta phải ngưng mọi ý nghĩ" và họ gắng để
ngăn chặn mọi ý nghĩ khởi lên. Đó là điều lầm lẫn lớn. Họ đang ngăn chặn
dòng lưu chuyển tự nhiên của các pháp. Đừng có cho rằng phải ngăn chặn mọi
ý nghĩ. Khi tác ý: "Không nghĩ, không nghĩ" thì đã mất cái bản chất tự
nhiên rồi.
"Thiền không phải
là hữu niệm hay vô niệm."
Dōgen giải thích
thêm về lý do tọa thiền:
"Nếu các ông chỉ
biết quán Phật pháp bằng "tâm" thôi thì dù cả ngàn kiếp sống có thể chứng
ngộ được không? Nhưng nếu các ông buông xả tâm và từ bỏ những tri thức,
hiểu biết thì có thể chứng ngộ được. Những người đã chứng đạo khi nhìn
thấy hoa nở, hoặc nghe tiếng đá chọi vào cây đều chứng ngộ do nơi "thân".
Vì vậy nếu các ông buông xả hoàn toàn các ý nghĩ và khái niệm trong tâm và
chỉ chú tâm vào tọa thiền thì sẽ tiến xa trong việc tu đạo. Việc chứng ngộ
thật sự chỉ đạt được với "thân". Các ông cần chú ý vào tọa thiền." (Masunaga,
tr. 47)
Dōgen luôn nhắc
nhở là việc tọa thiền là cách tu hành tốt nhất để theo đúng với chánh
pháp của đức Phật. Pháp tọa thiền của sư có điểm đặc biệt là phải thấy rõ
việc tu tập và giác ngộ là một, không thể nói tu tập "để được" giác ngộ.
Tính "như nhau" giữa tu tập và giác ngộ là điều không thấy ở các pháp môn
khác trong đạo Phật. Hiểu được đặc điểm này mới hiểu được tại sao tông Tào
động Nhật đã đặt trọng tâm vào việc toạ thiền. Dōgen đã căn cứ vào kinh
điển, đã thực chứng và nhấn mạnh vào tính bản nguyên của sự giác ngộ, của
Phật tánh. Sư coi điều đó là căn bản cho sự tu hành. Sư viết một bài rất
dài (chương Phật tánh) trong cuốn Shōbōgenzō để giải thích rõ về vấn đề
này. Việc tu hành không phải là phương tiện để đạt cứu cánh là giác ngộ.
Nếu cho rằng việc giác ngộ chỉ đạt được sau khi tu hành thì không thể nói
đó là bản nguyên được. Sư nhắc lại đó là cái "bản lai diện mục" (original
face), cái tự tánh mà tổ Huệ Năng nói trong Pháp Bảo Đàn Kinh, cũng còn
được gọi là Phật tánh.
***
Tài liệu trích
dẫn:
- Thích thanh Từ,
"Thiền sư Việt Nam".
- Thích thanh Từ,
"Thiền đốn ngộ", Phật học viện quốc tế, 1984
- Chân Nguyên &
Nguyễn tường Bách, "Từ điển Phật học", 1999
- Takashi James
Kodera, "Dogen's Formative Years In China", Routledge & Kegan Paul, 1980
- Takashi James
Kodera, "The Buddha-nature in Dōgen's Shōbōgenzō". Japanese Journal of
Religious Studies, 4 December 1977.
- Yūhō Yoki, "Zen
Master Dōgen- An introduction with selected writings", Weatherhill, 1976
- Heinrich
Dumolin, "Zen Buddhism: A History- Vol. 2: Japan", Macmillan Publishing
Company, 1990
- Jisho Warner,
ed. "Nothing Is Hidden", Weather Hill, 2001
- Reihō Masunaga,
"A Primer of Sōtō Zen- A Translation of Dōgen's Shōbōgenzō Zuimonki", An
East-West
Center Book, 1971
- Hakuun Yasutani,
"Flowers Fall - a commentary on Zen master Dōgen's Genjōkoan", Shambala,
1996
-Kiyozumi Ishii,
"What Kind of Zen Did Dogen Create from Chinese Chan?"
- Sekkei Harada,
"The Essence of Zen", Kodansha International, 1993
-Hiện nay hệ
thống Sōtō-zen có mặt tại nhiều nơi trên thế giới, riêng tại Mỹ có khoảng
40 Trung tâm.
(danh sách đầy đủ
tại:
http://www.sotozen-net.or.jp/kokusai/e_jiin.htm ).
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/thiensu_dogen.htm