- Giới thiệu đường lối tu thiền của
Phật giáo
- HT. Thích Thanh Từ
A- Dẫn nhập
Tu thiền là thực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì
xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội
bồ đề mới được giác ngộ thành Phật. Chúng ta là Tăng Ni, Phật tử học
giáo lý của Phật thì phải đi theo con đường mà Phật đã đi, không đi
con đường nào khác, dù đường ấy người thuyết giảng nói linh thiêng mầu
nhiệm, chúng ta cũng không theo. Chúng ta cần phải giảng trạch pháp thiền
nào không phải của Phật dạy và pháp thiền nào của Phật dạy, để có
cái nhìn chính xác, để tu và đạt được kết quả tốt đúng với giáo
lý mà mình đã tôn thờ.
- B- Nội dung
- A. Thiền không phải của đạo Phật
1- Thiền chuyển luân xa: Thiền này hành giả dẫn điện
từ rốn ra sau lưng, lên đầu xuống rốn, từ rốn ra sau lưng, lên đầu
xuống rốn, dẫn điện chạy vòng vòng như vậy là chuyển luân xa.
2- Thiền xuất hồn: Hành giả mở các khiếu huyệt
trên thân rồi xuất hồn bay đi học đạo với các bậc thầy chưa từng
biết, sau đó tự thực hành. Thiền này có hai cái hại: Cái hại thứ nhất
là khi mở huyệt đạo để xuất hồn, có người mở không khéo phát điên.
Cái hại thứ hai là xuất hồn bay đi học đạo, ai nói là minh sư liền
theo, không giảng trạch chánh tà nên dễ bị thần linh đánh lừa.
3- Thiền thai tức: Hành giả thở vô, giữ hơi tại
đan điền một lúc rồi mới thở ra, lâu ngày bụng dưới lớn dần như
người nữ có thai, nên gọi là thiền thai tức.
4- Thiền luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần:
Hành giả luyện tinh hóa thành khí, luyện khí hóa thành thần. Đây là lối
tu tiên, đưa người đạt được thần thông du hí khắp mọi nơi.
5- Thiền Yoga hay Du già: Thiền này có nhiều cách tu,
trọng tâm thiền này luyện cho cơ thể khỏe mạnh hơn là giải thoát.
Năm loại thiền kể trên thuộc thiền ngoại đạo, không
phải thiền của đạo Phật.
B. Thiền của đạo Phật
Thiền của đạo Phật trọng tâm phát huy trí tuệ, phá si
mê chấp ngã chấp pháp, để giải thoát sanh tử luân hồi đau khổ. Tạm
chia ra: Thiền nguyên thủy, Thiền Đại thừa phát triển, Thiền tông.
I. Thiền nguyên thủy: Thiền nguyên thủy được truyền
bá ở các nước: Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia... Thiền
nguyên thủy có rất nhiều pháp, ở đây chỉ nêu lên những pháp thường
dùng.
1- Tứ niệm xứ
* Quán thân bất tịnh: Là thấy đúng như thật về thân.
Quán xét thân mình từ đầu tới chân toàn là một đãy da bao bọc não, tủy,
thịt, gân, xương, máu, mủ... Những món này còn nằm trong đãy da thì dễ
coi một chút, nếu nó ra khỏi đãy da thì rất nhơ nhớp. Phần đầu là
quý nhất, thế mà những chất tiết ra từ mắt là ghèn, từ tai là cức
ráy, từ mũi là nước mũi, từ miệng là đờm dãi đều tanh hôi nhơ nhớp,
ai thấy cũng gớm ghê. Thân mình và tay chân cũng như thế; chỗ nào trong
thân bài tiết ra cũng đều tanh hôi nhơ nhớp, không có cái nào là sạch,
là quý cả. Nếu bên trong thân sạch sẽ thì khi tiết ra có mùi thơm.
Nhưng vì quá dơ bẩn nên tiết ra có mùi tanh hôi nhơ nhớp mà lúc nào
chúng ta cũng ảo tưởng thân mình là đẹp, là sạch, là quý... Do si mê thấy
thân lầm lẫn như thế, nên tự cao ngã mạn phát sanh bao nhiêu thứ phiền
não. Do đó, Phật dạy chúng ta phải thấy đúng như thật về thân, để
phá cái nhân si mê chấp ngã, dứt mầm luân hồi sanh tử.
* Quán thọ là khổ: Thọ là những cảm giác mà mình lãnh
thọ. Mắt thấy hình sắc đẹp tâm ưa thích là cảm thọ lạc, thấy hình
sắc xấu tâm chán ghét là cảm thọ khổ. Tai nghe âm thanh nhẹ nhàng trầm
bổng vừa ý là cảm thọ lạc, nghe âm thanh nặng nề chát tai tâm bực bội
là cảm thọ khổ. Mũi, lưỡi, thân, ý cũng như thế. Mắt thấy sắc không
xấu không đẹp, tai nghe tiếng không hay không dở... tâm không ưa không
ghét là cảm thọ không khổ không lạc. Thọ khổ thì thấy khổ quá rõ,
còn thọ lạc tại sao lại khổ? Ví dụ lưỡi nếm thức ăn ngon là thọ lạc,
nhưng thọ lạc chỉ trong phút chốc, thức ăn qua khỏi cổ là hết, hết rồi
nhưng còn muốn nữa nên khổ. Cảm thọ không khổ không lạc cũng thế, có
rồi mất, nó vô thường nên khổ.
Con người có hai cái chấp nặng nhất là chấp thân thật
và chấp cảm giác của thân là quý, cho nên mắt đòi sắc đẹp, tai đòi
âm thanh hay, mũi đòi hương thơm... Hết đòi cái này tới đòi cái kia,
không có ngày dừng. Vì không thấy thọ đúng như thật, nên say đắm theo
những cái ưa thích tạm bợ vô thường nên khổ. Phật dạy chúng ta biết
đúng như thật những cảm thọ là vô thường, là khổ, để không đua đòi
thụ hưởng thì không bị lệ thuộc với ngoại trần, được tự do giải
thoát hết khổ.
* Quán tâm vô thường: Tâm người lúc nghĩ tốt lúc nghĩ xấu,
lúc nghĩ chuyện mình lúc nghĩ chuyện người, nghĩ hết chuyện này tới
chuyện khác, không phút giây dừng nghỉ. Tâm nghĩ suy chợt khởi chợt diệt,
không nhất định, luôn luôn chuyển biến vô thường. Thế mà ai cũng cho là
thường, là cố định, là chân lý, người nào nghĩ khác, làm khác ý nghĩ
mình là nổi giận. Vì chấp những nghĩ suy là thường, là chân lý nên
cãi vã, đấu tranh, sát hại, gây đau khổ cho nhau. Do đó, Phật dạy quán
tâm nghĩ suy chợt khởi chợt diệt là vô thường không thật, để không lầm
chấp nó là thường là thật, mới phá được kiến chấp mình đúng, kẻ
khác sai.
* Quán pháp vô ngã: Có hai cách quán.
a)- Pháp chỉ cho những niệm buồn, thương, giận, ghét...
Những niệm này không có chủ thể, không cố định; khi thì buồn lúc thì
vui, khi thì thương lúc thì ghét... làm cho con người rối rắm bất an. Phật
dạy quán những pháp này là tướng không cố định, không có thật, để
phá niệm chấp ngã về tâm.
b)- Pháp còn chỉ cho tất cả sự vật như bàn, ghế, nhà cửa,
ruộng vườn... Với mắt người phàm tục thì thấy cái bàn thật, cái ghế
thật... Nhưng với mắt người trí tuệ thì thấy cái bàn cái ghế không
thật mà do các duyên như gỗ, đinh, công thợ... hợp lại tạm có, có một
thời gian rồi hoại diệt, nên nói là vô ngã, không có chủ thể. Thân người
cũng là một pháp, cũng do đất nước gió lửa hợp lại tạm có, có rồi
hoại diệt.
Phật dạy quán các pháp đúng như thật của nó là vô ngã
để phá chấp thân là thật, chấp tâm là thật, chấp cảnh là thật. Khi
thấy thân, tâm, cảnh không thật thì hết mê muội, hết luyến ái, hết
chạy theo người, chạy theo cảnh.
2- Minh sát tuệ
Hành giả dùng trí tuệ thấy rõ và theo dõi từng cử động
nơi thân, hoặc những ý nghĩ khởi lên nơi tâm. Ví dụ hơi thở vô bụng
phồng lên, hành giả biết và chú ý niệm thầm "phồng à". Khi thở
ra bụng xẹp xuống, hành giả biết và chú ý niệm "xẹp à". Hoặc
tâm khởi tưởng điều gì phải biết ngay tâm đang tưởng tượng và niệm
(thầm) liền "tưởng tượng à, tưởng tượng à"... Đó là thiền
Minh sát tuệ.
Người theo Phật giáo Nguyên thủy tu thiền, hoặc quán Tứ
niệm xứ, hoặc ứng dụng Minh sát tuệ, hoặc quán Ngũ đình tâm. Đó là
những pháp thiền người tu theo Phật giáo Nguyên thủy thường dùng.
II. Thiền Phật giáo Đại thừa
hay Phật giáo Phát triển
Thiền Phật giáo Đại thừa hay Phật giáo Phát triển được
truyền bá ở Trung Hoa. Đại sư Trí Khải dạy tu thiền theo Lục diệu
pháp môn gốc từ Phật giáo Nguyên thủy, nhờ ứng dụng khéo thành pháp
tu của Đại thừa.
1- Lục diệu pháp môn
- Sổ tức: Hành giả điều hòa hơi thở không mạnh, không
gấp, yên ổn, thong thả... hít vô thở ra đếm từ một tới mười, nhiếp
tâm tại số, không cho dong ruổi gọi là sổ tức. Tâm hành giả vận chuyển
tự nhiên theo hơi thở với số không cần gia công, biết hơi thở rỗng nhẹ,
tưởng tâm lần lần tế nhị. Khi không muốn đếm thì bỏ sổ tức tu
tùy tức.
- Tùy tức: Xả pháp sổ tức, tâm nương theo hơi thở ra vào,
hơi thở vào thì theo vào, hơi thở ra thì theo ra, dứt hết các duyên, ý
không phân tán. Biết hơi thở ra vô là thô, muốn bỏ, khi ấy xả tùy tức
tu chỉ.
- Chỉ: Dứt các duyên lự, không nhớ đếm hơi thở hay
theo hơi thở, tâm ngưng lặng gọi là tu chỉ. Biết thân tâm đứng lặng vào
định, không thấy tướng mạo trong ngoài, hành giả khởi nghĩ định này
tuy vô vi tịch tịnh, an ổn, khoái lạc, nhưng không có trí tuệ, không thể
phá hoại nhân sanh tử. Khởi nghĩ như thế, không đắm nơi chỉ mà khởi
quán.
- Quán: Tâm ở trong định dùng tuệ quán tưởng hơi thở
ra vào vi tế như gió trong hư không, ba mươi sáu vật trong thân không thật,
như bẹ chuối; tâm thức vô thường sanh diệt, từng sát na không có ta và
người, người đã không có thì định nương vào đâu? Quán như thế, biết
hơi thở ra vào khắp các lỗ chân lông, tâm sáng, thấy trong thân ngoài
thân đều bất tịnh, biến đổi từng sát na, tâm quán lưu động, không
phải đạo chân thật. Khi ấy xả quán tu hoàn.
- Hoàn: Đã biết quán từ tâm sanh hoặc từ phân tích cảnh
sanh đều không hợp bản nguyên, phải phản quán, quán lại tâm năng quán,
quán tâm này từ đâu sanh, gọi là tu hoàn.
- Tịnh: Bấy giờ tâm đã thanh tịnh, không còn nương theo
hơi thở, không còn quán. Đó là tịnh.
2- Tam quán
Đại sư Trí Khải còn dạy tu theo Tam quán là quán không,
quán giả và quán trung. Hành giả quán tất cả pháp trên thế gian này do
nhân duyên hợp mà tạm có hình tướng, tạm có tên gọi, không có thật
thể, nên nói là không. Tuy là không nhưng duyên hợp thì nó giả có. Vì giả
có nên quán giả. Nếu thấy được nghĩa không giả hòa hợp là quán
trung.
III. Thiền tông
Sau đây là pháp tu của Thiền tông. Tổ Bồ Đề Đạt Ma từ
Êẽn Độ sang Trung Hoa, Ngài ở chùa Thiếu Lâm, ngồi xoay mặt vào vách
không tiếp người gần chín năm. Hôm ấy vào tiết mùa Đông có Thần
Quang là một thiền khách đến yết kiến, thấy Tổ ngồi xoay mặt vào
vách, đứng chắp tay chờ mãi, tuyết rơi lên tới gối. Tổ quay lại thấy,
hỏi:
- Ngươi đến đây cầu cái gì mà chịu khổ hạnh như vậy?
Thần Quang thưa:
- Cúi mong Hòa thượng từ bi mở cửa cam lồ rộng độ chúng
con.
- Diệu đạo vô thượng của chư Phật dù nhiều kiếp tinh
tấn, hay làm việc khó làm, hay nhẫn được việc khó nhẫn, còn không thể
đến thay, huống là dùng chút công lao nhỏ này mà cầu được pháp chân
thừa!
Thần Quang nghe dạy bèn lén lấy dao chặt cánh tay đặt
trước Tổ tỏ lòng thiết tha cầu đạo. Tổ biết đây là pháp khí bèn dạy:
- Chư Phật lúc ban đầu cầu đạo, vì pháp quên thân, nay
ngươi chặt cánh tay để trước ta, tâm cầu đạo như vậy cũng khá.
Qua câu chuyện, chúng ta thấy Phật pháp cao siêu tuyệt vời
đưa tới giải thoát sanh tử. Người tu đạo phải quyết tâm gan dạ xem
thường thân mạng mới có thể đạt được, còn tu lai rai cầm chừng thì
không thể tiến được.
Sau đó, Thần Quang thưa:
- Pháp ấn của chư Phật, con có thể được nghe chăng?
- Pháp ấn của chư Phật không phải từ người khác mà
được.
- Tâm con chưa an, xin thầy dạy pháp an tâm.
- Ngươi đem tâm ra đây ta an cho.
Thần Quang nhìn lại tâm mình, tìm mãi không thấy ở đâu,
bèn thưa:
- Bạch Hòa thượng, con tìm tâm không được.
- Ta đã an tâm cho ngươi rồi.
Ngay đó Thần Quang lãnh hội, biết pháp an tâm, Tổ đặt tên
là Huệ Khả.
Từ lâu, ai cũng như ai đều cho cái nghĩ suy là tâm mình,
nên hết nghĩ việc này, tới nghĩ việc kia, tâm lúc nào cũng loạn động
bất an. Tổ bảo đem tâm ra ta an cho là bảo xoay lại tìm cái nghĩ suy lăng
xăng đó ở đâu? - Khi xoay lại tìm thì nó lặng mất. Ý nghĩ lăng xăng mất
ngay để tâm an. Vậy, xoay lại tìm ý nghĩ lăng xăng, thì ý nghĩ lăng xăng
lặng, đó là phương pháp tu để được an tâm, để được định. Đây
là phản quang tự kỷ, xoay lại soi sáng tâm mình, Tổ dạy tu một cách
đơn giản, rõ ràng và thực tế, không phải chuyện xa vời không thực hiện
được.
Về sau, Tổ Huệ Khả cũng dạy cho ngài Tăng Xán như thế.
Một hôm có một cư sĩ đến đảnh lễ Tổ, thưa:
- Đệ tử mang bệnh ghẻ lở đầy mình, xin thầy từ bi
vì đệ tử sám tội.
Tổ bảo:
- Đem tội ra, ta sẽ vì ngươi sám hối.
Cư sĩ đứng sững giây lâu, thưa:
- Đệ tử tìm tội không được.
- Ta vì ngươi sám hối rồi.
Sám hối cũng là lối phản quang tự kỷ. Ở trước thì phản
quang tìm tâm (vọng tưởng), bây giờ thì phản quang tìm tội.
Về sau nữa, Tổ Tăng Xán cũng dạy cho Sa di Đạo Tín như
thế. Sa di Đạo Tín đến đảnh lễ Tổ, thưa:
- Xin Hòa thượng từ bi ban cho con pháp môn giải thoát.
Tổ hỏi:
- Ai trói buộc ngươi?
- Không ai trói buộc.
- Không ai trói buộc đâu cần cầu giải thoát?
Đạo Tín nghe liền đại ngộ.
Các Ngài ngộ đạo đều xoay lại mình tìm coi vọng niệm
có thật không, nghiệp tội có thật không, sự trói buộc có thật không?
Thấy tất cả đều là ảo tưởng không có thật. Thấy nó không thật là
ngộ được lý Thiền. Đó là lối phản quang tự kỷ.
Từ đời Tống trở về trước, Thiền tông chưa có pháp
tu khán thoại đầu. Từ đời Tống trở về sau, các Thiền sư Trung Hoa
trong tông Lâm Tế thấy đa số Tăng Ni đều thông hiểu lý Thiền, nhưng không
chịu tu mà chỉ nói suông, nên các Ngài dạy khán thoại đầu không cho
tìm hiểu nghĩa lý để nói suông nữa.
Khán thoại đầu là pháp tu mà hành giả dồn hết tâm lực
khán câu thoại đầu do vị thầy hướng dẫn đưa ra cho tới khi ngộ.
Trong thời gian này không học kinh luận, ngoại trừ những buổi khai thị của
vị thầy. Hiện giờ, đa số Tăng Ni và Phật tử chưa thấu suốt lý Thiền,
nên chúng tôi không hướng dẫn khán thoại đầu mà phải giảng dạy cho
hiểu lý Thiền, hiểu rồi mới biết đường lối tu. Đó là tùy thời
tùy cảnh mà dùng phương tiện cho hợp với căn cơ của người đương thời
để tu cho có kết quả tốt.
C- Kết luận
Tu thiền là một pháp tu thực tế phù hợp với tinh thần
khoa học hiện đại. Tâm chúng ta khởi vọng tưởng phiền não, chúng ta
khéo quán thì vọng tưởng lặng, hết phiền não, tâm an định. Tu tới đâu
có kết quả lợi ích tới đó, rất cụ thể, không xa vời. Vọng tưởng
phiền não là cái không thật hư ảo, nơi mình sẵn có Phật tánh là cái
chân thật bị vọng tưởng phiền não che khuất, bây giờ bỏ hết vọng tưởng
thì Phật tánh hiện ra. Đó là những vấn đề chủ yếu của việc tu thiền./.
-oOo-