Trang tiếng Anh | Đạo Phật Ngày Nay |
...... ... | . | . | . | . | . |
Trong một đoạn khác.
Lại nữa như bài kệ trong kinh Viên Giác, đức Phật dạy ngài Kim Cang Tạng rằng:
Qua những trích dẫn trên, chúng ta thấy được vai rò quan trọng của việc chứng ngộ bằng những tâm linh cá biệt của mỗi người; còn việc nghe biết học hỏi không thôi thì chúng ta không có cách chi để thâm nhập vào giữa lòng chân tánh của thực tại; bỡi vì ngôn ngữ và lời nói chúng chỉ có giá trị trên bình diện khái niệm và biểu tượng mà thôi. Trong khi đó, cảnh giới tự chứng của Thiền tông vượt lên trên ngôn ngữ chấp trước của tri thức do trí năng đẻ ra; hay cảnh giới này cũng không thể dùng bất cứ phương pháp nào cho dù đó là những thứ tình cảm uỷ mỵ thương yêu cảm thông để xoa dịu và ru ngủ cuộc sống, bằng cách tạo ra một thứ hạnh phúc giả tạo, để đi đến cảnh giới của Thiền được. Việc làm này cũng giống như gãi ngứa trên giày, dùng đũa quơ trăng chứ có nhằm chi đến việc thấy tánh thành Phật! Cho nên thường thường các vị Thiền sư trong khi dạy người, các ngài luôn luôn đoạt hết mọi cơ hội có thể có, cho dù trong ý nghĩ tích tắc của người hỏi. Ở đây mọi kiến giải đều bị thủ tiêu, và đặt người đối thoại trước cuộc trắc nghiệm thử thách tâm linh; ngay tức khắc người đối thoại có đốt cháy được công án hay không, thì qua lời nói cử chỉ và hành động của người đối thoại các ngài biết ngay. Đây chúng ta hãy xem ngài Lục Tổ dạy chúng:
Qua công án này, chúng ta thấy ngôn ngữ của kiến giải tri thức, đã bị thất bại trước sự mô tả một vật thế này hay như thế nọ, trong khi đó chúng không can hệ chi đến vật kia. Đây chúng ta xem Thiền sư Bổn Tịnh dạy Minh Chí:
Cái sai lầm trầm trọng của chúng ta là chấp tướng cùng phá tướng, vì Đạo-Thiền xưa nay không có tướng mạo. Nếu dùng kiến-văn-giác-tri (thấy nghe hiểu biết) để cầu tìm tướng mạo của Đạo-Thiền, và chấp vào tướng thấy nghe hiểu biết đó cho là Đạo là Thiền, thì đó là một điều sai lầm. Chấp tướng còn sai lầm huống chi là phá tướng, vì các pháp xưa nay "tánh chúng vốn Không, tướng chúng lại như huyễn." Vậy thì chúng ta căn cứ vào đâu để chấp và để phá. Bỡi vậy, đối với Đạo, đối với Thiền nếu chúng ta dùng tướng mạo ngôn ngữ văn tự, thấy nghe hiểu biết để tìm cầu đạt đến, thì chắc chắn không bao giờ đạt được. Và đây chúng ta xem ngài Hương Nghiêm dạy người:
Ở đây, rõ ràng sự đạt ngộ của một hành giả, không can hệ gì đến sự diễn giải lý luận cả; bỡi vì sự diễn giải lý luận đó, là hậu quả tất yếu của trí phân biệt chấp trước, do đó chúng không thoát khỏi vọng thức điên đảo của chúng sanh tâm. Muốn thoát khỏi chúng để ngộ nhập vào cuộc sống tự tại giải thoát, thì như chính đức Phật đã dạy trong kinh Tứ Thập Nhị Chương: "Ngôn ngữ đạo đoạn, phi vật sở câu," và cũng trong tinh thần ấy, các Thiền sư trong pháp dạy người luôn luôn chủ trương: " Đoạn tuyệt chúng lưu, ngàn duyên cắt đứt," hay" Ly tứ cú, tuyệt bách phi"v.v... Vì chúng là những trở ngại vướng mắc do trí phân biệt của chúng ta giăng ra, và tự mình mắc kẹt vào khó mà thoát được. Ở đây chúng ta thấy hiện rõ qua câu chuyện Tăng Trí Thường hỏi Đạo Hòa thượng Đại Thông, và sau đó nhờ Lục Tổ khai mở sự vướng mắc này:
Qua những công án mà chúng tôi đã trích dẫn ra, chúng ta đã thấy cái khả năng, và giới hạn của ngôn ngữ biểu thị khái niệm, do trí phân biệt đẻ ra, đối với việc thể nhập vào Đạo qua công án như thế nào rồi. Vậy thì việc diễn giảng lý luận của chúng ta về công án, cũng chỉ là việc mà các Thiền sư thường gọi là"Trên tuyết thêm sương; Lấy đũa quơ trăng, hay Gãi ngứa trên giày, hay trên đầu thêm đầu"có nhắm nhò chi đến việc Thấy tánh thành Phật đâu! Hơn nữa, cái Tự tánh xưa nay của chúng ta chưa từng che dấu, nó luôn luôn hiển bày hiện hữu; nhưng tại sao chúng ta không thấy được lại đi tìm cầu nó? Có thể chúng ta lý luận rằng: Sở dĩ chúng ta không nhận thấy tự tánh, là vì tập khí vô minh nhiều đời nhiều kiếp của chúng ta quá dày; bị nó che khuất cái tự tánh của chúng ta, nên không biết chúng ở đâu? nay phải tìm cầu để thấy. Nhưng ở đây, chúng ta có biết rằng cách lý luận đó cũng không thoát ngoài tập khí vô minh của tâm chúng sanh. Vậy thì làm sao để tìm cầu được? Cũng như muốn hết nước đục mà cứ dùng ngước nhơ đổ váo, thì đời nào có nước trong sạch được! Ở đây, việc bàn công án của chúng ta cũng vậy, đáng lý chúng ta phải đốt sạch tất cả những tập khí vô minh để thấy tánh; đằng này chúng ta không làm thế, mà ngược lại mượn khái niệm vô minh này, để giải thích và định nghĩa khái niệm vô minh kia. Như vậy không phải là dùng khái niệm cột khái niệm, dùng tập khí vô minh cột thêm tập khí vô minh vào nữa hay sao? Việc làm của chúng ta như vậy có liên hệ gì đến tự tánh đâu! Ở trên, công án Thiền không phải là đối tượng của mọi nhận thức bàn bạc về ý nghĩa của chúng, theo những lý do mà chúng tôi đã trình bày. Tuy nhiên cũng có một vài ba trường hợp mà chúng ta có thể tìm gặp ở trong văn học Thiền mà chính các vị Thiền sư thực hiện. Nhưng điều đó đối với chúng ta không can hệ chi, vì lối bàn và tụng của các ngài không lìa tự tánh vô phân biệt ; trong khi đó chúng ta xa lìa tự tánh vô phân biệt để sống với trí phân biệt. Vì thế chúng ta không thể đem lời bàn của chúng ta so sánh với lời bàn của các ngài. Hơn nữa, lời bàn của các ngài không bị kẹt vào ngôn ngữ, mặc dù các ngài cũng dùng khái niệm ngôn ngữ để thực hiện. Đây, chúng ta thưởng thức cách bàn và kệ tụng của ngài Vô Môn về công án.
Lời bàn: Dầu có lời bàn luận khúc chiết đều không được. Giảng được một Tạng kinh lớn cũng vô ích. Nếu đáp được chỗ ấy thì khơi dậy được con đường chết trước kia, còn nếu chưa đáp được thì chờ sau này hỏi Di Lặc. Kệ tụng:
Qua lời bàn lời tụng của ngài Vô Môn về công án, chúng ta thấy được gì? Ở đây, rõ ràng ngôn ngữ không bị kẹt vào ý nghĩa bất cứ chủ đích nào cả. Ngôn ngữ ở đây bay lượn thênh thang tự tại, chúng đốt cháy tất cả mọi khái niệm trói buộc trong cuộc sống chúng ta, từ trong tư tưởng ra ngoài lời nói cùng việc làm, và chúng cũng đưa người đọc đến bến bờ hố thẳm vực sâu, rồi sau đó bít hết mọi con đường thối lui của chúng ta; ngay lúc đó một con hổ đói được thả ra, và nơi đây tự chúng ta giải quyết vận mệnh của chúng ta trước hố thẳm! Lúc bấy giờ, là lúc chỉ mành treo chuông; nơi đây chỉ có những kẻ căn cơ tối thượng, và với tâm vô phân biệt, một cuộc tạo phản cơ mê nổi dậy an nhiên nhảy vào hố sâu không đáy; thế là các công án được đốt cháy sạch sành sanh. Vậy thì, lời bàn lời tụng của các ngài chả khác gì một công án. Hoặc mối nghi tình của công án chưa đủ sức tạo phản cơ mê cho hành giả, thì các ngài tạo thêm điều kiện phát triển nghi tình lớn hơn trong lời bàn lời tụng, để cho sự đột biến càng nhanh càng tốt; hoặc thế chân tường của công án không đủ sức tạo phản, các ngài rót thêm sức lực vào khiến phản lực càng tăng lên, để đốt cháy mọi chướng ngại trên đường đi vào tự tại; hoặc sức phủ định mọi kiến chấp của công án không đủ sức lay tỉnh cơ mê hành giả, các ngài tạo thêm điều kiện quyết liệt hơn để đánh gục mọi kiến chấp; hoặc trăm nghìn cái hoặc như vậy, cũng không ngoài mục đích ĐẬP TAN CÁI VỌNG TÂM PHÂN BIỆT CHẤP TRƯỚC VỀ NGÃ-PHÁP, chạy theo các duyên bên ngoài, mà làm mờ đi cái tự tánh thanh tịnh vốn sẵn có nơi mọi người. Tóm lại, lời bàn lời tụng của các Thiền sư chỉ khơi bày và hướng dẫn hành giả nhìn ra cái gút nơi chính công án, và tự chính hành giả mở gút cho chính mình. Ngoài ra lời bàn lời tụng của các Thiền sư không đưa hành giả đến một đáp án nào khả dĩ gọi là hợp tình hợp lý cả; vì hợp tình hợp lý hay đúng đi chăng nữa, cũng chỉ là khái niệm do trí phân biệt đẻ ra mà thôi. Do đó, công án Thiền hay những lời bàn lời tụng của các Thiền sư, vẫn là một bất khả xâm phạm đối với trí phân biệt. Ở đây, chúng ta có thể đặt ra câu hỏi, nếu trí phân biệt không có khả năng để vượt qua công án Thiền; vậy thì các Thiền sư dùng công án làm gì? và các ngài bằng cách nào để vào nhà Tổ? Thật sự, đối với các Thiền sư đã đạt Đạo, thì công án không là gì đối với các ngài cả, nhưng trước khi chưa đạt Đạo, thì công án đối với các ngài là nơi thử thách bước tiến tâm linh, là cửa pháp không cửa, là con đường đưa về hố thẳm không đáy. Nơi đây, nếu các ngài muốn lọt vào nhà Tổ, thì buột phải đốt cháy sạch sành sanh mọi công án bằng thứ lửa trí tuệ tối thượng của tâm vô phân biệt; ngoài thứ lửa này ra, thì chúng ta vô phương xuyên thủng. Tuy nhiên, công án cũng là nơi thử thách bước tiến tâm linh dành cho mọi người. Do đó, cho dù căn cơ hạ liệt tầm thường cũng có khả năng đến với công án. Mặc dù khi chạm vào công án là chạm vào một cánh cửa sắt lạnh lùng, nhưng cũng có hiệu nghiệm ít nhiều. Ở đây, sẽ xảy ra hai cách thái: * Thứ nhất, đối với những kẻ luôn luôn thụ động, không có tự lực tự chủ, thì nó là một chướng ngại không thể vượt qua được nhân đây mà thối lui. * Thứ hai, đối với nhũng kẻ luôn luôn tích cực có tự lực tự chủ, thì trở ngại này cũng chính là động cơ thúc đẩy để tự họ vượt qua chính họ, và cứ thế lao vào hố thẳm. Ở đây, việc gì sẽ xảy ra? Có thể tùy theo căn cơ biến chuyển vào lúc đó của họ: Với người có tâm thì hố thẳm không đáy sẽ biến thành có đáy, và việc thủng trán lỗ đầu, chết đi sống lại sẽ xảy ra, đây chính là cơ hội tốt cho họ tự tạo phản cơ mê, và đẩy mối Nghi tình đến chỗ chín mùi bùng vỡ; còn đối với người vô tâm thì đây là cơ hội cuối cùng để tìm lại Diện mục chính họ nơi hố thẳm không đáy. Vậy thì việc thấy tánh thành Phật không phải là việc không thể không làm được, và công án Thiền không phải vì những lý do trên, mà không vượt qua nổi. Ở đây, hành giả chỉ cần mặt đối mặt với công án Thiền, hay câu thoại đầu cho đến khi nào cái dụng công của hành giả và chúng trở thành một khối. Khi khối Nghi tình này đắc lực, thì cứ thế tạo thành cái thế miên mật đẩy chúng đến chỗ càng ngày càng to lớn, cho đến khi nào căn đầy, đủ duyên thì chúng sẽ bùng vỡ. Ở đây chúng tôi muốn mở ngoặc và đóng ngoặc một tí, vì giai đoạn này là giai đoạn nhất tâm miên mật vô phân biệt; nên đối với cuộc sống chung quanh, hành giả không bị lệ thuộc chi phối bỡi chúng. Giờ đây hành giả như người đui, người mù, người điếc, người câm, đôi lúc họ quên cả ăn uống ngủ nghỉ làm việc... Vì lúc này là lúc ngũ căn của họ không bị ngũ trần bên ngoài chi phối, do đó những người đang sống chung với họ, với tâm tạp loạn phân biệt như chúng ta, sẽ nhìn thấy cách sống của họ khác với cuộc sống của chúng ta, vì họ đang đi nghịch dòng sanh tử, trong khi chúng ta đang đi thuận dòng sanh tử, có nghĩa là họ đang đi nghịch chiều với chúng ta. Do đó, chúng ta mới có cái nhìn thấy họ như là một người ngu ngốc khờ dại, khùng khùng điên điên, hay nói theo danh từ thời đại là mát mát. Nhưng không sao đó là trạng thái tiến bộ trong việc làm chín mùi hoá khối nghi tình, đã được thể hiện ra bên ngoài, trong việc dụng công có lực của hành giả đã đạt được. Ở đây, hành giả không vì những tiếng thị phi dèm pha nếu có, mà thối thất hay ngã lòng, cứ thế tiếp tục tiến tới để hoàn thành cứu cánh mà chúng ta đã đặt ra. Trong những biểu hiện này, có thể có những kẻ vì chút danh chút lợi mà lừa bịp thiên hạ bằng vào những hành động trên để chứng tỏ rằng ta đã đạt Thiền, ta đã đạt Đạo, thì những việc làm đó trước sau gì chúng cũng sẽ bị phát hiện bỡi thiền sư hướng dẫn. Đây là giai đoạn thử thách và đo bước tiến tâm linh của chính mình, không qua bất cứ một trung gian nào hết, ngoại trừ thiền sư hướng dẫn. Nếu hành giả có căn cơ tối thượng, thì sẽ đốt cháy công án hay câu thoại đầu tự tại bước qua, còn không thì sẽ bị công án làm cho thủng trán lỗ đầu, chết đi sống lại, hay câu thoại đầu tạo thành một khối nghi tình có lực cứ thế đẩy tới chỗ tận cùng. Chính nhờ vào kinh nghiệm chết đi sống lạ𤋮 hay sức mạnh nghi tình này mà hành giả tạo phản cơ mê được, và cuối cùng hành giả đốt sạch hết mọi tập khí vô minh, thỏng tay vào chợ một cách tự tại. Sao chúng ta cũng nên thử thách bước tiến tâm linh của mình như thế nào chứ? Đây chúng ta hãy theo dõi pháp hướng dẫn từng chặn đường qua công án của ngài Mã-Tổ Đạo-Nhứt.
Qua công án này, chúng ta có cảm tưởng rõ ràng là ' Tức tâm tức Phật ' không phải là cửa vào. ' Chẳng phải tâm chẳng phải Phật ' cũng không phải là cửa vào. ' Chẳng phải vật ' cũng không phải là cửa vào. Vậy cái gì là cửa vào nhà Tổ, trong khi mọi lối mọi hướng đều bị bít, đều bị phủ nhận? Ở đây, nếu là kẻ có căn cơ tối thượng, thì qua công án tất cả mọi kiến chấp đều bị đốt sạch, và công án giờ đây chỉ là trò chơi của ngôn ngữ chứ không là gì hết; còn những kẻ căn cơ tầm thường thì việc gì đã xảy ra, khi họ đã chạm mặt vào công án này? Phải chăng ngài Mã Tổ-Đạo Nhứt, đã đặt tâm thức chúng ta trước những thử thách phi lý đối với trí phân biệt hợp tình hợp lý, mà chúng ta đã từng chấp nhận sống với chính nó. Nơi đây, một sức mạnh va chạm giữa hợp lý và phi lý xảy ra, và khối Nghi tình cũng đang hình thành hiện hữu, hoạt động thôi thúc mãnh liệt; đây là cơ hội tốt đưa đến sự bùng vỡ tâm thức hành giả. Đó là một trong muôn ngàn cách mà các vị Thiền sư thường sử dụng trong pháp dạy người của các ngài; với mục đích bóc vỏ vô minh, chỉ bày cái tự tánh vô phân biệt xưa nay của chúng ta, bằng cách dẹp bỏ các duyên bỡi những hành động cụ thể như lời nói, cử chỉ ngay cả đến sự im lặng, mà đại diện cho pháp dạy người độc đáo và táo bạo nhất là hai ngài Đức Sơn và Lâm Tế. Ngài Đức Sơn với lối vung gậy nổi tiếng qua câu: Nói được cũng bị ba mươi hèo, không nói được cũng bị ba mươi hèo." Vậy, trong câu nói này, Đạo lý gì đã xảy ra đây? Dứt khoát vấn đề hợp tình hợp lý, đúng sai của lời nói không thể biện bạch ở đây được. Đó phải chăng là thế chân tường các ngài đặt hành giả vào ngõ bí, ở đây chính hành giả tự khai thông. Nơi đây, nếu ai lanh mắt thì chính Đức Sơn bị ba mươi hèo chứ không phải người bị dồn vào thế chân tường bị. Cũng thể cách dạy người đó, ngài Lâm Tế với tiếng quát kỳ đặc không hai. Ngài không cần nói được hay không nói được, hễ chạm mặt là quát ngay. Tiếng quát này là một nhát kiếm báu kim cương, có khả năng chặt đứt tất cả mọi duyên cho người đối diện; cũng có khả năng đoạt hết mọi ý niệm phân biệt khởi lên nơi hành giả. Ở đây, chỉ có những vị lanh cơ mới phá nổi những chiêu thức kỳ đặc này mà thô, còn không thì bị ù tai nhức óc, và từ thất vọng này đưa đến thất vọng khác. Cũng chính nhờ những thất vọng này, mà hành giả nhen nhúm được khối Nghi tình càng ngày càng thêm lớn mạnh hơn. và cho đến khi nào khối Nghi tình này chín mùi, thì chỉ cần một nhân tố nào đó tự khắc chúng vỡ tung. Qua những trình bày ở trên, rõ ràng công án không phải là đối tượng không thể không vượt qua được. Ở đây, vì giới hạn của đề tài, nên chúng tôi không thể đề cập vấn đề này một cách hoàn toàn đầy đủ hết được. Để thay lời kết luận, chúng tôi tha thiết yêu cầu mọi người trong chúng ta, hãy vì sự nghiệp giải thoát của mọi người, mà ngưng đi những việc làm tai hại đó, vì chúng không có lợi, mà ngược lại sẽ có hại cho chính ngày hôm nay và ngay cả mai sau; bỡi vì chúng sanh trong thời kỳ mạt pháp tình trạng căn cơ của họ nghiêng nặng về lý trí phân biệt. Cho nên đối với những người học Đạo, họ chỉ biết đắm mình vào thế giới ngôn ngữ văn tự, để rồi bị chúng đánh lừa trở thành nô lệ, và tự thõa mãn cho đó là cứu cánh, đáng lý ra chúng chỉ là phương tiện bị vượt qua, nên đức Phật Thích Ca đã từng tiên liệu trong kinh Lăng Già ngài đã phủ nhận: "Bốn mươi chín năm ta chưa hề nói lời nào." Thế mà cái hậu quả ấy vẫn xảy ra, càng ngày càng thêm tệ hại không phương cứu chữa! Chúng ta nên quay nhìn lại xem cái kiến thức, mà chúng ta đã nổ lực thâu lượm nhờ vào ngôn ngữ văn tự, tư duy học hỏi đó, có phải là cái bản lai diện mục xưa nay của chúng ta hay không? Hay đó chỉ là cái quái thai của vọng thức điên đảo phân biệt? Vậy thì cái bộ mặt thật xưa nay của chúng ta nó ở đâu? Hãy cẩn thận! Đừng tự đánh lừa mình! Đừng đánh lừa mọi ngườí! Hãy tự thực hành theo những lời dạy của đức Phật, cho dù chỉ là một chữ hay một câu đi chăng nữa, nếu chúng ta thực hành thấu đáo vượt qua khỏi chúng, thì đó là một việc làm lợi ích, chứ không phải học hỏi so sánh đối chiếu thiên kinh vạn quyển qua ngôn ngữ này ngôn ngữ nọ, để hiểu biết những lời dạy của đức Phật, rồi đem ra bàn luận mổ xẻ phân biệt chúng đúng sai chi li qua sách vở hay lời nói, rốt cuộc tham vẫn còn tham, sân vẫn còn sân, và si vẫn còn si. Đó không phải là mục đích tối hậu của những lời dạy đức Phật, mà mục đích tối hậu của đức Phật là thực hành giải thoát tất cả mọi trói buộc của tham-sân-si ngay trong cuộc sống này, chứ không phải học để biết tham sân si. Như thế chúng ta học để làm gì cho phí công vô ích, trong khi chúng không can hệ gì đến vấn đề giải thoát tham-sân-si!? |
Cập nhật: 27-4-2000 | Đầu trang |