Một trong những thiền viện có
số lượng người Việt tu tập đông nhất, đó là thiền viện Shwe Oo Min. Người
viết có dịp đến đây thiền tập một thời gian trước khi tạm giã từ đất Miến
!
1. ĐỊA ĐIỂM
Thiền viện nằm khuất trong một
góc làng. Phía sau là đồng ruộng. Từ đường lộ vô tới thiền viện mất khoảng
5 - 7 phút taxi. Mặc dầu khu vực nông dân nghèo khổ, nhưng vì thiền viện
Shwe Oo Min và các thiền viện khác ở Miến không những được chính quyền tạo
điều kiện thuận lợi, được nhân dân địa phương ủng hộ, mà còn được cả Phật
tử hải ngoại hỗ trợ nữa, nên đường dẫn vào các thiền viện đều được tráng
nhựa cả.
Tên của thiền Viện được dịch
sang Việt ngữ là Thiền Lâm Pháp Lạc Shwe Oo Min (Shwe Oo Min
Dhammasukha Forest Centre).
Mọi người đều gọi là thiền viện Shwe Oo Min, vì diện tích đất cũng vừa
phải, dung chứa từ 250 – 300 thiền sinh. Phía sau là đồng ruộng, không
cây cối, nên vào mùa đông, mùa mưa thì mát, nhưng vào mùa hè khá nóng vì
gió nóng thổi vào !
Thiền viện nằm cách thủ đô
Yangon không xa mấy. Đi xe taxi mất khoảng 45 phút đến một tiếng. Đi một
vòng trả khoảng 5 – 7 Mỹ kim. Cây cối của thiền viện cũng đang lớn dần với
năm tháng kể từ khi thiền viện khởi công xây dựng từ năm 1996 – 1997, khi
Hoà Thượng (HT) thiền chủ Shwe Oo Min ra hướng dẫn thiền tập cho tới nay.
2. THIỀN SƯ SHWE
OO MIN
Tiểu sử vắn tắt của HT được
khắc trên bia trong phòng thờ Ngài, nơi trước kia Ngài đã ở và hướng dẫn
thiền tập vào những năm tháng cuối đời. Tôi được nghe kể lại, cốc Ngài ở
lúc bấy giờ đơn giản đến mức thiền sinh học Pháp với Ngài đều cảm thấy khó
chịu. Bởi vì tiện nghi sinh hoạt của thiền sinh tương đối đầy đủ, trong
khi Ngài sống quá đơn giản, nếu không muốn nói là thanh bần. Sau nhiều lần
thưa thỉnh, cuối cùng Ngài mới cho xây dựng phòng cho Ngài, và chính nơi
tịnh thất này, Ngài đã xả báo thân. Khi thiền sinh mới tới, phần lớn đều
được hướng dẫn tu một tiếng đồng hồ tại tịnh thất của Ngài, xem như là để
tưởng niệm ân đức của Ngài.
Rất tiếc, tôi không có ghi lại
tiểu sử của HT, nên không nhớ hết để viết lại cụ thể. Bây giờ ngồi đây
không có nguồn tài liệu nào để tham khảo cả, chỉ nhớ loáng thoáng và ghi
lại vài điểm chính của đời Ngài.
HT Shwe Oo Min xuất gia còn rất
nhỏ. Lớn lên theo học thiền với HT Mahāsi Sayādaw, sau đó được HT giao
trách nhiệm hướng dẫn thiền tập khi tuổi đời mới ba mươi mấy. Sau khi cống
hiến khoảng 10 năm, HT mới về trú trì một chùa rất nhỏ và chuyên tu ở đó.
Sau một thời gian Ngài lại đổi hướng, vô trong núi tịnh tu mấy mươi năm
liền. Đến khi tuổi đời đã lớn, cỗ xe tứ đại sắp rã, Ngài vì thương tưởng
chúng sanh mà khởi Đại Bi Tâm ra mở trường Thiền dạy Đạo, khi ấy tuổi Ngài
đã gần 80!
Trong vòng mấy năm ngắn ngủi mà
mọi cơ sở vật chất đều xây dựng gần như hoàn chỉnh. Ngoài ra, Ngài còn đào
tạo và lót đường cho một vị đệ tử kế thừa cho sự nghiệp của Ngài nữa. Đến
khi duyên trần mãn, Ngài nhẹ nhàng xả bỏ báo thân vào ngày 20 tháng 11 năm
2002. Quả thật, từ lúc Ngài ra hành đạo đến khi xả bỏ báo thân nhanh quá,
như lằn chớp, như tiếng sét trên không rồi vụt tắt, để lại vô vàn kính
ngưỡng và quý mến cho bao học trò đệ tử và thiền sinh đã một lần có duyên
diện kiến, học Thiền với Ngài !
3. THIỀN SƯ U
TEJANIYA
Thiền Sư kế nghiệp HT viện chủ
Shwe Oo Min, hướng dẫn thiền sinh tu tập tại thiền viện hiện nay là Thiền
Sư U Tejaniya. Thiền Sư còn tương đối trẻ so với các vị Thiền Sư ở Miến.
Toàn bộ câu chuyện sau đây của Thiền Sư, tôi được nghe từ các vị Việt Nam
ở đó kể lại. Khi HT Shwe Oo Min bắt đầu ra hành đạo, và tìm một người đệ
tử nối pháp. Trong số đệ tử xuất gia và tại gia học thiền với Ngài, Ngài
lại tâm đắc một nam cư sĩ tại gia đã lập gia đình và có con nhỏ, đó là
Thiền Sư U Tejaniya hiện nay. Sau một thời gian ngắn, nhận thấy học trò
mình có nhân duyên thiền tập lâu đời, và có khả năng hướng dẫn thiền sinh,
Ngài mới khuyên U Tejaniya từ bỏ đời sống gia đình, sống đời sống xuất gia
giải thoát. Hai Thầy Trò đã từng có thời gian thiền tập chung trong núi
khoảng một năm.
Ngài vốn gốc người Hoa, nên
khuôn mặt rất giống người Trung Quốc. Sau khi nếm trải được mùi vị Thiền,
Ngài mới bắt đầu học Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), và chỉ học những
yếu chỉ căn bản, nhất là lộ trình tâm của Đạo và Quả, nhằm giúp cho hành
giả biết cách tháo gỡ những trục trặc của mình khi thiền tập hơn là đi vào
lý thuyết, chia chẻ, phân tích cặn kẽ mọi thứ. Vốn tiếng Anh của Ngài khá
phong phú, nói rất trôi chảy. Có lẽ, điểm độc đáo của Thiền Sư là có khả
năng lắng nghe những trục trặc của hành giả, và rất thông cảm cho thiền
sinh, căn tánh nào, trình độ nào Ngài cũng tuỳ duyên hướng dẫn cả.
4. CÁCH THỨC THIỀN
TẬP
Ngày đầu tiên bước vào thiền
viện, cũng giống như bao thiền viện khác, thiền sinh được hướng dẫn tổng
quát về thiền tập. Tôi còn nhớ câu đầu tiên của Thiền Sư nói, cách thức tu
tập ở đây chú trọng đến Thiền Quán (Vipassanā), và muốn cho Thiền
Quán được phát triển thì thiền sinh phải vận dụng sự thông minh của mình….
Câu cuối cùng Ngài khuyên thiền sinh, hãy nên hành pháp với tất cả chân
thành và sự kính trọng, có như vậy thì thiền tập mới có kết quả lớn.
Chìa khoá để mở cửa Thiền Quán
theo cách dạy của Thiền Sư tại đây giống với nhiều vị Thiền Sư đương đại
cũng như trong quá khứ, là phải có Chánh Niệm và Tỉnh Giác trong khi thiền
toạ, thiền hành hoặc trong đời sống hằng ngày. Hai chìa khoá song sinh này
được lập đi lập lại rất nhiều lần khi Ngài hướng dẫn thiền sinh vào mỗi
bữa trình pháp.
Cách thức, tông chỉ tu tập như
thế nào được Thiền Sư nói khá rõ trong cẩm nang thiền tập: WHAT IS THE
RIGHT ATTITUTE FOR MEDITATION. Quý vị Việt Nam ở đó đã dịch sang Việt
ngữ: THẾ NÀO LÀ CÓ THÁI ĐỘ ĐÚNG TRONG KHI HÀNH THIỀN. Tôi sẽ đánh
máy lại, kể cả phần Anh ngữ, nhằm giúp cho những ai muốn vào thiền viện
này thiền tập có thể tham khảo trước, hoặc có thể vận dụng hằng ngày tại
nhà khi có thể.
Trong tập cẩm nang này, những
lời hướng dẫn được trình bày thành 27 điều, để giúp thiền sinh dễ nhớ.
Thật ra, đọc 27 điều đó vẫn chưa đủ để thấy hết được tông chỉ như thế nào.
Và cho dù ở đó tu một thời gian đi nữa, vẫn không thể thấu triệt những gì
Thiền Sư đã kinh qua. Mặc dầu vậy, trong thế giới tương đối, thông tin vẫn
là điều cần thiết, để từ đó kiến thức tích luỹ mới có thể có, và trên căn
bản này việc tu tập mới có kết quả, tuệ giác mới hiển bày.
Tông chỉ của thiền viện này là
Chỉ Quán song tu, nhưng Quán đặt nặng hơn. Cách quán chủ yếu là theo dõi
sự sanh diệt, vọng động của tâm thức mình ngay từ khi nó vừa khởi lên, nên
một số thiền sinh đặt tên cho nó là “Citta Vipassanā”, thuật ngữ
trong kinh tạng viết đúng là “Cittānupassanā”. Cách quán tâm ở đây,
theo người viết, rất giống với tông chỉ “Tri Vọng” của HT Thanh Từ. Vọng
tới không sợ, mà sợ không đủ tỉnh giác để thấy đó là vọng, để dừng vọng và
quay về với chánh niệm !
Đề mục khi thiền toạ cũng tuỳ
thuộc vào thiền sinh. Nếu thiền sinh nào đã từng quen thuộc với pháp quán
niệm hơi thở thì vẫn giữ pháp quán hơi thở đó để làm đề mục chính. Hoặc vị
nào đã từng quen với cách niệm phồng xẹp ở vùng bụng của Thiền Sư Mahāsi
Sayādaw và các đệ tử của Ngài chủ trương như thiền viện Panditarāma,
Chanmyay Yeikthā thì cứ theo truyền thống đó. Tuy nhiên, cũng có sự khác
biệt chút đỉnh trong cách niệm phồng xẹp đó. Theo Thiền Sư, thiền sinh chỉ
cần ghi nhận sự phồng xẹp của bụng khi hơi thở vào ra mà không cần phải
niệm “phồng à, xẹp à” như truyền thống của HT Mahāsi Sayādaw. Vị nào đã
từng tu theo cách quán niệm cảm thọ toàn thân của Thiền Sư cư sĩ U Bakhin
và đệ tử kế nghiệp là N. S. Goenka thì cứ theo truyền thống đó. Khuynh
hướng quán cảm thọ từng phần, từng phần trên toàn thân và như vậy toàn
thân được Thiền Sư khuyến khích hơn. Tuy nhiên, vấn đề chính là tâm hành
giả có thực sự bám sát đề mục hay là lang thang ở thế giới nào. Nếu đã đi
rong chơi đó đây thì cố gắng đem nó về sớm chừng nào tốt chừng đó !
Về tư thế ngồi ở đây cũng giống
như bao trường thiền khác ở Miến, không bắt buộc hành giả phải theo một tư
thế nào nhất định. Mỗi người tự chọn cho mình một tư thế ngồi cảm thấy
thoải mái nhất, có khả năng duy trì chánh niệm và tỉnh giác lâu nhất. Phải
thừa nhận chư Tăng Việt Nam và Triều Tiên có công phu thiền toạ khá cao so
với các nước khác. Các Sư phần lớn ngồi kiết già hoặc bán già, lưng thẳng
với y phục trang nghiêm trông rất đẹp. Thời gian ngồi ở đây tiêu chuẩn là
một tiếng, nhưng một số Sư đã gia tăng từ một tiếng đến hai tiếng với tư
thế kiết già. Đó cũng là một dấu hiệu tiến bộ trong thiền định, đòi hỏi sự
gia công tu tập của hành giả rất nhiều!
Khi thiền hành thì vận dụng
theo truyền thống của Ngài Mahāsi , nghĩa là qua 3 giai đoạn hoặc 6 giai
đoạn mà tôi đã dịch trong NHỮNG NGUYÊN TẮC CĂN BẢN CỦA THIỀN QUÁN
do HT Sayādaw U Janaka hướng dẫn tại Thiền viện Chanmyay. Nhưng ở
đây thiền sinh được hướng dẫn không nhất thiết phải đi thật chậm như các
trường thiền đó, mà đi với tốc độ bình thường, hoặc chậm hơn bình thường
một chút là đủ. Tuy nhiên, vị nào đi thật chậm cũng không sao, quan trọng
là theo dõi được tâm của mình như thế nào, và khi đi có ghi nhận được các
cảm giác xúc chạm của chân và các phản ứng của tâm với ngoại giới hay
không ?
Ngài cũng khuyến nhắc các thiền
sinh mới vào nên giữ im lặng nhiều chừng nào tốt chừng nấy. Trong trường
thiền, vài câu khuyến nhắc sự nguy hại của nói chuyện được dán đây đó,
giúp thiền sinh rất nhiều: “Nói chuyện có thể phá vỡ chánh niệm.
Chúng ta hãy tránh nói chuyện để khỏi quấy rầy người khác và cũng để khỏi
quấy rầy chính mình.” (Talking can seriously damaged
mindfulness. Let’s avoid talking in order to not disturb others as well as
yourself). Hoặc vẽ một biểu tượng, một hành giả đang nhắm mắt thiền
toạ, miệng bịt lại, hai tay ôm chặt năm cái bình, rồi viết câu sau ở dưới:
“Năng lượng được bảo tồn là nhờ không tạp thoại. Năng lượng ấy có
thể được sử dụng để tăng trưởng TỈNH GIÁC và CHÁNH NIỆM” (Energy
…. that is conserved by not talking can be used for the development of
AWARENESS and MINDFULNESS). Hoặc ở tại nhà xí vẽ một người đang đi
cầu, chứng được Đạo Quả và viết một câu rất hay, từ đó có thể suy ra tông
chỉ của pháp môn Ngài đang hướng dẫn. Rất tiếc, tôi quên ghi lại nguyên
văn, đại ý nói: Quá trình dẫn đến ĐỐN NGỘ là một quá trình Chánh
Niệm và Tỉnh Giác liên tục. Khi ngũ căn được phát triển đến độ chín mùi và
cân bằng thì trạng thái ĐỐN NGỘ có thể xảy ra bất kỳ lúc nào và ở nơi đâu
!
5. TRÌNH PHÁP
Thời gian trình pháp ở đây
không có nhặt như các trường thiền khác. Trong trường thiền chỉ có một vị
Thiền Sư truyền đạt kinh nghiệm tu tập cho thiền sinh, nên Ngài đi vắng
bao lâu thì thiền sinh được miễn trình pháp bấy lâu. Khi Ngài trở về thì 4
- 5 hôm mới trình pháp một lần. Khi thiền sinh mới vào tu, Ngài hay dò
tâm thức của thiền sinh bằng cách hỏi điều này điều nọ khi các vị trình
pháp một hai lần đầu, sau đó, có điều gì thiền sinh thưa hỏi, bằng không
thì cứ theo lệ cũ, giữ chánh niệm, tỉnh giác trong khi đi, đứng, ngồi,
nằm, ăn, mặc, nói, làm, thiền hành, thiền toạ.
Ở đây thiền sinh không bắt buộc
phải ghi lại bằng giấy, hoặc nhớ chi tiết những gì tâm lộn xộn xảy ra khi
thiền toạ, thiền hành. Những vị vì muốn bảo đảm những gì mình thưa có thứ
lớp và dùng từ chính xác, có thể viết ra giấy sẵn và lên đọc. Khi trình
pháp những gì cảm thấy cần yếu thì thiền sinh thưa hỏi, bằng không Thiền
Sư có thể cật vấn, và từ đó Thiền Sư soi sáng cho thiền sinh. Vì trình
pháp chung nên thiền sinh có thể học hỏi những vấp phải sai lầm của người
khác mà mình có thể tránh, hoặc những sở nghi của mình tự tan biến nhờ
Thiền Sư soi sáng cho các vị huynh đệ đồng tu cũng có những sở nghi đó !
Thông thường, trình pháp được
chia thành nhiều nhóm: nhóm Việt Nam, và trong nhóm Việt Nam cũng được
chia ra nhiều nhóm nhỏ nữa, tuỳ theo số lượng và thời gian đến trước sau;
nhóm Triều Tiên, nhóm Đài Loan, nhóm Châu Âu, v.v… Nếu thiền sinh biết nói
tiếng Anh thì trình bày thẳng bằng Anh ngữ vẫn tốt hơn, bằng không đều có
thông dịch viên của nhóm đó phụ trách. Một trong những lý do người Việt
Nam tới đây tu đông có lẽ là vì lý do này ! Bên cạnh điểm lợi của trình
pháp chung là học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau đó, cũng có những trục trặc
chút đỉnh khi trình pháp chung, đó là hiểu biết quá nhiều về những tâm lý
tiêu cực hoặc trình độ nhận thức kém cõi của đương sự đó, rất có thể khiến
cho một vài thiền sinh đâm ra thiếu cung kính, lễ độ đối với những vị
đồng phạm hạnh vấp phải những vụng về, sai lầm. Tuy nhiên, nếu muốn trình
pháp riêng với Thiền Sư, thiền sinh ấy có thể chờ các vị khác xuống rồi
trình sau.
Người viết nghe nói có cả những
vị tu trước đây, lầm tưởng các trạng thái mình chứng đắc, và từ đó tự cho
rằng mình chứng đắc tới các tầng thiền Tuệ này, thiền Tuệ nọ như sách
Thiền trình bày, mà thực chất chỉ là những lầm tưởng, khát khao của đương
sự đó. Và như thế những vị ấy lên trình bày với Thiền Sư, và mong Ngài ấn
chứng cho, nhưng phải nói tuệ nhãn của Thiền Sư khá độc đáo, nên thiền
sinh không dễ gì qua mắt được.
Người viết được trình pháp vài
lần chung với chư Tăng Việt Nam và kể cả Tăng sinh ngoại quốc tại trường
Đại Học Quốc Tế Truyền Bá Phật Giáo Nguyên Thuỷ (International Theravāda
Buddhist Missionary University). Ngài hỏi
rất nhiều khi thiền hành và thiền toạ. Có lần Ngài hỏi các thiền sinh, làm
cho ai cũng bỡ ngỡ: khi vào phòng ngủ có biết chân nào vô trước hay không
? Đầu vào trước hay chân bước vào trước ? Khi vào nhà tiêu, nhà tắm có
biết những gì đang xảy xung quanh mình không? Đi tiểu, thấy điều gì ? Khi
cầm ổ khoá mở cửa vô ra, thấy cái gì ? Khi đánh răng sút miệng có ghi nhận
được các cảm thọ khi bàn chải đánh răng chạm vào nướu răng, lưỡi hay không
? Khi đi khất thực tâm ra sao ? Thân ra sao ? Khi ăn cơm tâm có nôn nóng
ăn hay không ? v.v…
Có nhiều vị Việt Nam, vì muốn
hiểu biết thêm về trạng thái tâm mà trong các thuật ngữ Phật học thường sử
dụng, cũng đặt vấn đề nữa. Điều này một mặt giúp hành giả xem thử mình tu
tới trình độ nào, nhưng bên cạnh đó cũng mất thời giờ của Thiền Sư, của
đại chúng, và đôi khi không đi vào vấn đề mình có thực tập tới mức đó chưa
! Ví dụ, có vị hỏi khi ăn cơm, cái nếm và cái ăn, cái nào là chân đế, cái
nào là tục đế, v.v… Hoặc có vị hỏi khi gặp cư sĩ họ đảnh lễ, cung kính,
lúc đó lúng túng không biết làm gì, vậy phải làm sao ? Hoặc có vị hỏi, khi
đi tới nghĩa trang, khu có mộ phần, tâm rung động, sợ sệt phát sinh, vậy
phải làm thế nào ? Tâm vọng là vọng tâm, vậy tâm biết tâm đang vọng đó là
tâm gì ? Nói chung, tất cả những gì muốn hỏi đều có thể thỉnh vấn Ngài
được cả ! Nếu hành giả biết chút đỉnh về các thuật ngữ Pāli trong tạng Vi
Diệu Pháp, cũng giúp rất nhiều về mặt nhận thức, vì thỉnh thoảng Ngài dùng
một số thuật ngữ trong ấy mà người dịch chưa hẳn chuyển tải được ý của
Ngài muốn nói.
Tóm lại, trình pháp với Thiền
Sư tại thiền viện Shwe Oo Min là cơ hội để học thêm, và nhất là cơ hội để
làm mới lại những gì đã học và tu ! Sư Cô Tín Liên, hiện ở Tịnh Xá Ngọc
Phương, đã từng đến đây tham học hơn một năm rưỡi và phụ trách phần chuyển
ngữ cho thiền sinh Việt Nam, ắt hẳn có nhiều kinh nghiệm liên hệ đến lộ
trình tu tập này.
Nếu hành giả không có duyên về
thiền toạ cho lắm, có thể thưa với Ngài trong lúc trình pháp, và Ngài cũng
có thể châm chước cho thiền hành (thậm chí là không thiền hành nghiêm túc
cho lắm) cũng không sao. Quả là mỗi người có mỗi nhân duyên và căn cơ tu
tập khác nhau, không thể ép mọi người giống như nhau, miễn rằng hành giả
cố gắng tu là được, tu tới đâu quý tới đó !
6. THỜI KHOÁ
Cũng giống như các thiền viện
khác là thiền sinh phải dậy từ lúc 3.30 sáng và phải tu tập đến 9, 10 giờ
tối. Thời khoá cụ thể như sau:
3.30: thức dậy.
4.00 – 5.00: thiền toạ chung
tại thiền đường.
5.30: điểm tâm.
7.00: khất thực.
8.00-9.00: tắm rửa, giặt giũ cá
nhân.
9.00 – 10.00: thiền toạ.
10.30: thọ trai.
12 giờ trưa cho tới 10.00 giờ
đêm thiền toạ và thiền hành xen kẽ nhau.
Thời khoá lý tưởng là vậy,
nhưng phần lớn thiền sinh tu giỏi lắm là tới 9 giờ tối đều xuống phòng
nghỉ cả. Vì thiền viện này cũng giống như ở thiền viện Chanmyay, thiền
sinh tự tu lấy, Thiền Sư không giám sát trực tiếp, nên tinh tấn hay giải
đãi là tuỳ vào hành giả. Thiền Sư chỉ thỉnh thoảng lên kiểm tra một vòng
từ 3 - 4 giờ chiều.
Sau khoá thiền buổi sáng 5 giờ,
thời gian còn lại nửa tiếng là quét dọn thiền đường, ngoài sân, sau đó
chuẩn bị điểm tâm. Thời gian từ 8.00 - 9.00 sáng cũng tuỳ mình sắp xếp tắm
rửa, giặt giũ hay vào lúc 4.00 - 5.00 chiều đều được.
Thời gian biểu để tu tập là tới
10.00 tối mới nghỉ ngơi, nhưng phần lớn chư Ni ngoại quốc đã xuống phòng
lúc 8.00 và tu tập tại phòng hoặc nghiên cứu kinh luật cũng được, nếu tu
lâu dài. Vì lúc 8.00 chư Ni và Phật tử Miến đều có pháp thoại của cố HT
Shwe Oo Min hoặc các vị Cao Tăng, Thiền Sư khác, nên chư Ni và nữ cư sĩ
ngoại quốc đều xuống phòng riêng cả. Còn phía chư Tăng phần lớn tu đến
8.30 là lục đục đi xuống, tới 9.00 là xuống hết. Vị ni phụ trách thiền
đường cũng đóng cửa vào lúc đó.
Sau khi xuống phòng riêng có
thể nghỉ hoặc đọc sách tuỳ mỗi vị. Phần lớn đều chìm vào giấc ngủ rất sâu
sau 15 - 17 tiếng đồng hồ thiền tập, nếu không nghỉ trưa. Chính vì ngủ
sớm như vậy, nên thiền sinh có thể dậy sớm lúc 3.30 hoặc sớm hơn nữa. Có
thiền sinh tu rất tinh tấn, đã lên thiền đường tu tập từ lúc 2.30 hoặc
3.00 sáng. Vị phụ trách thiền đường lúc nào cũng dậy rất sớm, đều dậy
trước 3 giờ để mở cửa, thắp đèn, đốt hương cúng dường Tam Bảo. Quả thật là
công đức vô lượng !
7. KHẤT THỰC
Sau khi điểm tâm xong lúc 6
giờ, chư Tăng về phòng vệ sinh cá nhân, và chuẩn bị y bát đi khất thực lúc
7 giờ. Phật tử ở Miến rất thành tâm với Tam Bảo. Khu làng mà chư Tăng ở
thiền viện đi khất thực quanh năm không đầy đủ vật chất cho lắm. Nhà cửa
còn thô sơ, mái tranh vách đất, tre nứa che mưa đỡ nắng qua ngày. Một số
gia đình trước nhà trồng vài luống rau xanh, hoặc đất bỏ hoang cỏ mọc
thành đám. Thế mà, mỗi ngày chúng tôi đi khất thực đều có tín chủ phát tâm
nấu cơm sẵn, đựng trong thau nhỏ, bát, tô, tuỳ theo khả năng kinh tế của
họ mà dâng chư Tăng. Có cả chư Ni Miến Điện chùa ở gần đó ngày nào cũng
sớt bát cho chư Tăng nữa. Các em nhỏ ra đứng thành hàng, chắp tay thành
kính hoặc đôi lúc quỳ mọp dưới đất đảnh lễ khi chư Tăng đi ngang qua. Khi
chư Tăng đi khất thực, nam nữ cư sĩ đi ngược đường phần lớn đều đứng lại
nghiêm trang để chờ chư Tăng qua rồi mới đi tiếp, trông họ rất thành kính
và mộ đạo !
Không biết họ có phân công hay
không, nhưng các tín chủ dâng cơm thấy không đều. Bữa nay gia đình này,
bữa sau gia đình khác, đôi 3 bữa sau là thấy họ dâng lại. Nắng mưa gì các
tín chủ đó vẫn vậy, nên chư Tăng cũng phải khất thực dầu có mưa, và thậm
chí có thể dẫn đến bị bệnh vì nhiễm mưa nữa. Vào những lúc mưa nặng hạt,
chư Tăng có thể nhận tượng trưng, còn lại họ sẽ đổ vô nồi lớn do cư sĩ hộ
thực tại thiền viện đem theo. Những lúc mưa quá lớn, họ biết chư Tăng
không thể đi khất thực được thì họ mới không chờ.
Pháp khất thực của thiền viện
này, và có lẽ đối với pháp khất thực tại Miến nói chung, lạ lẫm so với
những gì người viết đã được học và hành trì. Pháp khất thực ở đó cũng chỉ
tượng trưng thôi, vì không chỉ nhận thực phẩm cho bản thân mình mà xin cho
chư Ni và Phật tử tu tại thiền viện dùng nữa. Khi cơm trong bát của vị Sư
đi khất thực đã đầy rồi hoặc sắp đầy, các vị có thể đổ vào nồi lớn do các
nam cư sĩ hộ bát đem theo, và do đó có thể đi tiếp cho hết khu làng đó.
Cho nên, một vị đi khất thực trung bình cũng phải đổ vào nồi lớn ít nhất
là một lần, và phần còn lại là mang về thiền viện hoặc đổ vào nồi mà các
cư sĩ đã để sẵn bên vệ đường. Các tín chủ phần lớn chỉ dâng cơm, lâu lắm
mới có những vị để bát thức ăn. Nếu để bát thức ăn cũng có cư sĩ hộ bát bỏ
vào giỏ mang về thiền viện. Cơm trắng sau khi khất thực về được nhà bếp
hâm nóng lại cho cả đại chúng dung vào buổi trưa, và đôi khi dư cho cả
điểm tâm sáng hôm sau. Tuy nhiên, cũng có vị Sư ngoại quốc (có lẽ đến từ
Tích Lan đến) đi khất thực nhận cơm đầy bát rồi tách đoàn về trước. Vị này
là khách tăng không ở lâu, chỉ vài hôm rồi đi thăm trường thiền khác.
Mỗi ngày chư Tăng đều đi khất
thực như vậy, cả đi lẫn về gần một tiếng đồng hồ. Tốc độ đi hơi nhanh,
phần lớn các vị mới tới gần như đi không kịp. Các vị Thượng toạ, Đại đức
nhiều hạ, khi đi khất thực cầm quạt che nắng hoặc che mưa. Khi đi khất
thực vị Đại Đức trụ trì hoặc Thiền Sư đi trước, vị trụ trì thứ 2, hoặc thứ
3 trong thiền viện đi sau cuối để giám sát thiền sinh.
Những tín chủ cúng dường cơm
vào mỗi ngày gần như ở mọi lứa tuổi, từ em bé 9-10 tuổi đến ông cụ, bà già
70-80 tuổi. Mỗi lần tới các em nhỏ, quý Sư phải nghiêng người xuống để các
em sớt cơm vào bát, thật là cảm động.
8. THỰC PHẨM VÀ
THỌ TRAI
Khi điểm tâm hay thọ trai trưa,
chư Tăng Nguyên Thuỷ đều phải mang bát xuống để đựng thức ăn. Chỉ trừ các
vị Thượng toạ hoặc Thiền Sư trong thiền viện là miễn mang bát vào buổi
sáng. Các nhà Sư Đại Thừa ở thiền viện này không bắt buộc dùng bát cả sáng
lẫn trưa.
Thực phẩm chay mặn đều có,
nhưng phần lớn đều mặn. Khi lên thọ thực, cơm và thức ăn đã được dọn sẵn
lên bàn. Các nhà Sư chỉ trải toạ cụ, ngồi xuống trong chánh niệm, sớt cơm,
thức ăn vào bát và chánh niệm thọ thực. Ăn xong, chánh niệm bỏ bát vào
túi, đi xuống, rửa bát và im lặng về phòng nghỉ.
Có lẽ các nhà Sư Đại Thừa và
Khất Sĩ muốn tu tại thiền viện này nên chuẩn bị một ít thực phẩm chay, như
xì dầu, nước tương để ăn kèm với thức ăn đã được phân phối tại thiền viện
thì mới đủ. Các loại thực phẩm chay nói trên có thể gởi mua tại Miến. Mặc
dù các nhà Sư Khất Sĩ hoặc Đại Thừa Việt Nam ăn chay trường, nhưng mỗi
ngày đều được phân phối đầy đủ những gì các Sư Nguyên Thuỷ dùng. Một số
nhà Sư Đại Thừa Triều Tiên ngày nay đã ăn mặn khi ở tại thiền viện này.
Trong số các nhà Sư Nguyên Thuỷ
vẫn có vị ăn chay. Các vị Sư này cũng có thể xuất thân từ Phật giáo Đại
thừa, hoặc đã từng là cư sĩ ở các cộng đồng Đại thừa, như Đài Loan, Mã Lai
Á, Phi Luật Tân, hoặc những vị theo truyền thống Nguyên Thuỷ nhưng vì bệnh
duyên, hoặc cho rằng ăn chay để trưởng dưỡng tâm từ bi. Trong những ngày
tháng tu ở đó, tôi thầm nể phục một vài vị, dù đã ở nhiều tháng rồi, và dự
định ở đó lâu hơn nữa để tu tập, mặc dầu ăn uống hơi kham khổ so với những
gì vị ấy trước kia hưởng thụ. Có lẽ bởi vì vị ấy nhận được pháp của vị
Thiền Sư hướng dẫn rất phóng khoáng, không vướng kẹt vào một đề mục nào,
kiến giải hay. Có lần người viết thấy một vị dùng cơm trắng không có thức
ăn, khi bữa cơm đã gần xong, sau này tôi mới biết ra vị ấy đã dùng chay
trên 22 năm rồi !
Riêng phần chư Ni thì không có
gì trở ngại, vì chư Ni và nam nữ cư sĩ ăn chung một trai đường. Các vị
dùng chay có thể ăn chung một bàn. Thức ăn thì tự các vị sớt lấy, nên có
thể chọn và tự sớt đủ thực phẩm như ý của mình được.
Buổi chiều từ 4.00 – 4.30 thỉnh
thoảng có nước uống, phần lớn là do thiền sinh tại thiền viện cúng dường.
Số tiền cúng nước cho buổi chiều cũng không nhiều, từ 10 – 15 Mỹ kim là có
thể cúng dường nước cho khoảng 100 vị rồi.
Thành thật mà nói, cách thức tu
tập theo sự hướng dẫn của Thiền Sư ở đây quả là tuyệt vời. Nhiều vị đều
công nhận như vậy, nhưng vì thực phẩm chay ít quá, có một số vị chịu không
nổi nên đã rời trường thiền ! Có một số vị nhận định rằng, nếu trường
thiền này chỉ cần cải cách thực phẩm từ mặn thành chay như Thiền Lâm
Pa-Auk thì đây là một trong những trường thiền rất có thể có số lượng
thiền sinh lớn nhất nhì tại Miến !
9. Y PHỤC TẠI
THIỀN VIỆN
Khi chúng tôi vào thiền viện,
cùng đi với chúng tôi còn vài Tăng Ni sinh khác nữa của Trường Đại Học
Phật Giáo tại Miến cũng vào tu nhân dịp nghỉ hè sau khi thi kỳ một. Đại
Đức trụ trì lúc bấy giờ pháp danh là U Tejinda thấy y của chúng tôi hơi lạ
với y của quý Sư Nguyên Thuỷ bên Miến một chút, nên hỏi là Đại Thừa phải
không ? Vị Sư đi trong đoàn trả lời giúp cho chúng tôi là không phải. Vị
ấy hỏi vậy có phải Nguyên Thuỷ chăng ? Cũng không phải! Vị Sư đi trong
đoàn mới thưa là không phải Nguyên Thuỷ mà cũng không phải Đại Thừa. Vị
Đại Đức trụ trì cũng không cật vấn nhiều.
Tối hôm sau chúng tôi được kêu
lên và Ngài bảo giải y để Ngài xem. Mặc dầu chúng tôi khi vào đảnh lễ và
sinh hoạt ở đó đã mặc y theo truyền thống của Thái Lan. Y Thái Lan, cỡ
kích và cách may giống như các Sư Nguyên Thuỷ bên Miến cả, chỉ có khác là
y Miến bề ngang nhỏ hơn các y của Thái, Lào, Campuchia và y của các vị
Khất Sĩ một chút. Chúng tôi vâng lời làm theo. Sau cùng Ngài bảo là Ngài
muốn cúng dường bộ y mới của quý Sư Nguyên Thuỷ Miến Điện thường mặc, có
nhận không ? Dĩ nhiên là chúng tôi hoan hỷ đón nhận. Mặc dầu Ngài không
nói gì thêm, nhưng chúng tôi cũng ngầm hiểu rằng, đắp y như vậy cho đồng
bộ, cho trường thiền đẹp thêm, vậy cũng quý.
Các Sư Nguyên Thuỷ đến từ các nước khác phần lớn cũng vậy ! Nếu các
vị đắp y vàng không quá sáng thì có thể giữ y đó cũng không sao.
Còn riêng các Sư Đại Thừa có
thể mặc áo nhật bình, áo tràng hoặc đắp y cho nghiêm trang cũng tuỳ vào
mỗi hành giả. Các Sư Đại Hàn đều đắp y cả, vì thật sự áo nhật bình của họ
không có nghiêm trang như áo nhật bình của Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam.
Các vị ấy cũng linh động thay vì đắp y vàng sáng như theo truyền thống xưa
nay, các vị đã đổi thành vàng đà hoặc nâu đà để phù hợp với màu y truyền
thống của Miến hơn.
10. TĂNG CHÚNG TẠI
THIỀN VIỆN
Ngài Shwe Oo Min ra hành đạo
quá muộn, nên Tăng chúng đệ tử thường trú không nhiều. Có những vị chỉ thọ
giới với Ngài rồi đi nơi khác ở. Có những vị trực tiếp thọ giới và tu học
với Ngài thời gian cũng khá lâu, nhưng vì không đủ nhân duyên nên hoàn
tục. Cũng có những vị ra riêng đang xây dựng thiền viện. Hiện nay chỉ thấy
có 5, 6 vị là Tăng thường trú. Còn lại là khách tăng, và phần lớn là thiền
sinh từ các nước đến tu tập. Những vị Sư phụ trách trông nom thiền viện
đều còn trẻ cả, cao tuổi nhất là 60, nhưng chỉ có một vị thôi, còn lại là
50 trở xuống.
Vị Thiền Sư hướng dẫn hành
thiền có lẽ là Sư đệ của các vị chức sắc trong thiền viện, vì tuổi hạ chỉ
9-10 năm là tối đa, nhưng khi hành pháp, ví dụ đi khất thực, hướng dẫn
chúng tu tập đều đi đầu. Ngoài Phật sự này ra, vẫn ngồi theo tuổi đạo vào
các bữa tụng giới, nhận y ka-thi-na. Khi HT Shwe Oo Min Sayādaw tịch, tăng
chúng còn trẻ quá, nên Ngài giao phó công việc quản lý thiền viện cho 3 vị
đệ tử lớn để các vị tự sắp xếp lấy, thế là từ đó mỗi vị trụ trì mỗi kỳ 3
tháng.
Thiền sinh tại thiền viện bao
gồm cả chư Tăng Ni, cư sĩ ngoại quốc và cả Miến Điện trung bình từ 150 –
170 vị. Vào mùa hạ có thể tăng lên đến 200. Vào dịp lễ hội tại Miến, các
Phật tử đến tu gieo duyên đông nên thiền sinh có thể đến 250. Thiền sinh
đông nhất là Hàn Quốc và Việt Nam. Số còn lại là Đài Loan và một vài nước
khối Âu Châu. Vào mùa nghỉ hè, Tăng Ni sinh du học tại trường Đại Học Phật
Giáo vô tu, gồm đủ các nước như Cam-pu-chia, Lào, Thái Lan, Bangladesh,
v.v…
Vào mùa an cư, các Sư từ thiền
viện Phước Sơn, Đồng Nai trực thuộc truyền thống Nguyên Thuỷ đến tu khá
đông, và sau mỗi mùa an cư các vị phần lớn về lại Việt Nam. Nhưng hầu như
ngày nào, tháng nào cũng có người Việt Nam ở đó. Cho nên những vị không
biết tiếng Anh đến đó tu vô cùng thuận lợi, có nhiều vị đã và đang tu nơi
đó giúp thông dịch, làm giấy tờ, v.v… Nhưng người Việt tu đông cũng có
những trở ngại của nó, hành giả rất có thể bị phân tâm vì thân hữu, hoặc
các mối quan hệ, nếu không khéo tỉnh giác.
11. THỨ BẬC TẠI
THIỀN VIỆN
Ở trong thiền đường thì không
phân biệt thứ bậc cho lắm. Mỗi người tìm cho mình một chỗ ngồi phù hợp và
từ đó cứ như vậy mà ngồi. Thông thường các vị mới đến sau cứ ngồi phía sau
là ổn. Khi đi thọ thực cũng nhìn trước, nhìn sau đi cho thứ bậc. Thông
thường, các vị Sư Nguyên Thuỷ lớn hạ đi trước, sau đó mới tới các nhà Sư
Đại Thừa, và nam cư sĩ. Khi thọ trai bữa đầu, vị Thượng toạ trụ trì sẽ chỉ
dẫn chỗ ngồi cho thiền sinh.
Các nhà Sư Nguyên Thuỷ ngồi
theo một dãy, cũng theo tuổi hạ mà ngồi, nhưng điều đó cũng không có khắt
khe lắm. Người viết thấy các vị Sư tu gieo duyên, nhất là các vị Việt Nam
đến từ Mỹ quốc cũng ngồi cao hơn những vị phát nguyện tu cả đời và lớn
tuổi hạ hơn mà đến sau. Các nhà Sư Đại Thừa và Khất Sĩ được ngồi riêng một
dãy, nối theo các vị Sư Nguyên Thuỷ. Tiếp theo đó là những vị tu gieo
duyên ngoại quốc và các vị Sa-di ở Miến nếu hàng chính bên kia hết chỗ.
Khi đi khất thực, chỉ có 7 – 10 vị hàng đầu là đi đúng theo hạ lạp, còn
lại gần như không đúng theo hạ lạp cho lắm. Rõ ràng, việc ngồi trước ngồi
sau, đi trước đi sau, không phản ảnh được công phu tu tập thật sự của mỗi
hành giả. Ở đây, người viết chỉ phản ánh khách quan những gì đã thấy về
cách tổ chức của trường thiền mà thôi !
Trong những ngày tháng đi khất
thực chung với các Sư Việt Nam, các Sư ngoại quốc ở đó, quả thật là những
ngày học hỏi lẫn nhau. Học từ cách đi đứng của quý Sư, học từ nhận thức
rằng tất cả đều là huynh đệ, không phân biệt hệ phái, không đặt nặng vị
trí lớn nhỏ hạ lạp. Có những vị tu 5, 6 năm rồi, nhưng lúc nào cũng khiêm
cung dành đi sau, nhường chỗ cho những vị mà các vị ấy kính trọng, thật là
những gương hạnh quý, khó quên.
Cũng vì cách sắp xếp vị trí hạ
lạp, hành giả thuộc trường phái chính thống và không chính thống như một
vài vị suy nghĩ, nên những chuyện não phiền cũng có xảy ra tại thiền viện
này. Có vị vì bị áp lực nặng nề nên từ hệ phái Khất Sĩ tạm chuyển sang Nam
Tông cho thuận khi tu ở đó. Có vị Thuợng Toạ vì bất mãn áp lực của thiền
viện nên không tu ở thiền viện. Cũng có vị ở đó học tu một thời gian rồi
đi nơi khác, hoặc về lại bổn quốc với bao thất vọng. Có vị vì bị người
khác có ý bất nhã đôi lần, lấn quyền cả trụ trì, không cho đi khất thực,
mà không ở đó nữa. Đó là nỗi đau, là vết thương cần phải bù đắp, cần phải
chữa trị để tình huynh đệ ngày một lớn mạnh, trưởng thành trong giáo pháp
hơn.
Có lẽ vị Thiền Sư không biết
hết thực trạng của thiền viện xảy ra như thế nào. Vì đó là công việc sắp
xếp của trụ trì và của những vị phụ giúp. Những điều đó xảy ra một phần
lớn do cộng đồng người Việt mình. Tự mình không tôn trọng lẫn nhau, nếu
không muốn nói là kỳ thị, là điều trong âm thầm gây mất hoà khí, nếu không
muốn nói là chia rẽ, đổ vỡ và dẫn đến chia tay ! Chuyện người viết đề cập
ở trên, và còn một vài việc khác không tiện trình bày ở đây, quả là một sự
kiện không đẹp mấy trong Tăng đoàn, đáng lẽ cũng không ghi lại làm gì,
nhưng hy vọng đó là một sự kiện cần rút kinh nghiệm để từ đó xây dựng tình
huynh đệ trong Tăng đoàn ngày một tốt đẹp, hoà hợp hơn.
Chúng tôi ở đó cũng quý mến rất
nhiều Sư và các Sư Nguyên Thuỷ đối với chúng tôi cũng vậy, nhất là các Sư
ở gần phòng, chia sẻ nhiều kinh nghiệm quý báu trong cuộc đời và tu học.
Bốn phương trời đổ về một nơi học Đạo, với tinh thần không phân biệt tôn
giáo, hệ phái, đẳng cấp, trình độ, v.v... tại thiền viện này hoặc ở những
trường thiền khác, dù là ở Miến, ở Việt Nam hay ở nước khác thật là quý
báu, nhưng do phàm nhân không thực hiện được thôi.
Hãy gạt bỏ tất cả những dị biệt
không quan trọng để cùng nhau đi đến một phương trời rộng mở, nơi đó không
có dấu vết của kỳ thị, của tranh chấp, của tự ngã, của bỉ thử thì chắc
chắn sẽ bước nhanh hơn trên con đường giải thoát.
12. TỤNG KINH
Thiền sinh không tụng kinh như
Tăng chúng tại thiền viện. Tối khoảng 7 giờ, chư Tăng tại thiền viện
khoảng vài vị lên Giới Đường (phòng để chư Tăng hội họp và đọc Giới Bổn)
tụng kinh. Trong Giới Đường không có thờ Đức Phật, mà chỉ thờ Ngài Shwe Oo
Min. Tại thiền đường dành cho chư Ni và nữ cư sĩ, cũng không có thờ Đức
Bổn Sư mà chỉ thờ Ngài Shwe Oo Min. Chỉ có thiền đường của chư Tăng mới
thờ tượng Đức Bổn Sư, nên thỉnh thoảng chư Ni và Phật tử lên thiền đường
chư Tăng lạy Phật vào sáng sớm.
Từ 4.00 - 4.30 sáng, chư Ni và
nữ cư sĩ được vị Đại Đức trụ trì hoặc các vị lớn hạ trong trường thiền
thay phiên hướng dẫn tụng kinh. Vị Đại Đức xướng một câu, đại chúng tụng
theo, cứ như vậy cho hết thời kinh. Cách thức tụng kinh này giữ theo
truyền thống xưa của Miến và của những xứ khi hệ thống ấn loát chưa được
phát triển. Vào những ngày Bố-tát, các vị Thượng Toạ, Đại Đức ngoài việc
hướng dẫn tụng kinh, còn truyền giới cho nữ thiền sinh nữa.
Vì thiền đường dành cho chư
Tăng và nam cư sĩ ngay ở từng trên, nên từ 4.00 – 4.30 sáng đều nghe chư
Ni và nữ Phật tử tầng dưới tụng kinh. Cạnh thiền viện có ngôi chùa mở máy
tụng kinh cũng gần cả tiếng đồng hồ nữa, nên buổi sáng ở thiền viện Shwe
Oo Min, thành thật mà nói, chưa phải là nơi lý tưởng để tu thiền Vắng Lặng
(Samatha), mà chỉ có thể tu thiền Minh Sát (Vipassanā). Tuy
nhiên, hành giả nào đã vững vàng cả Chỉ Quán thì dù ở đâu, môi trường nào
cũng có thể định tâm mà quán chiếu được.
13. CƠ SỞ HẠ TẦNG
VÀ MÔI TRƯỜNG
Diện tích đất của thiền viện
không lớn bằng diện tích đất của thiền viện Panditarāma, hoặc Chanmyay ở
trong rừng, nên cách xây dựng thiền viện này không giống với các thiền
viện khác. Ở đây, mọi cơ sở đều xây lầu. Thiền đường cũng hai tầng: tầng
trên dành cho chư Tăng và nam cư sĩ. Tầng dưới dành cho chư Ni và nữ cư
sĩ. Phía bên nam có 4 dãy lầu hai tầng. Mỗi dãy có khoảng 20 phòng đôi.
Những lúc thiền sinh ít thì mỗi vị ở một phòng, khi thiền sinh đông thì 2
vị một phòng. Bên Ni, chúng tôi không rõ, nhưng trông cũng rất đồ sồ. Nhà
thọ trai 2 tầng, tầng trên dành cho chư Tăng, tầng dưới dành cho chư Ni và
nam nữ cư sĩ, được nối liền với nhà khói, rất tiện để cho các vị công quả
dọn dẹp, sắp xếp.
Các toà nhà, thiền đường, v.v…
được nối nhau và đều có mái che, nên dù nắng mưa đều không trở ngại cho
thiền sinh khi đi tới đi lui trong thiền viện. Có thể nói, những ngày
tháng ở đó không cần dù và không cần mang dép, vì đều có mái che và các
lối đi đều lót bằng gỗ hoặc đúc bằng xi măng. Ở các tầng lầu phía chư Tăng
đều có máy giặt sấy. Nhiều Phật tử Việt Nam tại thiền viện của HT Kim
Triệu ở Mỹ đã hỗ trợ cho công trình của thiền viện này khá nhiều, nên trên
một số đoạn tường của thiền viện có ghi lại phương danh của quý Phật tử
ấy.
Buổi chiều từ 5-7 giờ, một số
thiền sinh (bao gồm cả chư Tăng, Ni, nam nữ cư sĩ) đi thiền hành nghiêm
túc, và cũng có những vị đi thong thả từ đầu cổng vào tới cuối thiền viện,
trao đổi những kinh nghiệm tu tập, thậm chí bàn những chuyện không thiết
yếu đối với vấn đề tu tập lắm. Mặc dầu điều này cũng được khuyến cáo là
hành giả nghiêm túc không nên như vậy, nhưng có lẽ cũng đã thành nếp, nên
khó mà sửa !
Ở thiền đường (dành cho nam và
nữ) đều có bồn rửa mặt bằng thiết. Điều này gây bất tiện hơn là thuận
tiện, bởi vì nó gây tiếng động trong thời hành thiền. Biết như thế, nên
Thiền Sư vẫn thường khuyên hành giả dù trong hoàn cảnh nào cũng nên giữ
chánh niệm và tỉnh giác để theo dõi tâm của mình. Tâm mình có sân, biết có
sân, tâm mình khó chịu biết tâm đang khó chịu. Chính vì vậy, một số thiền
sinh coi đó là một chuyện bình thường, không làm phiền hành giả gì và cứ
tiếp tục sả nước, sút chai, sửa soạn chỗ ngồi sột soạt, đi thật mạnh khi
các thiền sinh khác đang thiền tập, dù nhiều vị đã cố gắng chánh niệm,
tỉnh giác, nhưng đôi lúc cũng cảm thấy không được yên tịnh cho mấy. Đúng
là một thử thách trong thiền tập! Nếu hành giả đủ tỉnh giác thì mọi sự vật
xung quanh đang xảy ra, mình đều có thể tận dụng để phát triển các
Ba-la-mật, và có lẽ trong trường hợp này hành giả sẽ phát triển được nhẫn
thọ, bao dung, độ lượng Ba-la-mật vậy.
14. SINH HOẠT PHÍ
Người viết được biết, các nam
nữ Phật tử Miến đều phải đóng phí cả, nhưng không biết rõ là bao nhiêu.
Các cư sĩ nước ngoài phần lớn đến đều có cúng dường, nên vấn đề này không
cần đặt ra. Chúng tôi nghe các vị ở đó nói, có thể là từ đầu năm 2006, mỗi
thiền sinh nước ngoài, kể cả Tăng Ni đều phải đóng 15 Mỹ kim mỗi tháng cho
thiền viện. Đây cũng chỉ là thông tin truyền miệng, không có văn bản. Theo
các vị ấy, vì có đóng phí thiền sinh mới nỗ lực hơn, và cũng để bảo trì
thiền viện được lâu dài hơn. Tuy nhiên, khi chúng tôi đảnh lễ Thượng toạ
trụ trì ra về, xin vài giấy giới thiệu cho chư huynh đệ sau này tiện lấy
visa qua đó tu; theo thông tin trong giấy bảo lãnh ấy, thiền viện sẽ ủng
hộ hoàn toàn về ăn ở khi đã vào thiền viện tu tập !
Nói tóm
lại, trình độ và khả năng của hành giả mức nào vô đây tu đều được, nhất là
những vị chưa từng vô nề nếp nghiêm túc thật sự của một thiền viện. Trong
cõi trần gian huyễn hoá, giả tạm, tương đối này, cái gì cũng có cả. Thiên
đường, địa ngục cũng do mình, Niết Bàn, sanh tử cũng do mình. Tại thiền
viện cũng vậy ! Có lẽ nếu mình biết uyển chuyển, khéo léo, chánh niệm,
tỉnh giác (dù ở mức độ sơ thiển) thì trần gian cũng có thể biến thành cõi
tịnh độ được, và ngược lại nếu mình không khéo tu tập. Các bậc Thầy chỉ là
người chỉ đường, còn đi hay không là tuỳ thuộc vào chính mình! “Bạn không
thể du hành trên một Đạo lộ, nếu bạn không trở thành chính Đạo lộ đó”
(Thou canst not travel on the Path before thou hast become that Path
itself).
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/thienvien_MienDien.htm