- Phật Dạy Chăn Trâu
- Tuệ Sỹ
Không hung hăng tàn bạo, bản tánh vốn thuần hậu dễ
sai khiến, siêng năng và nhiều nhẫn nại; nhưng lại hay làm bậy do
sự si ngốc. Đó là đặc tính của trâu, mà cũng là đặc tính của
chúng sinh. Phật không nhất thiết coi chúng sinh như trâu bò. Kinh Phật
mà nói đến trâu, là nói đến bản tính si ngốc, vô trí nơi mỗi
loài chúng sinh. Hiệu của Phật là Điều ngự sư, nên ngài là một
người chăn, hay một người đánh xe khéo léo, đưa chúng sinh đến
thành trì an lạc của giải thoát.
Sự si ngốc của chúng sinh không chỉ có một. Nó si
ngốc tùy theo loại, nên cũng có cấp bực, có mỗi cách điều phục
riêng biệt. Từ các hàng phàm phu, cho đến các hàng Thanh văn, Bồ
tát, và cả đến các thiền sư, ngoại hạng, mỗi hành động và mỗi
nỗ lực cho hành động, đều được ví với các cách chăn trâu.
TRÂU CỦA PHÀM PHU
Kinh pháp cú, bài kệ I, phẩm Song yếu, nói :
" Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm là chủ, tâm
tạo tác tất cả. Nếu ai nói năng hay hành động với tâm bất
thiện, khổ não sẽ đi theo như bánh xe lăn theo chân con vật kéo
xe."
Trong bài kệ này, nghiệp được ví như con vật kéo xe,
mà nguyên ngữ Pàli là vahato, không nhất thiết phải là trâu. Nhưng
cũng có thể nói đó là trâu.
Nghiệp được ví là trâu, vì tất cả nghiệp tạo tác
đều được điều động bởi vô minh, cũng như con trâu được
điều động kéo xe vì sự si ngốc của nó.
Kinh pháp cú, bài kệ 135, phẩm Đao trượng, nói :
"Như người chăn trâu cầm gậy lùa đàn trâu ra
đồng cỏ. Cũng vậy, tuổi già và sự chết xua đuổi mạng sống ra
đi."
Mạng sống, hay tuổi thọ của mỗi chúng sinh, được ví
như một con trâu, tuổi già là cây gậy, đồng cỏ là sự chết, và
thằng chăn là nghiệp lực. Đời sống của chúng sinh bị nghiệp lực
xua đuổi đi tới sự chết bằng tuổi già, như con trâu bị thằng
chăn xua đuổi ra đồng cỏ bằng cây gậy. Con trâu nhắm tới đồng
cỏ, sự sống nhắm tới sự chết. Chúng sinh không tự chủ trong
hành động, cũng như trâu không tự chủ trong sở thích của nó.
TRÂU CỦA THANH VĂN
Tần-bà-ta-la, quốc vương xứ Ma-kiệt-đà, thỉnh Phật
và năm trăm đệ tử Phật cúng dường trong ba tháng. Vương dọn
sữa tươi cúng Phật và chúng Tỳ kheo tăng, nên cho gọi những
người chăn trâu ngày ngày mang sữa tươi đến. Sau ba tháng, quốc
vương thương cảm những người này, muốn cho họ đến hầu Phật. Họ
đến hầu Phật, sung sướng được chiêm ngưỡng dung nhan của Phật.
Nhưng không biết gì để thưa hỏi. Vì họ là những người chăn,
nên chỉ biết việc chăn mà thôi. Họ đem việc đó hỏi Phật, chăn
thế nào cho có hiệu quả thiết thực. Phật dạy :
Nếu biết giữ mười một điều thì người chăn có
thể làm cho bầy trâu mạnh khoẻ và nhiều thêm.
Nhân đó, Phật cũng dạy các thầy Tỳ kheo phải biết
mười một pháp, để cho thiện pháp được tăng trưởng.
Đây là mười một điều tâm niệm của người chăn,
tương xứng với mười một điều tâm niệm của thầy Tỳ kheo :
1) Biết sắc. Biết các sắc của trâu: sắc đen, sắc
trắng, sắc tạp.
Tỳ kheo cũng thế. Biết hết thảy sắc pháp đều là
tứ đại và tứ đại sở tạo.
2) Biết tướng. Biết trâu có tướng tốt hay không
có tướng tốt. Do so với các bầy trâu khác mà biết. Tỳ kheo cũng
vậy. Thấy tướng thiện nghiệp thì biết là người trí, thấy tướng
ác nghiệp thì biết là người ngu.
3) Biết mổ xẻ. Khi trâu bị các trùng độc hút máu,
các vết thương lở ra. Biết mổ xẻ thì trừ được các điều có
hại. Tỳ kheo cũng vậy. Thấy cái đó là ác, thì biết là loài
trùng độc hút máu thiện căn làm vết thương của tâm lở thêm ra.
Biết trừ đi thì được an ổn.
4) Biết che vết thương. Hoặc lấy vải, hoặc lấy lá
cây, che các vết thương, không để cho ruồi muỗi châm chích. Tỳ kheo
cũng vậy. Niệm pháp chánh quán để che vết thương lục tình, không
để cho các trùng độc phiền não tham dục, sân nhuế, ngu si châm
chích gây ra vết thương.
5) Biết nhóm khói. Nhóm khói là để trừ các loài
ruồi muỗi. Trâu nhìn xa thì nhằm chỗ đó mà về nhà. Tỳ kheo cũng
vậy. Đúng như điều được nghe mà thuyết để trừ các loài ruồi
muỗi kết sử, lấy ngọn khói chánh pháp để dẫn chúng sinh về trong
nhà vô ngã, thật tướng, tánh không.
6) Biết đường tốt. Biết con đường đi về của trâu
tốt hay xấu. Tỳ kheo cũng vậy. Biết con đường bát thánh có thể
đi đến Niết-bàn, lìa con đường xấu chấp đoạn chấp thường.
7) Biết chỗ trâu thích hợp. Biết nơi nào thích hợp
cho trâu sinh sôi nảy nở, ít bịnh. Tỳ kheo cũng vậy. Khi giảng thuyết
Phật pháp thì được pháp hỉ thanh tịnh, các thiện căn thêm lên.
8) Biết đưa qua sông. Biết chỗ dễ lội xuống, dễ đi
qua, không có sóng dữ, không có trùng độc. Tỳ kheo cũng vậy.
Thường đến chỗ của những Tỳ kheo đa văn mà hỏi pháp, tâm sáng
hay tối, phiền não nặng hay nhẹ, khiến cho được vào bến tốt, an
lành mà được độ thoát.
9) Biết an ổn. Biết chỗ ở có hay không có cọp beo,
sư tử, ác trùng, độc thú. Tỳ kheo cũng vậy. Biết bốn niệm xứ
là chỗ an ổn, không có ác ma, độc thú, phiền não. Tỳ kheo vào
ở chỗ đó sẽ được an ổn, không lo ngại.
10) Biết giữ sữa. Trâu mẹ thương yêu trâu nghé
nên lén cho sữa. Nếu biết giữ sữa còn lại cho trâu mẹ hoan hỉ,
trâu con không bị khát sữa. Như vậy, chủ trâu và người chăn
trâu ngày ngày có thêm điều ích lợi. Tỳ kheo cũng vậy. Bạch y cư
sĩ cung cấp các thứ y phục, ẩm thực, nên biết tiết lượng, không
để khánh kiệt; đàn việt sẽ hoan hỉ, tín tâm do đó không dứt.
Mà người thọ nhận sẽ không bị thiếu hụt.
11) Biết nuôi trâu đầu đàn. Con trâu nào lớn nhất,
có thể giữ được cả đàn trâu, nên phải giữ gìn không để
tiều tụy. Uống thì cho dầu lạc, trang sức thì cho vòng hoa, tiêu biểu
thì lấy sừng sắt cọ mài, vuốt ve khen ngợi
Tỳ kheo cũng thế.
Trong chúng tăng có bậc đại nhân có uy đức, hộ trì chánh pháp,
hàng phục ngoại đạo, có thể khiến cho tâm chúng được gieo các
thiện căn, nên tùy sở nghi mà cung kính cúng dường
Những người chăn trâu sau khi nghe Phật giảng các
cách chăn trâu cặn kẽ như vậy, rất lấy làm thán phục. Họ kinh
ngạc, không tưởng được một hoàng tử suốt đời chưa từng
chăn trâu, mà lại biết rành rẽ về các cách chăn trâu như vậy.
Họ nói với nhau rằng, trong nghề của mình, biết nhiều lắm ba hoặc
bốn chuyện. Dù đến bậc thầy chăn trâu cũng chỉ biết năm hay sáu
chuyện là cùng. Phật lại biết cả mười một cách, quả ngài là
bậc Nhất thiết trí. Theo họ, Nhất thiết trí, một danh hiệu thường
được dùng tôn xưng đức Phật, có nghĩa là cái gì cũng biết,
cả đến việc chăn trâu cũng phải biết.
TRÂU CỦA BỒ TÁT
Trước đây, trong quyển tranh chăn trâu, do An tiêm
xuất bản, tôi có cho in các bài văn ngắn của các cao tăng Trung hoa
thời xưa, và trích dịch 30 bài thơ, vừa xướng vừa họa, cũng của
các cao tăng Trung hoa, về tranh chăn trâu. Nay nhân dịp này, tôi dịch
ra đây mười bài thơ khác, trích trong quyển Tịnh độ chứng tâm
tập, của Vạn Liên, đời Thanh, trước thuật.
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc luyện
tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc
mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến
những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho
thuần tánh. Từ khi tìm trâu để chăn cho đến khi việc chăn thành
tựu, trải qua mười giai đoạn,
- 1) TÌM TRÂU
- Giá điều tuấn lĩnh thảo ly ly
- Hoa lạc lâm gian bát nhãn mi
- Đáo thử dĩ tương trân thế cách
- Na biên ưng bả tục tình di
- Trùng trùng hàng thọ hàm thù thắng
- Yết yết dư hà đĩnh tú ti
- Mịch biến khê sơn vô tích thú
- Hồn nhiên đại khởi nhất đoàn nghi.
-
- Núi cao cây cỏ mịt mùng
- Vén mày tìm lối hoa rừng mà qua
- Chợ đời một cõi cách xa
- Tình đời thôi hãy gác ra cõi ngoài
- Chập chùng biết mấy hàng cây
- Ráng chiều vời vợi vẻ ngày lên cao
- Nầy non kìa suối tìm đâu
- Lòng ôm một nỗi mấy bầu hoài nghi
-
-
-
- 2) THẤY DẤU
- Thanh phong xuy phá bích vân yên
- Trực thượng cao phong tuyệt đảnh biên
- Khê lộ điều điều lai nhãn để
- Đề ngân ẩn ẩn đáo ngân tiền
- Tương phùng tợ suyển tùng sao nguyệt
- Tạc hiến như khuy tỉnh lý thiên
- Truy hướng Qui sơn cừ diện mục
- Giá hồi y cựu bất năng xuyên
-
- Gió lành thổi dạt mây mờ
- Trèo lên tuyệt đỉnh trơ vô tuyệt vời
- Liếc chừng con suối chảy xuôi
- Dấu chân thấp thoáng đây rồi phải chăng
- Tuồng chi thông réo vờn trăng
- Vẻ chi đáy giếng mà trong bóng trời
- Non Qui chắc có mặt mầy
- Rồi ra chẳng biết đường dây mối nào
-
-
- 3) THẤY TRÂU
- Ngưu nhi nhất kiến tự vong ưu
- Đầu giốc tranh vanh tượng ngoại du
- Bất hưởng cốc trung hô bất trụ
- Vô âm dương xứ hoán vô hưu
- Chân hình lộ địa tiền sinh ngộ
- Thật trí huy thiên xuất thế lưu
- Không bả tị thằng nan hạ thủ
- Ngưng mâu trực thị cánh thâm u
-
- Thấy trâu lọ phải ưu sầu
- Sừng chông chênh chếch ra màu xa khơi
- Kêu vang hốc núi dội lời
- Mà đâu thanh khí cho hoài công lao
- Duyên đời rồi sẽ gặp nhau
- Trí lay trời rộng cõi nào sánh ngang
- Làm sao xỏ mũi tay thừng
- Tròn xoe con mắt trông chừng xa xa
-
- 4) ĐƯỢC TRÂU
- Đốn triệt thiên nhiên thân ngoại thân
- Dã hồ tinh mị cảm đồng luân
- Ngang đầu cố thị hòa thân chuyển
- Ổn bộ du hành thoát tục trần
- Đạp khước hoá thành tam bách chủng
- Canh lai pháp địa thập phấn xuân
- Đoan đoan tị khổng thâm thâm quán
- Bảo thọ âm trung hảo dưỡng thần
-
- Rõ ràng vóc dạng rồi nha !
- Chồn kia cáo nọ không là giống chi
- Ngẩn đầu quay lại bước đi
- Thong dong dạo bước mơ gì trần ai
- Ba trăm quán trọ qua ngay
- Về nơi đất pháp công cày nên xuân
- Sít sao mũi buộc dây thừng
- Cây sao bóng rủ kề lưng giấc hòe
-
-
- 5) CHĂN TRÂU
- Địa khoát thiên cao nhiệm mục đồng
- Khê nam khê bắc dữ khê đông
- Nhân ca nhất khúc tri không hữu
- Tinh khán thiên kinh dẫn dị đồng
- Hàm trạch phong gia mao ốc cổ
- Triệu châu chỉ thú mính hoa dung
- Quát kim huấn luyện thù tiêu tức
- Biến lịch u lâm khí tượng hùng
-
- Mục đồng đất chở trời che
- Này nam, này bắc, này khe mấy dòng
- Nghêu ngao mấy khúc Có Không
- Độc kinh mấy quyển Dị Đồng dửng dưng
- Nhà tranh mái cũ quen chừng
- Chén trà lão Triệu mà chưng hoa ngàn
- Dạy trâu nào phải nhọc nhằn
- Quyền uy đậy cả một vùng cỏ cây
-
- 6) CƯỠI TRÂU
- Nhị thập dư niên trụ thử san
- Xuất san hung thứ thủy an nhàn
- Cao phao thoa liệp tùy phong vũ
- Hảo điệu tiều ca dật hứng ban
- Hoa vũ phi lai do phá xuyết
- Vân lâm qui khứ thiểu đồng ban
- Bát khai phách tử thành tiêu sái
- Ổn tọa bồ đoàn triển tiếu nhan
-
- Hai mươi năm lẻ non này
- Mới yên tất dạ từ đây giã từ
- Tung nón lá, gió đong đưa
-
- Cao lời thấp giọng chi thua lão tiều
- Mưa hoa cánh áo dập diều
- Rừng mâu trên đó ngược chiều dưới ni
- Dang tay phách nhịp đi đi
- Ngồi chơi nệm cỏ mặt hi cười cười
-
- 7) QUÊN TRÂU
- Đắc thủ công huân diệc thị vô
- Vong tình tuyệt lự nhất thân cô
- Du du độc toạ văn đề điểu
- Tịch tịch không hoài quyển trú đồ
- Tự tích dĩ phùng chân tục thú
- Nhi kim bất cổ súc thì đồ
- Hồn dung cư chỉ thùy vi chủ
- Tất cánh tiêu dao một thử mô
-
- Xong rồi công khó thành chơi
- Quên tình quên nghĩa cho người lẻ loi
- Ngồi nghe chim hót chơi vơi
- Tranh chiều rủ xuống đất trời lạnh tăm
- Ngày xưa Chân , Tục xăm xăm
- Bây giờ một dứt mấy tầm cũng thôi
- Nếp nhà bỏ đó mặc ai
- Tiêu dao một chuyến cho đầy ước mong.
-
-
- 8) VẮNG HẾT
- Tịch diệt trân hoài khởi chánh tràng
- Đốn dung minh ám thú phi thường
- An nhiên thoát sái thành du viễn
- Trực hạ trừng ngưng tuyệt ẩn tàng
- Ngọc lậu điêu tàn thiên địa hiểu
- Kim thương ninh tĩnh quốc dân khang
- Ưu du vẫn khế đoan hô xuất
- Nhất vị tiêu dung giác tánh vong
-
- Từ nay cõi Đạo nức lòng
- Lẽ thường sáng tối ôm tròn, lạ thay !
- Nhởn nhơ tách bước cõi ngoài
- Màu trong tiếng lặng tuyệt vời chìm xa
- Canh tàn trời đất sáng ra
- Quăng thương liệng giáo quốc gia thái bình
- Rong chơi theo tiếng tâm tình
- Vẻ chi giác tánh mà mình đeo mang
-
-
- 9) VỀ NGUỒN
- Thượng hạ giao huy thấu triệt thanh
- Qui phàm phong chánh lải chu hành
- Nguyên tuyên cổn cổn tri hà hứa
- Trí hải thâm thâm thùy cảm bình
- Đổng triệt thiên tâm thuyên biểu lý
- Đoan tư chí thú ức tung hoành
- Đoàn loan bản trí nan đồng thưởng
- Chiếu khí xung hòa vạn hủy sanh
-
-
- Một màu trên dưới trong xanh
- Cánh buồm thuận gió con thuyền lênh đênh
- Suối nguồn như thác đổ ghềnh
- Sâu xa biển Trí ai bình cho xuôi
- Tỏ bày cao vút lòng trời
- Dọc ngang chi đó thú này trong tay
- Tròn xoe gốc cội khôn hay
- Hơi xông ngui ngút phủ đầy cỏ hoa.
10) VÀO CHỢ
- Đại triển gia phong độc lộ ki
- Thanh sơn khước chỉ dã vân phi
- Giang hà thủy mãn triền thành khoát
- Tỉnh lý xuân thâm nguyệt sắc vi
- Tọa đối lục dương tiêu tức hảo
- Hành khan bạch cổ tự tri qui
- Sư nhi tận sổ phiên cân đẩu
- Bất xuất lão tăng kim lũy ...(?)
-
- Rõ ràng một bóng thói nhà
- Núi xanh chỉ thấy la đà từng mây
- Phố thị rộng, nước sông đầy
- Màu trăng mờ nhạt xuân dày ruộng nương
- Ngồi xem vẻ biếc cành dương
- Con tâu trăng trắng thuộc đường vãng lai
- Mấy lần sư tử ra oai
- Làm sao hơn nổi áo thầy mà mong.
TRÂU CỦA THIỀN SƯ
Thiền sư không biết tụng kinh, chỉ biết gánh nước,
đốn củi, vo gạo nấu cơm. Chăn trâu có nhiều phép tắc, sư làm sao
nổi? Việc của mình thiền sư không thông, nhưng lại thông việc của
người khác. Bây giờ thử coi các thiền sư có trâu hay không, và
có, thì chăn bằng cách nào ?
1) Có thầy tăng hỏi thiền sư Nam Tuyền: "Một trăm
năm nữa, hoà thượng đi đâu về?".
Sư đáp: "Đi làm một con trâu".
Sư Phần Dương Thượng Chiêu làm bài tụng:
- Loại trung nan biện yếu phân minh
- Đới giốc phi mao tốt vị tinh
- Hàm thủ thảo lai phương định động
- Đầu đầu vật vật tự chân linh
-
- Phải biết cùng loài thì khó biết
- Mang lông đội sừng giống nhau hết
- Ngậm cỏ đưa về rồi mới hay
- Trông trước trông sau ra giả thiệt.
Ý muôn nói, hoà thượng Nam-Tuyền cũng một loại
với trâu. Trâu thiệt hay trâu giả, mang cỏ đến nhử nơi mỏm sẽ
rõ.
2) Thiền sư Dược Sơn, trong buổi vãn tham không đốt
đèn. Sư nói: "Ta có một câu, đợi cho trâu nghé sinh con rồi
sẽ nói cho quý vị biết. Bấy giờ có một thầy tăng bước ra, lên
tiếng: "Nghé sinh con rồi. Chỉ có hoà thượng không chịu nói đó
thôi". Sư kêu thị giả mang đèn đến. Thầy tăng đó rút lui vào
trong chúng.
Thiền sư Phật Nhãn Thanh Viễn làm bài tụng :
- Độc ngưu sinh tử phả tương am
- Lưỡng nhãn thông hồng sắc tợ lam
- Bả hỏa chiếu lai vô mịch xứ
- Đại gia phổ thỉnh nhất thời tham.
-
- Trâu nghé đẻ con biết nhau quá
- Hai mắt đỏ kè mặt như chàm
- Mang lửa rọi vào chuồn mất nhá !
- Cả bọn xin giảng một thời tham (cứu).
3) Thiền sư Triệu Châu Tòng Thẩm hỏi thiền sư Nam
Tuyền : Có biết người nào đi đâu không? Nam Tuyền đáp : "Đi
đến nhà thí chủ ở trước núi làm một con trâu. Tòng Thẩm nói :
"Cảm ơn sư chỉ cho biết". Nam Tuyền bảo : "Đêm rồi canh ba
trăng rọi cửa" (rọi cửa sổ : ăn trộm chắc!)
4) Thiền Sư Qui Sơn Linh Hựu dạy chúng tăng : "Lão
tăng, một trăm năm sau, xuống nhà thí chủ dưới núi làm một con
trâu. Hông bên trái viết năm chữ (mà tiếng Việt lại thành bảy
chữ) : Ông Thầy Chùa Qui Sơn tên Đó. Bấy giờ, nếu gọi nó là
ông thầy chùa Qui Sơn, thì lại là con trâu. Mà gọi con trâu, té ra
là ông thầy chùa Qui Sơn tên Đó. Phải gọi là thứ gì mới
được? Ngưỡng Sơn bước ra lạy rồi bỏ đi"
Thiền Sư Đạo Ngô-Ngộ chân tụng :
- Thủy hồ Qui Sơn trực triệt ki
- Phân minh nhân loại hiển u kỳ
- Lưỡng biên xuất ngữ phân thân xứ
- Dạ điểu đầu lâm hiểu phục phi.
-
- Con trâu, Qui Sơn, thiệt mù tịt
- Rõ ràng là người mới là kỳ
- Bên này bên kia có chữ hết
- Chim đêm về rừng sớm bay đi.
5) Thiền sư Hoàng Bá Hi Vận, một hôm, cùng đi dạo
với quan Tướng quốc họ Bùi, thấy bác thợ cày cày ruộng, bùn
lún sâu, trâu đi không được. Bác đánh nó, Quan họ Bùi động
lòng trắc ẩn, Sư bảo : "Đét cho đau nữa đi!" Họ Bùi nói :
"Ông bạn quí, sao lại nói được như thế?" Sư bảo :
"Cái thứ hai chân, cày làm sao được."
Thiền sư Thuỷ Am tụng :
- Vận sư Bùi tưởng lão bà tâm
- Bất cố nê thâm dữ thuỷ thâm
- Thống bỗng độc chuỳ hành dị loại
- Túng giao bì hạ huyết lâm lâm.
-
- Sư Vận, tướng Bùi, tâm bà nội
- Chẳng kể bùn sâu hay nước sâu
- Gậy đau, chảy độc hành khác loại
- Cái nào cũng máu nhuộm da trâu.
6) Đầu tử Đồng thiền sư, có thầy tăng hỏi:
"Con trâu trắng sờ sờ ra đó, như thế nào?" Sư bảo:
"Rào rạo." Thầy tăng lại hỏi: "Nó uống hút cái
gì?" Sư bảo: "Ken két."
Thiền sư Huệ Giác tụng:
- Lộ địa bạch ngưu khởi vấn đoan
- Tuỳ cơ chả chả xì nha hàn
- Bất tri ẩm hám thị hà vật
- Nghiết nghiết trực giao thương hải càn.
-
- Trâu trắng sờ sờ bày chuyện kháo
- Cứ tuỳ răng lạnh kêu rào rạo
- Chẳng biết uống hút cái thứ gì
- Ken két làm cho biển khô ráo .