...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Mười Điều Biện Ma Cho Người Tu Thiền
- Thiền Sư Siêu Minh viết
- TT. Thích Nhật Quang thuật
Lời Đầu Sách
Ban ngày ban mặt lại có vấn đề ma mị sao? Không nên ngủ mê nói mớ
làm cho thiên hạ một phen chạy loạn lăng xăng. Thực ra ma với không ma cũng
tại ta. Một niệm không dừng được là ma dẫn ta vào luân hồi sanh tử,
một niệm ta làm chủ được hoàn toàn thì đất nước ta thanh bình. Thế
thì có ma gì? Chẳng qua tất cả tự ta mà ra.
Còn như thuật trị ma xưa nay trong thiền đường thường dùng là "Điều
được tâm lăng xăng của mình, dừng được vọng tưởng điên đảo của
mình". Tương đối ổn định được vọng tưởng của mình, ông chủ
đã nắm quyền làm chủ được, còn nói gì là ma với không ma? Nói cho
cùng ma hay không ma cũng chỉ một cách nói thôi. Chỉ xin là trên lộ trình
Phật Đạo ta không nên dừng lại ở bất cứ nơi nào, mà phải tiến và
khắc tiến đến cùng mới tới nhà. Cũng lại không có một chút gì để
cho ta nắm bắt đâu, mà phải buông và buông cho thật sạch mới ổn.
Do vậy xin cũng phải ghé mắt qua, tạm thời để thấy cách trị ma và
gì là ma, mà người xưa muốn chỉ. Quả thực điều này sẽ rất bổ ích
cho ta, nếu là "con ngỗng chúa biết bỏ nước uống sữa", và cũng
sẽ không ích lợi gì với những ai chỉ chuyên nắm đông bắt tây, quàng
xiên xuôi ngược cả đời để mất toi một thời thuận lợi của mình.
Dám khuyên kẻ đồng chí trong tông môn hãy gắng ghi nhận lời này.
- Thiền viện Thường Chiếu
Xuân Ất Hợi 1995
- T.K Thích Nhật Quang
Kính ghi
Xuất Xứ: Đây là Lời Đầu Sách do Thượng Tọa Thích Nhật
Quang viết
Nguyên là trước khi ấn tống quyển Những bước tu thiền tập 5 này,
chúng tôi có xin phép và đề nghị ngài viết cho "Lời Đầu Sách"
để chúng tôi ấn tống, nên có Lời Đầu Sách này.
Suối Trắc Bá
(Địa chỉ liên lạc: RR # 3 Lanark, Ontario - K0G 1K0 Canada)
Lời Nói Đầu
Đáp ứng nhu cầu tình hình mới, Viện đặt ra kế hoạch sản xuất. Luôn
mấy năm (1975-1981), tôi về Thường Chiếu, cùng đại chúng ở đây làm ruộng
rẫy. Thường Chiếu trơ trọi giữa khung trời nắng gió và đầy cỏ gai.
Kế hoạch của Viện trong những năm đầu quá nhọc, mấy năm sau lại
thiếu thốn kinh nghiệm, thành thử kinh tế của Viện tương đối có phần
khó khăn. Số chúng từ 20 giảm dần chỉ còn 1/3 thôi. Trong số 1/3 còn lại
này, phần nhiều sức khỏe suy sụp, công phu tu hành cũng theo đà đó mà
thấp dần và có thể đưa đến bế tắc.
Đầu năm 81, trong phương án chỉnh đốn lại sinh hoạt của Viện, tôi
một Thiền sinh được ban lãnh đạo Thiền Viện cho phép nghỉ sinh hoạt
theo chúng một năm và được nhập thất để chấn chỉnh công phu đồng
thời bồi dưỡng sức khỏe đã bị tổn thương trong mấy năm qua.
Chương trình một năm này, tôi tự xếp thành từng chu kỳ, mỗi chu kỳ
là ba tháng công phu. Số ngày còn lại, tôi dùng vào việc tự kiểm ưu
khuyết điểm của mình để chẩn bị cho chu kỳ tới. Cũng trong thời gian
này, nhân đọc lại các sách Thầy Viện Chủ giảng, tôi thấy phần nói về
mười thứ ma trong tập "Vạn Pháp Qui Tâm" của ngài Tổ Nguyên
Siêu Minh rất bổ ích cho người mới vào thiền. Tự xét đến công phu của
mình, rồi nghĩ đến những kẻ đến sau, tôi mạo muội thuật lại và
thêm phần chú dưới mỗi đoạn.
Mong rằng: Việc làm tuy cỏn con này, nhưng có thể bổ túc cho chỗ thiếu
sót của các đồng đạo mới vào Thiền Viện, còn xa lạ và ngại ngùng
đối với pháp tu mà hoàn cảnh và thời gian chưa cho phép nghiên tầm sâu
rộng hơn trong các giáo điển. Mười loại ma chướng này thật ra cũng không
ngoài tâm mà có. Bởi tâm chưa an, hạnh chưa thuần lại thiếu kinh nghiệm,
nên khi đối duyên xúc cảnh liền bị chướng ngại tác động, chưa sống
được với cái bất động chân thật của mình.
Mà đã bị ngoại cảnh chi phối, tất nhiên mắt huệ chư sáng. Bởi mắt
huệ chưa sáng, nên bị ngoại cảnh làm lầm. Đã lầm chạy theo, thì tạo
nghiệp rồi nối tiếp ngược suôi trong các nẻo.
Thuật giả hy vọng qua mười thứ ma chướng này, sẽ làm sáng tỏ đường
lối dụng công tu hành cho các hành giả còn sơ cơ. Trông mong các bậc Đạo
nhãn chỉ điểm cho những chỗ chưa hợp với tông môn. Ngoài ra, nếu việc
làm này hợp với tâm tông của Phật Tổ, con xin dâng lên và hồi hướng
cho tất cả Thiện Tri Thức tương lai, nhân đây, rút kinh nghiệm hạ thủ
đắc lực hơn, ngay đời này phá vỡ khối si mê nhiều kiếp cho xong.
- Mùa thu Tân Dậu 1981
- Tỳ Kheo Nhật Quang
Kính ghi
- Người Dụng Công Tu Thiền Phải Biện Rành Mười
Thứ Ma
- Thiền Sư Siêu Minh Viết
- TT. Thích Nhật Quang Thuật
Người ngộ Đạo tu thiền, bởi chẳng phải là việc tầm thường, nên
dễ bị các thứ ma trong ngoài não loạn chánh định. Nếu tự mình không
làm chủ được, liền sinh ái trước các cảnh. Nhân cảnh tâm động, kẹt
vào rọ ma. Thế thì, vốn là nhân lành, trái lại gặt quả chẳng lành. Kẻ
sơ cơ đời sau nên thận trọng đề phòng đó.
Ở đây, nêu ra 10 điều biện ma, tự phải gẫm xét. Gặp tâm ma và
thiên ma nên dùng trí tuệ quán chiếu, ma nghiệt liền tiêu. Tâm nhơ nếu sạch
thì các chướng tự bặt, cái gì lại sợ thiên ma? Nó làm gì mê hoặc
được tâm người chơn chánh? Nay 10 thứ ma này sẽ thuật rõ sau đây:
(1) Ma oan nghiệt nhiều đời
(2) Ma bên ngoài đến làm mê hoặc
(3) Ma phiền não
(4) Ma sở tri
(5) Ma tà kiến
(6) Ma vọng tưởng
(7) Ma khẩu nghiệp
(8) Ma bệnh khổ
(9) Ma ngủ
(10) Thiên ma
Bởi mười thứ ma này vừa nêu nó hay làm nhiễu loạn kẻ mộ Đạo tu
hành, nhất là người tu Thiền chơn chánh, nên các hành giả phải đề phòng
cẩn mật.
1. Ma Oan Nghiệt Nhiều Đời
Loại ma này chính là nghiệp chướng nhiều đời của ta. Bởi từ nhiều
kiếp đến nay, chúng ta bị luân hồi, quanh quẩn trong phàm vi, lầm tạo những
nghiệp chẳng trung, chẳng hiếu, chẳng nhân, chẳng nghĩa. Sát, đạo, dâm,
vọng, tham, sân, si, ái. Kết chặt những oan gia đời nay gặp gỡ. Trong khi
chúng ta muốn học đại đạo, nó lại quấy nhiễu chẳng an, làm chướng
ngăn việc tu hành khiến chẳng thành tựu được. Chúng ta phải hổ thẹn
khẩn thiết cầu sám hối. Trông mong uy lực Tam Bảo gia hộ khiến những
oan nghiệt nhiều đời đó tự sẽ tiêu diệt, tự nó thối tan.
Lại, chúng ta phải phát nguyện lớn làm lợi ích tất cả chúng sanh, để
mau được quả vô lậu, chứng Đạo Bồ Đề.
Là kẻ mới học tu Thiền phải tự sám hối và mãnh tỉnh lấy.
Chú
Luân hồi tiếp nối, biển khổ mênh mang chúng sanh trôi giạt, hạt bụi
trời kẻ chưa tỉnh không làm thế nào nhận ra sự kiện này! Ai là kẻ biết
được ngày mai của mình ra sao? Và thấy được oan khiên túc trái của
mình thế nào? Có kẻ nghe nói: " Tuổi thọ của ta sánh bằng trời đất",
liền bảo: "Gớm thế! Ta là quái gì mà tuổi thọ thênh thang và mênh
mang đến thế!". Người xưa nói: "Sanh như đắp chăn bông. Tử như
cởi áo hạ" là đạo lý gì? Thử nói xem! Chỉ thêm một trường huyễn
mộng. Tuy nhiên, chỗ thênh thang mênh mang này ít người vào, không ai chịu
nhận. Thì thôi, cứ rong chơi cho hết cuộc phong trần. Một lúc nào đó,
quày đầu nhìn lại đoạn nhân duyên phù trầm này, chắc y không khỏi một
phen tan thân mất mạng. Thế nhưng, nếu chưa phải là hạng đại lực lượng
thì phải ai khẩn sám hối, nương uy lực vô song của Tam Bảo, mọi mộng
mơ phía trước tiêu tan. Đã thế, lại cần phát đại nguyện như hư không,
vào cõi huyễn, độ chúng sanh huyễn, để hoàn thành Phật đạo như huyễn.
2. Ma bên ngoài đến làm mê hoặc
Loại ma này còn gọi là người làm chướng, kẻ bất tín hay nhỏ mọn.
Sang hèn chẳng đồng bực. Họ não loạn định tâm khiến người tu chẳng
được yên ổn. Nói chung là do hành giả tự thiếu quyền chước, hoặc
thiếu lễ nghĩa, hoặc tự cao, hoặc ngã mạn, hoặc hay nói thẳng, hoặc
hành động thô, hoặc dựa thế lực, hoặc ỷ tài hơn, hoặc nói ác, hoặc
cho mình giỏi, hoặc nói điều dở của người, hoặc thiếu dáng vẻ hòa
dịu, hoặc không cung kính, hoặc lượng hẹp hòi, hoặc thiếu nhẫn nại
nên người chẳng tin. Họ làm hoặc loạn việc tu hành khiến tâm động niệm,
che chướng bản minh. Kẻ mộ đạo lớn, phải tự hạ mình, nuôi dưỡng
đạo đức, mới khỏi người ngoài làm chướng. Người trong Tông môn đời
sau nên học đức khoan dung nhẫn nại cố gắng hành Đạo.
Chú
Luận về tánh giác thì vật vật như nhau, người người bình đẳng,
nhưng căn trung hạ cần đức hàm đạo dưỡng mới xong. Nếu kém đạo kém
đức, thêm nỗi mê mờ dầy cộm thì đường tiến thiên nan vạn nan. Lối
sống người đời còn dạy: "Với mình thật nghiêm cẩn, xử thiên hạ
thì hạ mà khoan", huống là đạo lớn giải thoát, lấy trí tuệ làm gốc,
tiêu diệt bản ngã là chỗ đắc lực, mà còn u mê ôm ấp những tình chấp
ngô ngã hẹp hòi đó được ư?
Phật dạy: "Các hành vô thường là pháp sanh diệt". Tổ khuyên:
"Nên tiêu chảy đầy đất mới có chỗ an thân lập mạng". Trên
chiều dọc mà nhìn, chúng ta nhiều kiếp trôi lăn trong sáu nẻo, bởi đeo
mang cái thấy hai: "ta người, kia đây, có không, xấu tốt" . Do đó
và từ đấy mà xuống lên trong ba cõi, xoay quanh trong bốn loài. Chần chờ
gì? Đợi kiếp nào? Sao chưa một phen lay mình chuyển hóa, tạo một niềm
vui, thắp sáng một niềm tin cho mai sau ... Kìa nhìn xem!
Trời đất liếc trông chừ sao thênh thang
Chống gậy rong chơi chừ phương ngoại phương
Hoặc cao cao chừ mây đỉnh núi
Hoặc sâu sâu chừ nước trùng dương.
3. Ma phiền não
Ma phiền não cũng gọi là sự chướng. Người tu hành mà chẳng trừ
được sự chướng thì rối rắm thánh đạo. Thế nào là phiền? Sao gọi
là não? Phiền là chạy theo ngoại cảnh, não ấy là tự sanh trong tâm, người
tu Thiền quyết phải dứt hẳn. Nếu chẳng dứt sớm thì tánh định khó
hiện. Như thấy sắc tâm sanh là tâm dâm phiền não. Khi thấy giết tâm
sanh là tâm ác phiền não. Thấy của tâm sanh là tâm trộm phiền não. Thấy
vật tâm sanh là tâm tham phiền não. Với người sanh mạn là ngã tướng
phiền não. Đối kẻ thấp kiêu ngạo là phiền não tự đại. Gặp cảnh
nghịch sanh sân là tâm khuể phiền não. Gặp cảnh thuận vui mừng là phiền
não thích ý. Gặp oan gia sanh ghét là tâm hận phiền não. Cùng thân thích
sinh ưa là tâm tư phiền não. Nói tóm lại: Với tất cả cái thấy bên
ngoài mà trong sanh tâm thủ xả, đều là phiền não khó nói cho cùng. Thế
nên những người tham thiền phải quyết dứt sự chướng. Sự chướng nếu
chẳng không, chánh định bị não loạn. Người tu đời sau, đâu nên xem thường
nó ư!
Chú
Còn lầm ngoại cảnh nên còn phiền não. Bởi chưa thấy thật tánh giả
cảnh rối rắm, lăng xăng mờ ảo, tháo gỡ cách nào cho xong! Người xưa nói:
"Vật từ cửa đem vào, không phải là của báu trong nhà". Của
báu trong nhà là gì? Mọi người sẵn có, luôn luôn đầy đủ, tánh tự bản
nhiên, vào phàm vào thánh không đổi, không xanh không diệt, xưa nay bình đẳng,
một đạo sáng suốt. Như đã nói, bởi thật giả chưa phân nên bao nhiêu
điều vụn vặt trước mắt "Nắm đông bắt tây" luống sanh phiền
bực. Đáng thương! Cũng bậc vương giả, gặp loạn trầm luân, uổng đời
trôi giạt, vùi thân trong chỗ bùn lầy, nát phận cùng loài man mọi. Mặt
mũi thật xưa nay khó nhìn. Đường về quê cũ vẫn còn diệu vợi, chưa dễ
một sớm một chiều mà biết được.
Khổ thay! Khổ thay!!
4. Ma sở tri
Ma nầy tức lý chướng. Người tu thiền mà lý chướng chẳng trừ, thì
chánh định bị nhiễu loạn, không thể nào yên ổn được. Vì sao sở tri
có lỗi như thế?
Chính vì biết ta đắc ngộ, biết ta thông Tông, biết ta minh giáo, biết
ta hội lý, văn ta lỗi lạc, ta thấy sâu rông, ta giữ giới nghiêm, ta được
chánh định, ta có trí tuệ, ta đã chứng không, ta được tự tại, ta không
còn ngại, biết ta được thông, biết ta được diệu, ta đã chứng đạo,
ta được thành Phật ... Tất cả cái biết đó đều là lý chướng. Lý chướng
này chẳng trừ, thì chấp pháp khó quên, chấp pháp chưa quên thì chân tâm
chẳng hiện. Người trong Tông môn, nên phải tự xét. Sớm dứt chướng này.
Chú
Vừa quay lưng với giả cảnh lại nắm bắt nội tâm, cứ như thế mà
chạy mà tìm, thật là một trường ảo mộng! Si mê lui, phiền não dứt,
ma sở tri này thuộc pháp chấp nên khó đoạn. Hàng Bồ Tát đến Đệ thập
nhất địa vẫn còn chút sở tri ngu. Với loại ma này hành giả đã dầy
công, chân trí đã phát triển, lại luôn luôn nhắm thẳng Phật đạo mà
tiến, dần dần hàng phục nó.
Tóm lại biên cương ma Phật không thật có. Còn thấy có hai, còn chấp
là thế này, thế nọ, là ma. Phá vỡ các cái thấy biết hai bên thiên lệch
"có không" đó, tiến thẳng vào vực Đệ Nhất Nghĩa không, tức
là Như Lai địa bất sanh, bất diệt. Khi này, cả hai danh từ Phật ma
không chỗ lập cước, không còn bóng dáng pháp hay phi pháp, tất cả quét
sạch là chỗ "không pháp có thể tu, không Phật có thể thành". Chỗ
này tối kyý thuyết suông, phải buông thân mạng, nỗ lực hành trì mới
có chút phần tương ưng. Cố gắng! Cố gắng!!
Hình ảnh và lời quả quyết của bậc Đại Sĩ dưới cội Bồ Đề
năm xưa như còn đồng vọng: "Nếu không đạt Đạo dù thân này tan
nát thành tro bụi, ta quyết chẳng rời chỗ ngồi này".
Dũng mãnh tinh tấn vô biên! Lời cả quyết của đấng cha lành ba cõi. Từ
bi tri tuệ vô tận! Lời quả quyết của bậc Đạo Sư muôn loài! Lời quả
quyết cuả Người, gông cùm ba cõi tiêu tan. Ánh huệ nhật chiếu rạng,
quét sạch mọi mê mờ của chúng sanh.
Chúng con, những chúng sanh bất hạnh! Chỉ nương chút âm vang diệu vợi
của người. Đau đớn, cố gắng, nguyền xếp mình làm tròn di huấn muôn
thuở.
5. Ma tà kiến
Ma này thường gọi là chấp chướng. Người tu thiền định muốn khỏi
rơi vào định tà, thì phải dứt tà kiến. Vì sao tà kiến làm mất chánh
định như thế?
Bởi các cố chấp như: Chấp tánh chẳng hoại gọi là chấp có, chấp
tánh vốn không gọi là chấp không. Chấp vốn bất tử gọi là chấp thường.
Chấp theo hơi hám diệt gọi là chấp đoạn. Chấp không sanh ra có là kiến
chấp thuộc tự nhiên. Chấp khí hóa ra hình là thuộc chấp tà nhân... Như
thế gồm các loại cố chấp chẳng có, chẳng không, tức có, tức không
và tất cả tà chấp, tà kiến, nhân duyên tự nhiên, đều chẳng rời hai
đầu có không, đoạn thường, tự chướng bản lý, dần dần xa vào các
ngõ tẻ.
Chú
Còn thấy hai, còn vọng tưởng; muốn dứt vọng tưởng, chớ thấy hai.
Muốn đến chỗ chẳng thấy hai, chỉ một phen "biết vọng liền buông".
Buông hết, bố thí sạch, tự nhiên yên ổn. Người xưa nói: "Tìm tâm
chẳng được". Chỉ câu "tìm chẳng được" này là chỗ dứt
bạch sạch hết, chẳng còn gì để mò bắt. Thế nên, liền khi đó được
xác minh một cách tỏ rằng: "Ta đã an tâm cho ông rồi". Thật là
một thủ thuật giản dị lạ thường, chưa từng có, là phương pháp
không phương pháp, không để dấu vết,là không tam muội. Chỗ độc đáo
này chỉ thầy trò tương đắc, người ngoài không chỗ dùi mài. Tuy nhiên
cửa cam lồ đã mở, lòng từ bi của Phật Tổ tràn khắp nơi nơi. Chúng
ta phải tự nỗ lực, không việc gì ngoài mình, đừng chạy lăng xăng vô
ích. Người tu hành nào không điều được tâm, cứ để buông lung, ruổi
theo cảnh ngoài, sẽ vướng các chấp, hoặc có, hoặc không, hoặc đoạn,
hoặc thường...
Xa dần chánh đạo, bản lý bị chướng. Bản lý tức là pháp môn không
hai, cũng chính là Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa không. Bản lý này đã không
sáng, tức nhiên các lối tẻ hiện bày và như thế hành giả này lạc vào
đường tà bị tà ma ốp. Thân tu Đạo chánh, tâm đã theo tà, miệng nói
việc tà, dự trước đoán sau, lấy làm kế sống. Lâu dần tà lực cũng mất.
Hành giả tự mất thăng bằng, hiện thân mang họa. Cuối cùng bị đọa
đường ác.
Thế nên các thiền giả thận trọng từng bước, chớ vọng cầu, phải
triệt để hoàn toàn cơ sở chấp ngã. Đồng thời mạnh mẽ siêng năng
áp dụng công phu quyết một đời xô ngã núi sê mi, phá tan hành trì ngã
chấp. Nên nhớ! "Nam nhi tự hữu xung thiên chí ..." Vừa nói gì ??
6. Ma vọng tưởng
Ma vọng tưởng này là tự chướng. Tự chướng chẳng không thì dòng
sanh diệt tiếp nối, điên đảo tán loạn chê chướng bản tâm, do đó người
tham Thiền cần phải lư tâm nhiều ở điểm này. Nay xin đưa ra một vài vọng
chướng tiêu biểu để trình bày như:
- Vọng tưởng ta ngộ đạo
- Vọng tưởng ta tu chứng
- Vọng tưởng ta được định
- Vọng tưởng ta phát Huệ
- Vọng tưởng ta biết nhiều
- Vọng tưởng ta giỏi văn
- Vọng tưởng ta có danh hiển đạt
- Vọng tưởng nhiều người cung phụng ta
- Vọng tưởng ta làm thầy thiên hạ
- Vọng tưởng nhiều người qui hướng ta
- Vọng tưởng ta nối tiếp Tổ đăng
- Vọng tưởng ta sẽ làm trụ trì
- Vọng tưởng ta hoá Đạo
- Vọng tưởng ta truyền lục
- Vọng tưởng nhiều người nối dõi ta
- Vọng tưởng ta sẽ được nhập tạng
- Vọng tưởng ta có thần thông
- Vọng tưởng ta được huyền diệu
- Vọng tưởng ta rất kỳ đặc
và có nhiều quái lạ như: ta sẽ sống lâu, ta sẽ cải lão hoàn đồng,
ta sẽ bay cao, ta sẽ thành Phật... Các cuồng vọng như thế làm rối rắm
động niệm, trái với chân thể thanh tịnh của mình. Vì thế, người sơ
cơ học Đạo phải biết mà dứt nó.
Chú
Mê mờ bản lý, nên điên đảo vọng tưởng. Vọng tưởng sinh động thì
bản tâm bị che chướng. Loanh quanh mãi trong mê mờ cuồng vọng, tức chân
thể thanh tịnh chìm lặng. Khác gì kẻ đi trong đêm đen không đèn đuốc.
Người xưa nói: "Đất tâm nếu không, mặt trời trí tuệ tự chiếu".
Nơi đây chúng ta có thể nói cách khác rằng nếu chúng ta chịu dừng thì
chuyện gì điên đảo? Vọng tưởng là gì? Thử nhìn lại xem! Vốn dĩ là
ảo mộng mà! Lỗi chúng ta cứ chấp rồi lao theo. Lao theo nên điên đảo.
Đã điên đảo thì vọng càng thêm vọng. Ngay đây nếu chúng ta biết dừng,
còn gì lăng xăng nắm bắt! Còn chăng hư không thênh thang rỗng suốt, cái
gì mê mờ chướng ngại cái gì? Thử nói xem!
Tóm lại là chúng ta có chịu dừng hay không? Dừng thì trời
"Không" sáng suốt, đất tâm yên ổn, huệ nhật hằng soi, thiếu
sót chỗ nào?
Trái lại rong rêu mải miết, nên hóa điên cuồng. Khổ thay! Khổ thay!
Có thi rằng:
- Lớn thay! người sức mạnh
- Biết vọng liền khôngtheo
- Quê xưa trăng tỏ rạng
- Tùng xanh tiếng suối reo
- Khoái thay! người biết vọng
- Miền "chân không" mở ra
- Đường xưa tự bày hiện
- Quê nhà thật không xa
- Hương quê thoảng trăng sao
- Tình quê miền bất nhị
- Hư không trải gấm hoa
- Người quê một mình đi
- Gió ngát hương giải thoát
- Hoa đơm đóa từ bi
- Tuyết tuôn thành định lực
- Trăng soi bất tư nghì
- Một tiếng quát!
7. Ma khẩu nghiệp
Ma này là cuồng chướng. Người tu mà chẳng kiểm điểm ngôn ngữ của
mình mặc ý cao đàm hùng biện, làm tổn thần lao niệm, sẽ mất Thiền định
chân chánh. Nhân sao mà khẩu nghiệp có lỗi lớn như thế? Bởi hay: Đàm
huyền thuyết diệu, giảng giáo nói tông. Khoe mình đắc ngộ, chê người
ngu mê. Luận chỗ hay dở. Nói điều phải quấy của người. Ngâm ca thi
phú, nói bừa những việc không đâu. Bình nghị những việc hưng phế xưa
nay của quốc gia, xưa thì cho người hiền mà ngu, nay thì bảo người hung
mà giỏi. Toàn những việc chẳng dính líu về mình mà cứ gân cổ tranh luận.
Lại vô cớ khen chê việc hơn thua của người. Phô diễn các cảnh dục lạc,
khiến người sanh đắm trước. Bàn cãi những chuyện bất bình làm cho kẻ
nghe phát phẫn. Trước mắt thì công kênh đề cao. Sau lưng thì lại chê
bai biếm nhẽ. Đó là những lời nói lợi hại làm mất chánh định của
người. Người tu Thiền đời sau phải thận trọng nghiêm ngặt. Bởi loại
cuồng chướng này, chẳng những làm cho chúng ta chẳng kiệm ngôn, dưỡng
đức mà còn khiến cho tâm chúng ta tán động.
Thế nên những kẻ sơ cơ, phải ngừa phòng khẩu nghiệp cẩn thận!
Chú
Ba nghiệp thân miệng ý. Miệng có bốn lỗi là: nói lời dữ, nói dối
vọng, nói thêu dệt, nói hai chiều. Công phu đến đây, hành giả không
khéo điều phục khẩu nghiệp có thể sanh ra đại ngôn cuồng vọng, buông
lời bừa bãi làm chướng ngăn con đường vào thánh. Vì lẽ đã có chút
công phu, lại nếm trải và thu hoạch phần nào kết quả trong sự tu tập,
luôn luôn hành giả tự thấy mình được chút gì gì đó gọi là "sở
đắc". Từ căn cứ này, nếu tâm chưa thật an thì chính "chút sở
đắc" đó làm hại hành giả. Ngay đây, người có mắt sáng liền
khám phá kịp thời những cuồng vọng, tạo thế an bình cho chánh định.
Trái lại, với người biện biệt chưa rành, thủ thuật chưa khéo thì ngô
ngã phân ranh, si mê chồm dậy. Cứ thế buông xuôi lao theo, chẳng khác nào
thùng rỗng khua vang. Thực tế mà nhận sở đắc gì? Mình được cái gì?
Tương lai mù mịt, đường trước lờ mờ. Dự phóng gì? Nhìn trước ngó
sau, khối si mê nhiều kiếp chưa chuyển nổi, núi nhân ngã lâu đời chưa
đập tan. Khổ thay! Ngồi đó mà khua động môi lưỡi. Chính mình chưa yên,
thì nói gì đến việc hay dở của người, sự hưng phế của nước. Thì
thôi! Đã biết nói nhiều loạn tâm tổn thần, thì sao ngang đây chưa chịu
dứt bặt, sống lại cho chính mình để tâm mình được an ổn, định lực
của mình được kiên cố. Tóm lại:
Người hay nói - Loạn
Người nói nhiều - Tổn
Người xưa bảo: "Hãy bịt lỗ đít lại mới có chút phần tương
ưng" . Lời này của người xưa, bọn ta hết chỗ cắm mỏ. Khoái thay!
8. Ma bệnh khổ
Đây là khổ chướng. Thân có nhiều bệnh tật là do nghiệp nặng. Hoặc
tự mình làm mất sự điều hòa, biến sanh các thứ bệnh, làm cho người
học đạo tu hành chẳng an, chẳng thọ dụng được pháp lạc thù thắng.
Nay xin nêu dẫn một vài điều thiết yếu để người tu hành đề phòng.
Trước hết phải điều hòa tì vị, chỉ nên dùng những thức ăn thích
hợp với cơ thể. Bớt ăn những vị quá đậm đà. Chớ ăn đồ sống và
lạnh, khi đói chớ tụng đọc, khi no chớ làm việc nặng, sau khi ăn không
nên ngủ liền. Về đêm chớ ăn no quá.
Tóm lại người ưa ăn những thứ nhừ nát, hoặc thích những thứ rang
nấu. Khoái ăn đồ ướp ngũ vị, dùng nhiều những thứ không hợp với
thân. Lại, ngồi thiền chỗ đất thấp, ngủ nghỉ chỗ gió nhiều. Lúc ra
mồ hôi mà xuống nước. Đang dang nắng mà dùng đồ lạnh mát. Tắm rửa
ngoài trời trống gió, ngủ nghỉ dưới chỗ nhiều sương. Cùng các trường
hợp: no quá, đói quá, mừng quá, giận quá, nóng quá, lạnh quá. Chỗ mưa
nhiều, sương nhiều, trong thương ngoài cảm tất cả tại lỗi không biết
điều hòa, nên hay sinh các chứng thương nhọt, thân không làm sao an được.
Kẻ tu học đời sau phải biết để phòng bị đó.
Chú
Người tu hành trước nhất phải thấy thân này và ngoại cảnh đều không
thật, là báo nghiệp không tự tại của mình. Nó hư giả, mỏng manh, bại
hoại, là pháp sinh diệt vô thường. Tuy nhiên chúng ta cần nó, đang dùng
nó trong việc tu hành thì phải điều chỉnh thế nào cho nó được yên ổn,để
Đạo nghiệp của ta được viên mãn. Kinh nghiệm sống ở đời. Việc ăn
uống ngủ nghỉ, chúng ta phải luôn luôn điều hợp thích đáng. cái gì
thái quá hay sanh bất cập. Đã vậy việc áp dụng thân tâm tu hành hàng
ngày chúng ta cũng phải tiết chế, không nên cố chấp. Như ta đã biết,
thân này tạm bợ như rắn độc chung lồng, việc kích động chống trái
nhau không lúc nào vắng thiếu. lại thêm cảnh nóng lạnh bức ngặt bên
ngoài phụ họa, làm cho đã khổ lại càng khổ, nên nói: "khổ, khổ".
Chúng ta là người đã thấy được phần nào nguyên nhân các khổ. Chúng
ta cũng có sẵn phương pháp dứt trừ nguyên nhân các khổ đó. Nắm chắc
bảo đảm và rõ ràng. Như vậy chúng ta còn ngần ngại gì? Chần chờ lúc
nào nữa? Chưa chịu hạ thủ cho rồi? Người xưa nói: "Nay đây quyết
một đời này cho xong".
Chúng ta cũng thấy rằng: "Muốn dứt tai ương về sau, ngay đây phải
quyết định. Trong lúc chúng ta còn đủ sáng suốt, đủ điều kiện, nắm
sẵn cơ hội trong tay, mà chúng ta chưa chịu dứt khoát còn đợi gì nữa?"
Chớ để ngày qua, già suy bệnh hoạn thân thể suy hao, tinh thần mờ tối,
chẳng đủ sức dụng công đắc lực, không còn hạ thủ một cách quyết
liệt nổi. Gắng lên!
Cảnh huyễn, người huyễn, ta mượn tạm các cái huyễn để làm việc
huyễn, mọi việc xong rồi huyễn pháp đều buông. Tổ sư nói: "Thân
huyễn nhà mộng, vật sắc hư không đời trước không định, kiếp sau đâu
thông. Xuống lên xuôi ngược, thay đổi mất công, ba cõi ràng buộc biết
thuở nào xong..."
Ngay đây quyết định là xong, một buông tất cả đều buông, không thì
nhiều kiếp mang tai họa! Cố gắng! Quỉ dữ vô thường không phân biệt
thân sơ, chẳng nhận đồ đút lót. Chúng ta tự liệu trước, việc đến
trở tay không kịp, khi đó kêu khổ ai cứu cho? Chi bằng ngay bây giờ tự
xoay lại mình hỏi thử: Ta là gì? Ôi chao!
9. Ma Hôn Trầm
Tức là chướng ngại của ngủ nghỉ quá nhiều. Nếu người tu hành
không tự rèn luyện để thời gian ngủ nghỉ quá nhiều thì chân tâm chẳng
sáng, tánh huệ lặng chìm, sẽ rơi vào chỗ mờ tối, núi đen hang quỷ.
Nguyên nhân nào mà ngủ nghỉ nhiều sanh chướng như thế.
Đấy cũng bởi do ăn nhiều, dùng toàn chất vị đậm đà. Nói nhiều tổn
hơi, thân nhọc, tỳ khốn tinh thần không minh mẫn, hơi trược hỗn loạn.
Kẻ ngu si nhiều bực tức, l 婠lười nhác
buông lung, chẳng nhớ việc sanh tử, chỉ thích vui giả tạm. Người dụng
công tu hành phải khắc tỉnh tinh tiến, noi gương người xưa dùng đùi đâm
bắp thịt, đụng đầu vào gốc cột, lạy Phật và đốt đèn, đi kinh hành
chỗ hiểm, thân chịu khó mài luyện, ma ngủ mới nhẹ dần. Kẻ thiếu khổ
luyện hay mặc tình rong rêu, chân tâm bị mờ tối, những người tu thiền,
dũng mãnh hàng phục chướng này/p>
Chú
Các chướng kể trên trừ oan chướng nhiều đời và cách đề phòng những
lỗi thái quá trong lúc dụng công. Ngoài ra đều do hành giả chưa nhận
được bản tâm, chưa thấy thật tánh, rong ruổi bên ngoài, cuồng loạn vọng
tưởng mà gây nên. Nay xét về những chướng ngại của ma ngủ như đã
nói: "Cái gì thái quá thì sanh bất cập". Cũng vậy để cho ma ngủ
tự do quá, thì việc dụng công cuả chúng ta không tiến. Tâm huệ không
phát là ngủ ngà ngủ gật, thiếu sự sáng suốt là cảnh giới núi đen
hang quỉ. Người tu hành lọt vào đó, họa tan thân mất mạng không thể
tránh khỏi, nói gì là tiến đạo nghiêm thân? Hơn nữa ma ngủ cùng loạn
tưởng là hai ác chướng khó trị nhất của các thiền giả. Có thể nói
rằng hai chướng này là hai gọng kìm luôn luôn kẹp chặt hai đầu, bao vây
hành giả, lẩn quẩn trong đó. Với hai chướng này, hành giả phải siêng
năng, mạnh mẽ lập thệ quyết định buông bỏ thân mạng khắc trị bọn
chúng đạt Đạo mới thôi. Mặt khác hành giả phải khẩn cầu sám hối
những chi tập đời trước, đồng thời phòng bị nghiêm nhặt không để
cho chúng có cơ hội nhỏ nào hẻo lánh được. Hội đủ những điều trên
rồi, hành giả còn phải khéo léo điều thích thân tâm đối với ngoại cảnh,
chớ nên để lệch ngã mà lý sự phải viên dung. Ngừời xưa bảo: Khắc
chữ Tử trên trán.
Hoặc phải nhớ khẩu hiệu: Sinh tử việc lớn vô thường nhanh chóng.
Trong lúc dụng công, hành giả chỉ một bề ngó thẳng tới trước mà
tiến. Quăng ném tất cả sở hữu, dẹp bỏ liên hệ chung quanh, ngay khi
nhào nặn công phu không để việc ngoài dính mắc. Giả sử ốm đau cũng
được, đói khổ cũng xong, lành lặn cũng được, rách rưới cũng chả
sao, sống đến 120 tuổi cũng được, ngã chết tại chỗ cũng thế thôi.
Tóm lại, đối với cảnh ngoài thế nào cũng được, hành giả chớ nên bận
tâm, chỉ dồn mọi nỗ lực, áp dụng công phu sao cho đắc lực, được
như thế mới có ngày xong. Người xưa dùng dùi đâm vào bắp thịt, đụng
đầu vào gốc cột...Gương sáng còn đó, chúng ta phải lấy đó noi theo,
chớ cho dễ dàng, để một đời trôi suông vô ích.
Trong phần nói về ma oan nghiệt nhiều đời ở trước và phần nói về
ma mê ngủ này, ngoài cách tự tỉnh, tự tiến, còn dặn hành giả phải khẩn
thiết sám hối. Ở đây, theo thiển ý của bút giả, xin nêu ra phương pháp
sám hối có hai:
Tác pháp sám hối - Cách này như trong các kinh Đại Thừa dạy: Sám hối
bằng cách thống trách tự mình, ai khẩn trông cầu mười phương Tam Bảo
xót thương chứng biết. Lại phát chí kiên quyết dứt bỏ những lỗi lầm
đã gây. Đồng thời nương vào bi trí vô biên của mười phương Tam Bảo,
nguyện giữ vững tâm niệm, sống theo lời dạy của các Hiền Thánh.
Tâm niệm sám hối - Sám hối tự tâm, tức là trong sinh hoạt hàng ngày.
Vừa có một niệm khởi lên liền buông không theo. Luôn tự khám phá, khéo
làm việc này cho được liên tục. Càng buông định lực càng mạnh. Huệ
giác càng sáng, được thế oan nghiệp nhiều đời sẽ chuyển. Vọng nhiễm
chấp trước truyền kiếp tiêu tan. Huệ-không bày hiện. Khi này, gì là tội?
Sám hối cái gì?
10. Thiên ma
Loại ma này chẳng giống các ma kể trên. Đây là người tu hành chân
chánh sắp được chứng Đạo. Tâm tình đã thông hợp trạm nhiên chẳng
động, khiến bọn thiên ma và các quỉ thần thảy đều kinh hoảng, cung
điện của chúng sụp đổ, cõi đại địa chấn động. Ma chúa mất hồn,
ma dân té hoảng. Các loại ma mị, phần nhiều có ngũ thông, bọn chúng
kéo đến não loạn hành nhân làm cho chẳng vào được vị thánh. Chúng biến
các cảnh quái dị, và các cảnh dục làm rối loạn tâm định của hành
giả. Nếu trong tâm hành giả vừa có mảy may niệm thủ xả, thì bọn kia
nắm được tiện lợi. Hành giả sẽ bị hại, tự phát điên cuồng cho rằng
mình thành Phật. Hiện đời không thoát khỏi vương pháp. Khi chết sa vào
ngục vô gián.
Vì thế những kẻ tham thiền, phải chánh niệm phân minh, trí huệ luôn
sáng suốt, một lòng thường chẳng động. Mặc cho bọn ma kia tác uy, tác
quái, ta như chẳng thấy, chẳng nghe. Dùng chánh định hàng ma như thế, tự
nhiên loài ma mị tiêu diệt. Các hành giả đời sau dè dặt biện rành đó.
Chú
Ma cũng tự tâm, không ma cũng tự tâm; ma, không ma gì cũng tự tâm; còn
mống tâm dấy niệm là còn tâm ma. Từ trên mười thứ ma chướng, chẳng
ngoài tâm ta mà có ra. Tâm ta nếu lặng yên chẳng động, ngàn thánh còn chẳng
biết, huống loài ma mị làm gì biết được.
Tuy nhiên các hành giả trong Tông môn là người tu hành chân chánh phải
luôn luôn phòng bị tâm mình cho cẩn mật, chớ để cho bọn ma mị bên
ngoài có cơ hội thuận tiện. Công phu càng đắc lực, hành giả càng cẩn
mật hơn, bởi tâm càng tịnh, ma lực càng mãnh liệt. Giai đoạn này chánh
niệm phải tỏ rõ, trí huệ luôn chiếu suốt, tâm an trụ chẳng động. Đã
vậy, thì mặc cho loài ma quái kia quấy phá, khác nào bọn chúng nắm bắt
hư không.
Để đúc kết những điều trình bày trên, các hành giả sơ cơ nên nhận
rằng: "Tâm là gốc, ma không ma gì cũng tự tâm ta. Tâm động ma loạn,
tâm bất động là chỗ không thể nghĩ bàn, cảnh giới này ngàn thánh xuất
thế cũng chẳng biết huống nữa là ma". Như vậy:
Muốn ngồi yên trị ma thì phải thế nào?
Chỉ có bất động. Tâm bất động thì đất nước yên lành, các bóng
dáng ma mị dứt bặt. Người xưa nói: Một tâm chẳng sanh, muôn pháp đều
bặt". Hoặc nói: Mê ngủ nếu không, các mộng tự trừ . Còn nói mớ,
nói mộng làm gì?
Thế thôi!
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/to-27-bienma.htm
|
|