Ngày nay, nói đến thiền học
Phật giáo Nguyên Thuỷ, Tăng Ni, nam nữ Phật tử thường nghĩ ngay đến Miến
Điện, hoặc Thái Lan. Bởi lẽ những tác phẩm thiền học nổi danh đương thời
phần lớn đều xuất phát từ các vị danh Sư ở Miến, ở Thái, hoặc các nhà Sư
phương Tây vốn đã nhiều năm tu tập tại rừng thiền bên Thái. Thứ nữa, nhiều
vị Sư Nguyên Thuỷ cũng như các vị tu theo các truyền thống khác cũng đã
từng qua các nơi ấy thăm viếng, gia công hành trì.
Một yếu tố khác có lẽ cũng
không kém phần quan trọng để nhiều người để ý đến thiền học Miến là nhờ
công của Thiền Sư cư sĩ N.S. Goenka. Hiện nay ông đang hướng dẫn thiền tập
Vipassanā tại nhiều trung tâm tu thiền ở Ấn và nhiều trung tâm trực
thuộc trên khắp thế giới. Khi đề cập đến truyền thừa phổ hệ, ông luôn giới
thiệu đất Miến như là mảnh đất Pháp, mảnh đất còn giữ lại truyền thống
thiền tập từ thời Phật tại thế cho đến ngày nay.
Khi hành giả vừa bước vào
trường thiền Dhammagiri tại Igatpuri thuộc Trung Ấn, cơ sở trung ương của
hệ thống thiền Quán này, câu đầu tiên rất lớn đập vào mắt của hành giả là
LỐI VÀO MIẾN ĐIỆN (GATE OF MYANMAR). Chính vì vậy, nhiều thiền sinh
dầu đã từng theo các khoá thiền tập theo truyền thống thiền Quán này tại
Ấn, cũng thầm ao ước ít nhất một lần trong đời đến được đất Miến để học
cốt tuỷ của nhà Phật, đó là phương pháp hành Thiền. Tôi được duyên may mắn
ấy.
Với thời đại thông tin bùng nổ
hiện nay, chúng ta có thể vào internet gõ google để tìm các thông tin về
thiền học ở Miến như thế nào, chúng ta sẽ tìm thấy trên mạng giới thiệu
12,13 trường thiền khác nhau. Những thông tin đó, quả thật không thể nào
cung cấp đầy đủ những chi tiết cần biết cho một thiền sinh nếu chưa từng
qua Miến một lần tham học. Do đó, những trường thiền mà tôi đã vào ở,
trình bày chi tiết hơn, chia thành từng chủ đề: Thiền Lâm Pa-Auk, Thiền
Viện Shwe Oo Min, Thiền Viện Chanmyay, còn những thiền viện mà tôi chỉ có
dịp ghé thăm, hoặc chỉ đọc được một vài mẫu thông tin trên mạng, hoặc
những điều do chư Tăng Ni sinh Việt Nam tại Miến cung cấp thì trình bày sơ
lược trong bài này.
Người viết ghi lại những thông
tin này, trước là làm tròn “phận sự” của các thân hữu “dặn dò.” Thứ hai
nhằm chia sẻ cho tất cả những vị sắp qua Miến tu học có được tầm nhìn tổng
quát về các trường thiền, đời sống, xã hội, nhờ đó chuẩn bị thái độ tâm lý
đúng đắn hơn, khỏi phải hết bỡ ngỡ này đến bỡ ngỡ khác, hoặc rất có thể
khỏi phải thất vọng, sụp đổ với thần tượng của mình mà bấy lâu nay ôm ấp,
tôn thờ chỉ vì những mẫu tin trình bày những mặt tích cực của Miến mà
thôi. Sau gởi cho tất cả những ai có dự định qua đất Miến hoặc cho những
ai không đủ điều kiện đi, vẫn có thể có cái nhìn tổng quát về các vấn đề
liên hệ đến Thiền học ở Miến như thế nào.
I. THIỀN VIỆN
MAHĀSI
1.
Tầm Vóc Lịch Sử
Nói tới thiền viện ở Miến,
người dân Miến có học thức một chút, không ai không nhắc tới Mahāsi
Sāsanā Yeiktha Meditation Centre (Trung Tâm Hoằng Truyền Thiền Học
Mahāsi), thông thường gọi tắt là Thiền viện Mahāsi.
Tôi viếng thăm thiền viện này vào một buổi chiều thu đông trước khi tạm
giã từ đất Miến. Thiền viện nằm nhích bên trong một chút xíu, sát đại lộ
chính dẫn đến các khu khá quan trọng. Đây là một cơ sở lớn có tầm vóc lịch
sử nhất về thiền học tại Miến vào thế kỷ XX, do một vị Đại Thiền Sư và
cũng là vị đại học giả thuộc lòng Tam Tạng Thánh Điển Pāli, đó là Thiền Sư
Mahāsi Sayādaw
(29 / 07 / 1904 – 14 / 08 / 1982).
Người viết có duyên may ghé
thăm phòng làm việc, phòng tiếp khách, và phòng toạ thiền cũng như dãy nhà
dài để cho Ngài thiền hành lúc trước. Qua sự quan sát, chúng ta có thể
thấy rằng, không những Ngài là một vị Thiền Sư tinh thông Tam Tạng Pāli,
mà còn có cách tổ chức đặc biệt, rất quan tâm đến các vấn đề thời sự thế
giới, nên trên bàn làm việc của Ngài có để chiếc radio, máy đánh chữ cũng
đã cũ kỹ lắm rồi. Phong cách này không phải vị Thiền Sư ở Miến hay ở nước
nào cũng có !
Trong các Đại Sư về thiền học ở
Miến trước thời Ngài Mahāsi , vị có tầm vóc, uy tín, ảnh hưởng đến Phật
giáo Miến Điện rất lớn, đó là vị đại hành giả và đồng thời cũng là học giả
Mahā Thera Ledi Sayādaw.
Sau thời Ngài chỉ có Thiền Sư Mahāsi Sayādaw có thể nói là sánh ngang
tầm với Ngài Ledi Sayādaw mà thôi. Lớp đệ tử học trò thành tựu của Ngài
Mahāsi Sayādaw phần lớn đều là những bậc tài đức trác việt, nổi danh một
thuở cả, như HT Shwe Oo Min Sayādaw, HT U. Sīlananda Sayādaw, HT U Āsabha,
HT U Pandita Sayādaw.
2. Cơ Sở Hạ Tầng
và Môi Trường
Cơ sở hạ tầng của thiền viện
khá khang trang. Các công trình chính hầu như đã xây dựng hoàn tất từ năm
1977, và được tu bổ nhiều lần. Diện tích khá rộng nên được chia thành các
khu cho từng nhóm: chư Tăng Miến, nam cư sĩ Miến, nữ cư sĩ Miến, ngoại
quốc. Thiền đường rất lớn ngay cổng vào, có thể dung chứa khoảng 200 thiền
sinh dành cho nữ cư sĩ. Thiền đường ở giữa dành cho chư Tăng và nam cư sĩ
Miến. Thiền đường trên lầu, sát với các dãy lầu của khu ngoại quốc dành
cho hành giả ngoại quốc. Khu ngoại quốc ở rất sạch sẽ và tiện nghi hơn
người bản xứ, có cả tủ lạnh và máy giặt cho thiền sinh. Có những con đường
thiền hành rất trang nhã và thoáng mát.
3. Pháp Môn Tu và
Sách Tham Khảo
Tôi chưa có dịp vào tu nơi đây
nên không dám bảo đảm những suy tưởng của mình là đúng hoàn toàn. Nhưng
tôi tin tưởng rằng, Ngài Mahāsi Sayādaw là vị Đại Thiền Sư quán niệm phồng
xẹp nơi bụng, và các vị đệ tử hiện nay như Ngài U Pandita Sayādaw hoặc
Ngài Chanmyay Sayādaw đều có cùng một chủ trương, nên những gì qúy Ngài
dạy hầu như là giống nhau. Có khác chăng là vì mỗi hành giả có những căn
bệnh khác nhau, được các Thiền Sư chỉ cách hoá giải khác nhau, hoặc khả
năng chứng đắc tâm linh của Thiền Sư đó khác nhau, chứ tất cả đều dựa trên
hệ thống Thất Tịnh và Thập Lục Tuệ.
Tôi có hỏi quý vị Tăng Ni sinh
Việt Nam
đang học ở Miến, tại sao Ngài Mahāsi Sayādaw lại hướng dẫn các thiền sinh
để tâm vào vùng bụng và theo dõi sự phồng xẹp của nó không ? Các vị nói,
các vị Giáo Thọ Thiền Sư giải thích rằng, vì nhiều người không có khả năng
theo dõi hơi thở của mình, nên theo dõi sự phồng xẹp vùng bụng dễ hơn.
Điều này cũng được giải thích trong Hướng Dẫn Thiền Quán.
Tài liệu hướng dẫn về thiền tập
của HT Mahāsi Sayādaw đã được một số vị dịch ra Việt ngữ, đều có đăng
trên mạng Buddhasasana của Cư Sĩ Bình An Sơn (http://www.budsas.org):
Thực Tập Thiền Quán do Tỳ-kheo Khánh Hỷ dịch, HT Kim Triệu hiệu
đính; Pháp Duyên Khởi do Tỳ-kheo Minh Huệ dịch; Kinh Vô Ngã
Tướng do Phạm Kim Khánh dịch; Lợi Ích Chữa Bệnh Trong Thiền Quán
do Tỳ-kheo Tăng Định dịch. Một số tiểu phẩm bằng tiếng Anh khác có bán
tại trung tâm Thiền Quán này với giá rất rẻ, thiền sinh có thể tham khảo
thêm, như: To Nibbāna via the Noble Eightfold Path (Bát Thánh Đạo –
Đạo Lộ Đưa Đến Niết Bàn), Purpose of Practising Kammaṭṭhāna
Meditation (Mục Đích
Hành Thiền Đề Mục), The Problems of Life (Những Trục Trặc Trong Đời
Sống), Nibbanapatisamyutta Katha or On the Nature of Nibbana
(Bản Chất Của Niết Bàn), v.v…
Trong kho tàng pháp bảo về
thiền học, cuốn sách trình bày khá chi tiết về hệ thống Thất Tịnh, bao gồm
16 tầng Tuệ, đó là tập THIỀN HỌC NGUYÊN THUỶ của một Thiền
Sư (dường như của Thiền sư U Āsabha thì phải), vốn là một trong số đệ tử
đích truyền của Thiền Sư Mahāsi Sayādaw. Cuốn sách viết bằng Thái ngữ,
được Sư Giác Nguyên dịch sang Việt ngữ 9-10 năm rồi. Hiện nay tôi không có
cuốn sách này, nên không nhớ rõ mọi chi tiết. Muốn hiểu đỉnh cao của thiền
Quán theo truyền thống của Ngài Mahāsi Sayādaw như thế nào, mười tuỳ phiền
não xuất hiện trong quá trình tu Quán, Ba pháp Quán: Vô Thường, Khổ, Vô
Ngã, và một số điểm căn bản khác nữa thì Thiền quyển này giải mã khá tường
tận. Có thể nói nó là sách giáo khoa, mà tủ sách Thiền học Nguyên Thuỷ
không thể thiếu ! Tuy nhiên, cuốn sách này hơi khó hiểu đối với những vị
không có nền tảng về luận thư Phật giáo Nguyên Thuỷ, vì có quá nhiều thuật
ngữ Phật học liên hệ đến tâm thức, và những trạng thái tâm đôi lúc hành
giả không hiểu gì cả, vì chưa đạt đến !
4. Đóng Phí
Đây là thiền viện chính thức
quy định đóng phí khi thiền sinh vào xin thiền tập. Quy định đóng phí này
nhằm để trang trải những chi phí cho cách sống tiện nghi của người ngoại
quốc, cũng như để bảo đảm kinh tế cho thiền viện. Mỗi thiền sinh mới vào
đóng 50 hoặc 70 Mỹ kim tuỳ theo nhu cầu của mỗi thiền sinh, và vị ấy sẽ ở
bao lâu cũng được. Chúng tôi được biết, đây là phương hướng của Thiền Sư
Mahāsi từ lúc sinh thời. Tịnh tài của thiền sinh ngoại quốc và của Phật tử
Miến đóng vào có thể gởi ngân hàng, và với số lãi đó, có thể giúp ổn định
lâu dài cho thiền viện, dầu hoàn cảnh kinh tế của xứ Miến thay đổi thế nào
đi nữa, thiền viện vẫn có thể đứng vững được.
II. THIỀN VIỆN PANDITARĀMA
1. Hoà Thượng
Thiền Sư
Thiền viện Panditarāma do HT U
Pandita Sayādaw làm thiền chủ. Tuổi Ngài năm nay trên 80. Ngài đã từng làm
thiền chủ và trú trì tại trường thiền Mahāsi Yeitha một thời gian, sau
khi Ngài Mahāsi Sayādaw viên tịch. HT cũng từng đi nhiều nước Phương Tây
để tổ chức các khoá thiền tập từ năm 1951, và được rất nhiều thiền sinh
ngoại quốc cũng như trong nước kính ngưỡng.
Hiện nay Ngài không trực tiếp phỏng vấn thiền sinh nữa, nhưng thỉnh
thoảng thuyết pháp khi các khoá tu Thiền Quán Nghiêm Mật tổ chức tại thiền
viện hoặc trong rừng thiền. Tôi có dịp ghé thăm và định tu tại thiền viện
này khi vừa đặt chân đến đất Miến, nhưng rồi “duyên lỡ làng” đành buồn bã
trở về, tìm một nơi “trú ẩn” khác !
2. Cơ Sở Chính
Cơ sở chính nằm ở thủ đô
Yangon,
đi tốn khoảng 5 –7 Mỹ kim từ trường Đại Học Phật Giáo. HT thiền chủ trú
trì thường ở cơ sở này để tiếp nhận thiền sinh và hướng dẫn thiền tập
trong giai đoạn đầu. Cơ sở mặc dầu nằm trong lòng thành phố, nhưng khá yên
tĩnh vì nó trệch vô trong làng một chút ! Diện tích đất không lớn lắm,
nhưng nhờ xây dựng theo mô hình hiện đại, tất cả đều xây lầu 2 tầng, nên
rất gọn và có quy cũ. Thiền sinh ở đây khoảng 100 vị đến từ nhiều nước
khác nhau, cả Đông lẫn Tây. Khi thiền sinh đông, HT thiền chủ cho các
thiền sinh kỳ cựu vào cơ sở thứ hai tu tập, trước là giải quyết nơi ăn
chốn ở cho thiền sinh, mà đó cũng là nguyện vọng của thiền sinh nữa.
3. Cơ Sở Trong
Rừng (Thiền Lâm Panditarāma)
Cơ sở II nằm cách thủ đô khá
xa, đi xe taxi khứ hồi tốn khoảng 20 Mỹ kim. Thông thường thiền sinh vào
thiền viện chính rồi, khi nào tiện thì ban quản trị thiền viện sẽ sắp xếp
đưa thiền sinh vào trong rừng bằng xe của thiền viện. Cơ sở thứ hai này
rất lớn, cả 100 mẫu đất rừng. Thiền đường hai tầng khá rộng hoàn tất được
mấy năm rồi. Phía trên dành cho chư Tăng và cư sĩ nam, phía dưới dành cho
chư Ni và cư sĩ nữ. Một số cây nguyên sinh còn sót lại khi Thiền Sư tiếp
nhận khu rừng này, một số đã và đang được trồng. Cốc am và các công trình
phụ đang được xây dựng thêm.
Thiền sinh trong rừng thiền này
không nhiều lắm. Khi chúng tôi đến thăm thiền viện, nghe Sư Pháp Luân nói
lại hiện nay thiền sinh trung bình chỉ khoảng 50 – 70 vị. Sư Pháp Luân là
người Việt Nam
định cư ở Mỹ sau 1975, biết đến HT Thiền Sư nhiều năm nay. Hiện nay Sư là
người thông dịch cho các thiền sinh Việt Nam tới đó tu không rành tiếng
Anh.
4.
Phương Pháp
Cách thiền tập của thiền viện
này, như người viết đã nói, vì truyền thừa từ truyền thống của Thiền Sư
Mahāsi Sayādaw, nên cách tu hoàn toàn giống với các trường thiền theo mô
hình của Ngài Mahāsi , nghĩa là hoàn toàn căn cứ trên bài Kinh Đại Niệm
Xứ (Mahā-satipaṭṭhāna
Sutta) trong
Trường Bộ Kinh mà phát triển. Cũng quán niệm đủ Thân Thọ Tâm Pháp,
nhưng chỉ khác biệt chút xíu, thay vì Đức Phật bảo các hàng đệ tử để tâm
trước mặt (vùng mũi, nhân trung, hoặc chóp mũi), để theo dõi sự dài ngắn,
nóng lạnh của hơi thở ra vào, v.v... Ở đây, thiền sinh được hướng dẫn để
tâm nơi vùng bụng mà tôi đã trình bày sơ lược trong các bài khác.
Vì trường thiền chủ trương phát
triển Thiền Quán (Vipassanā), nên không đặt nặng đến bốn trạng thái
nhập định sắc giới như trong kinh thường mô tả, nhưng lại đề cao đến bốn
trạng thái Thiền Quán (Vipassanā jhāna)
thông qua quán Vô Thường, Khổ, Vô Ngã ngay trong tự thân.
Căn bản thiền tập của thiền
viện này cũng giống như căn bản của thiền viện Chanmyay. Có khác chăng là
thời khoá và cách quản lý thiền sinh nghiêm ngặt hơn mà thôi. Mười ba điều
sau đây có thể được xem như là những hướng dẫn căn bản cho các khoá Thiền
Quán Nghiêm Mật.
Thiền sinh có thể chuẩn bị tâm lý trước khi đến thiền viện.
1. Các thiền sinh chỉ có một
nhiệm vụ cần thực hiện, đó là thiền tập với tất cả:
- Sự chân thành và
quý trọng Pháp
- Tinh tấn
- Nỗ lực hết sức
mình
- Chuyên cần
- Kiên nhẫn
- Duy trì chánh niệm trong từng
sát na từ lúc thức dậy sáng sớm cho đến lúc đi ngủ vào buổi tối.
2.
Thiền sinh phải thiền tập nghiêm túc 14 tiếng đồng hồ cả thiền hành
và thiền toạ mỗi ngày.
3.
Thiền sinh phải sống lặng lẽ một mình và phải giữ yên lặng. Không
được liên hệ với ai, với bất cứ hình thức nào.
4.
Thiền sinh phải tránh nói chuyện.
5.
Thiền sinh phải tránh đọc và viết đến mức tối đa.
6.
Cư sĩ phải giữ 8 giới một cách nghiêm túc. Không được hút thuốc.
Tăng và Ni phải giữ Giới Bổn theo truyền thống của từng bộ.
7. Thời gian ngủ nghỉ phải giảm
tối thiểu, chỉ ngủ từ 4 đến 6 tiếng mỗi ngày.
8. Thiền sinh phải bám sát theo
sự hướng dẫn của Thiền Sư mà thiền tập. Không được luyện tập theo các
phương pháp khác.
9. Thiền sinh không được tham
gia các hoạt động không liên hệ đến công phu thiền tập (như là nghe đài,
nghe các loại băng từ, mát-sa, chụp hình, sưu tập sách vở, châm cứu, tiếp
khách, nấu ăn, học tiếng Miến, học tiếng Anh, học Pāli, hoặc tham gia các
hoạt động chính trị, thương mại và xã hội).
10. Thiền sinh phải điều phục
các căn. Thiền sinh cũng giống như những người mù, điếc và câm.
11. Trong sinh hoạt hằng ngày,
thiền sinh phải làm chậm lại mọi thứ, giống như người bệnh.
12. Trong khoá thiền Quán
Nghiêm Mật, không có chỗ để suy nghĩ, hồi tưởng, tư biện, phân tích và
giải thích.
13. Nói một cách tổng quát,
thiền tập chỉ dành cho những người có tâm trí ổn định và bình thường. Nếu
người tâm trí không ổn định thì không nên thiền tập. Đặc biệt người không
thể thọ trì giới luật một cách trọn vẹn, người đó không thể chấp nhận như
một hành giả.
Chúng tôi được biết thêm một
điều do các Sư Nguyên Thuỷ cung cấp. Các Sư ở trường thiền này không được
mặc các loại áo che khuất cánh tay mặt, hoặc y trung loại ngắn mà các Sư
Thái, Lào, Cam-pu-chia, Việt Nam thường mặt. Vào mùa đông hoặc tiết trời
lạnh thì có thể lấy y thượng Tăng-già-lê để quấn và che thân cho ấm mà
thôi.
Khi chúng tôi vào thiền viện
Panditarāma tại Yangon định tu, ngồi tại văn phòng chờ đợi, thấy quý cô
xuống văn phòng thiền viện nhờ mua một số dụng cụ cá nhân. Tất cả đều đi
trong chánh niệm, lặng lẽ. Tất cả đều đã được ghi trên giấy sẵn, và cũng
nhẹ nhàng đưa tịnh tài cho người phụ trách văn phòng.
5. Khất Thực và
Thọ Thực
Người viết không đủ duyên tu ở
đây, nên không biết nhiều về cách khất thực của thiền viện. Tuy nhiên, vào
buổi chiều trước vài hôm rời Miến, tôi và một vài thân hữu đến thăm Thiền
Lâm Panditarāma, đồng thời hỏi thăm về cách tu tập của rừng thiền này.
Được Sư Pháp Luân nói, mỗi sáng chư Tăng tại rừng thiền đều đi khất thực.
Vì rừng thiền khá xa với khu dân cư ở, nên thiền viện tổ chức xe đưa đón
chư Tăng ra tới làng khất thực và trở về thiền viện. Cách tổ chức này từ
lúc rừng thiền vừa được thành lập từ năm 1995 cho đến nay.
Cách nhận thực phẩm ở rừng
thiền này cũng giống như ở thiền viện Shwe Oo Min. Chư Tăng gần như chỉ
nhận cơm, lâu lâu mới có nam nữ cư sĩ dâng đồ ăn, và cũng có cư sĩ hộ bát
theo giúp chư Tăng. Khi bát chư Tăng đầy cơm rồi, cũng đổ vào nồi lớn đem
theo, và đi khất thực cho đến hết một vòng vậy. Thông thường phải đổ vào
sô, nồi lớn ít nhất là hai lần.
Ở đây ăn chay hay ăn mặn tuỳ
vào mỗi hành giả, không có điều gì bó buộc. Thức ăn chay và mặn rất đầy
đủ, kể cả thức ăn tráng miệng. Điều này tôi được biết là nhờ các Tăng Ni
sinh đang học tại trường Đại Học Phật Giáo tại Miến đã tu ở đó cung cấp.
Dĩ nhiên, khi chúng tôi vào thiền viện xin tu cũng có thọ trai ở thiền
viện chính một bữa, nên cũng biết thiền viện này rất quan tâm đến sức khoẻ
của thiền sinh.
Trong các vị Thiền Sư ở Miến, không biết có vị nào phát biểu rõ ràng về
quan điểm ăn chay, ăn mặn, ăn tam tịnh nhục của Phật giáo Nguyên Thuỷ chưa
thì tôi không dám khẳng định. Vấn đề trên trong quá khư đã từng là vấn đề
tranh cãi trên diễn đàn vài năm trước. Người viết không muốn đi sâu vào
vấn đề này, vì mỗi người có cách nhìn riêng theo quan kiến của mình. Tuy
nhiên, cũng có vài vị cho rằng vấn đề này cần phải được phân tích kỹ hơn,
nhằm giúp hành giả có một thái độ đúng khi tu tập, vì nó liên hệ đến đạo
đức ăn uống của người tu, một vấn đề mà hành giả nào cũng phải đối diện
hằng ngày. Hay nói cách khác, nó liên hệ trực tiếp đến giới sát – giới đầu
tiên mà một Phật tử tại gia cần phải học hỏi và thọ trì. Một số vị khác
nghiêm trọng hơn cho rằng, điều đó ảnh hưởng đến việc tu trì rất nhiều, và
theo các vị, nghiêm túc mà nói, điều đó có thể gây sự trở ngại cho việc tu
học.
Đề
cập đến vấn đề này Thiền Sư U Pandita Sayādaw phát biểu quan điểm của Ngài
rất rõ trong cuốn Ngay Trong Kiếp Sống Này. Tôi trích nguyên văn
một đoạn trong tác phẩm trên do Tỳ Kheo Khánh Hỷ soạn dịch:
Trong phần nói về thực phẩm này, tôi muốn
đề cập đến vấn đề ăn chay. Nhiều người cho rằng chỉ ăn rau trái mới hợp
đạo đức. Trong Phật giáo không hề có quan niệm ăn chay sẽ dễ giải thoát.
Ðức Phật không hề cấm đoán việc ăn cá thịt. Ðức Phật chỉ quy định một vài
điều kiện về việc ăn thịt cá. Ngài qui định phải ăn theo tam tịnh nhục:
Tức là không thấy con vật bị giết, không nghe tiếng kêu của con vật bị
giết, không nghi con vật bị giết với mục đích giành riêng cho mình ăn.
Ngoài ra Tỳ khưu phải cử ăn mười loại thịt như: thịt chó, thịt cọp, thịt
rắn, thịt người v.v… điều này cho thấy Ðức Phật không cấm Tỳ khưu ăn thịt
cá. Ðề-Bà-Ðạt-Ða có yêu cầu Ðức Phật đặt ra luật cấm ăn thịt cá, nhưng Ðức
Phật sau khi thẩm định đã từ chối lời yêu cầu.
Vào thời kỳ Ðức Phật cũng như ngày nay,
phần đông ăn cá thịt và rau trái hỗn hợp. Chỉ có những người bà la môn,
hay những người thuộc giai cấp cao trong xã hội Ấn Ðộ là ăn chay. Khi nhà
sư đi khất thực để sống, nhà sư phải nhận mọi thứ thực phẩm của các giai
cấp thí chủ khác nhau mà không được phân biệt, nhận của người này và từ
chối người kia. Nếu phân biệt thức ăn chay, mặn thì trái với tinh thần
khất thực này. Hơn nữa, để cho những người bà la môn và những người thuộc
giai cấp khác đều có thể gia nhập tăng hay ni đoàn và không còn chấp trước
vào thực phẩm nên Ðức Phật để ý đến sự kiện này khi quyết định vấn đề chay
mặn. Như vậy, không cần phải tự thúc buộc mình vào việc ăn chay khi thực
hành Thiền Minh Sát. Dĩ nhiên, có sự quân bình về rau trái và cá thịt sẽ
có lợi cho sức khoẻ. Nếu bạn muốn ăn chay vì lòng từ bi thì đó cũng là một
điều thiện. Mặt khác, nếu vì lý do sức khoẻ, nhất là cần phải có những
chất bổ dinh dưỡng chỉ có trong thịt, cá, thì cũng cần nên ăn cá, thịt.
Không có vấn đề tội lỗi trong việc ăn cá thịt; ăn cá thịt cũng chẳng làm
hại hay cản trở gì trong việc hành Thiền Minh Sát.
Quý
vị có thể tham khảo, đối chiếu bản tiếng Anh: In This Very Life –
The Liberation of the Buddha, do Buddhist Publication Society,
Kendy, Tích Lan xuất bản năm 1991, trang 40 – 41. Như soạn dịch giả đã
tường trình trong Lời Nói Đầu bản tiếng Việt trên trang Buddhasasana (http://www.budsas.org),
bản dịch dựa trên bản Anh ngữ, đồng thời phối hợp với những lời giảng giải
bằng tiếng Miến và tiếng Anh mà Thiền Sư đã hướng dẫn khoá tu tại Hoa Kỳ.
Do đó, bản tiếng Việt nhiều đoạn thêm vô, cắt ra, không ăn khớp với bản
tiếng Anh cho mấy.
Tôi
không muốn đi sâu vấn đề đạo đức trong việc ăn chay, ăn mặn trong bài viết
này, rất có thể sẽ trình bày trong một bài khác, phần còn lại nhường cho
độc giả suy tư và giải hoặc cho chính mình.
6. Thời Khoá và
Trình Pháp
Thời khoá ở thiền viện này gắt
hơn các thiền viện khác. Thiền sinh phải thức dậy từ lúc 3 giờ sáng và
thiền tập cho đến 9 giờ tối. Chúng tôi nghe nói lại, lúc trước, không có
giờ nghỉ trưa, sau khi thọ trai xong là lên thiền đường liền, nhưng có lẽ
vì thiền sinh chịu không nổi với thời khoá quá nhặt ấy, nên lúc này thiền
sinh tu chính thức từ lúc 1.00 chiều cho đến tối. Thời khoá biểu chính
thức như sau:
03:00 : Thức
chúng
04:00 – 05:00: Thiền toạ
05:00 – 06:00 : Điểm tâm
06:00 – 09:00: Thiền toạ,
thiền hành, thiền toạ
09:00 – 10:00: Tắm rửa hay
thiền tập
10:00 – 12:00: Thọ trai, nghỉ
ngơi, hoặc thiền tập
12:00 – 14:00: Thiền toạ, thiền
hành
14:00 – 16:00: Nghe Pháp hoặc
trình pháp
16:00 – 21:00: Thiền toạ rồi
thiền hành xen kẽ nhau
21:00 – 23:00: Thiền tập tuỳ
theo sở thích của thiền sinh.
Thiền viện này nổi tiếng là
nghiêm khắc. Tôi được nghe các vị khác nói lại, thiền sinh thiền tập đều
có Thiền Sư theo dõi. Khi mình thiền hành thì các vị thiền toạ để quán
sát. Khi mình thiền toạ thì các vị thiền hành cũng để quán sát. Nếu khi
thiền hành hoặc thiền toạ có gì trục trặc thì Thiền Sư hoặc các vị phụ
trách sẽ điều chỉnh cho. Nhiều vị cho rằng, nếu hành giả nào đã sống được
với kỷ luật khắc khe của thiền viện này thì thiền tập bất cứ nơi nào trên
đất Miến đều được.
Cách thức trình pháp ở đây cũng
giống như một số trường thiền ở Miến. Thiền sinh có thể ghi vắn tắt đại ý
những gì cần trình bày cho có thứ lớp, hoặc các trạng thái tâm lộn xộn hay
thanh tịnh như thế nào trong một tập sổ trình pháp, để lên đọc, trình cho
Thiền Sư. Các Thiền Sư thành tựu ở trường thiền này lúc nào cũng có mặt để
hướng dẫn thiền tập, dù vị này hay vị kia đi Phật sự. Cách một ngày trình
pháp một ngày, ngày nghỉ nghe Pháp thoại, và ngày chủ nhật sinh hoạt với
đại chúng, trình bày nhận thức tu tập của mình. Cũng lưu ý là các Thiền Sư
ở đây rất chú trọng đến niệm thân, nên oai nghi tế hạnh luôn luôn được xem
trọng trong mọi lúc đối với thiền sinh. Ngay cả khi trình pháp, thiền sinh
Việt Nam được Sư Pháp Luân khuyên là không nên nhìn Thiền Sư, mắt luôn
luôn giữ chánh niệm nhìn xuống, nhìn vào đôi bàn tay đang chắp của mình.
7. Tài Liệu Tham
Khảo Trước
Khi
vô trong trường thiền với thời khoá nghiêm ngặt và theo dõi rất sát như
vậy, thiền sinh dầu có muốn đọc sách để mở mang kiến văn, hoặc để giải
quyết một nan đề về lý thuyết mà mình đang gặp cũng không có thời gian.
Nếu muốn đọc sách tìm hiểu trước khi vô trường thiền, thì hãy đọc cuốn:
In This Very Life. Người biên tập thiền phẩm này là một nữ văn sĩ nên
văn phong rất trong sáng và chuẩn xác. Đây là một tài liệu căn bản hướng
dẫn thiền tập và những vấn đề liên hệ đến lộ trình tu theo HT U Pandita,
rất bổ ích cho thiền sinh. Tác phẩm đã được Tỳ-kheo Khánh Hỷ dịch sang
Việt ngữ: Ngay Trong Kiếp Sống Này. Sư Khánh Hỷ đã phối hợp từ sách
và pháp thoại của HT giảng cho thiền sinh khoá tu 3 tháng tại trung tâm
Thiền Quán ở Paris, nên không dịch sát bảng Anh ngữ.
Thiền phẩm này cũng được chính Sư Khánh Hỷ ghi âm, nhằm giúp cho những
thiền sinh, đặc biệt là các tu nữ Việt Nam (đến từ nhiều nước khác nhau)
không rành tiếng Anh. Đây cũng là một tài liệu quý báu, có thể thỉnh để
nghe và thiền tập tại nhà. Cuốn sách thứ hai được quý vị ở Miến tặng cho,
của Thiền Sư U Pandita là On the Path to Freedom (Trên Đường Đến
Giải Thoát) cũng là một nguồn tài liệu quý. Nó có nhiều phần trùng với
cuốn In This Very Life, nhưng cũng có nhiều phần rất mới mà cuốn
In This Very Life chưa trình bày hết được. Những cuốn sách khác được
giới thiệu trên mạng như: The Way to Practise Vipassana Meditation
(Cách Thực Tập Thiền Quán) Dhamma Discussion Series, Vol. I, 1997
(Tuyển Tập Pháp Luận, Quyển I, 1997). Cùng với một vài thiền phẩm khác của
các Thiền Sư tại thiền viện cũng được giới thiệu trên mạng nữa. Dựa trên
nguồn tài liệu đó, chúng ta có thể nói rằng đây là trường thiền có nhiều
người đã thành đạt trong học thuật và hướng dẫn thiền tập.
8. Quan Điểm về Bộ
Phái
Người viết không có duyên học
hỏi trực tiếp với Ngài, chỉ có duyên đảnh lễ và xin tu tại thiền viện mà
thôi. Cộng với những gì được quý Sư Nguyên Thuỷ, quý Sư Cô Khất Sĩ nói lại
cũng hiểu thêm một phần về quan điểm của Ngài.
Khi thọ trai, chư Tăng Đại Thừa
đều ngồi chung với khu dành cho chư Ni và nam nữ cư sĩ. Chỉ có các nhà Sư
Nguyên Thuỷ, dầu là Sa-di hoặc tu gieo duyên vẫn được ngồi trên phản. Các
vị khác đều ngồi trên ghế và ăn trên bàn bình thường. Ngày tôi đến thăm
trường thiền và xin tu cũng được áp dụng như vậy.
Đối với các vị Đại Thừa Ngài đã
được biết. Còn đối với các nhà Sư Khất Sĩ rất có thể Ngài chưa được nghe
nói tới, hoặc đã nghe nói tới rồi, tôi cũng không biết rõ. Khi tôi đến xin
tu tại thiền viện, Ngài cật vấn rất nhiều, thọ giới theo truyền thống nào
? Ai truyền giới ? Giới Bổn của Nguyên Thuỷ ra sao, cách thức nhận y mới
đối với một vị Tỳ-kheo Nguyên Thuỷ như thế nào, v.v… Có lẽ các Ngài cũng
sợ ai đó lạm dụng y phục của các nhà Sư Nguyên Thuỷ? Y bá nạp của Khất
Sĩ dường như Ngài chưa bao giờ thấy, nên cứ hỏi về vấn đề y phục rất nhiều
! Khổ nỗi là màu y vàng đậm nâu nâu mà tôi đang mặc lúc ấy cũng giống với
màu y của Thiền Sư nữa, mà đó là màu y duy nhất chỉ có một vị Thiền Chủ
được phép mặc tại thiền viện.
Bên cạnh đó, Ngài hỏi thêm một
số vấn đề khác nữa, như có ăn chiều không ? Có giữ và chi tiêu tiền không?
Ngài rất quan tâm đến Giới Bổn, nhưng rất tiếc không hề hỏi tới Giới Bổn
của Đại Thừa hoặc Giới Bổn Khất Sĩ. Nhân tiện cũng nói thêm, sự thật, Giới
Bổn của Đại Thừa và Khất Sĩ giống nhau, đều lấy luật của Pháp Tạng Bộ (Dharmaguptaka),
một trong những chi nhánh của Nguyên Thuỷ, mà bổ túc thêm. Nội dung căn
bản của hai bộ luật Nguyên Thuỷ và Đại Thừa giống nhau, chỉ bổ sung hai
mươi mấy giới liên hệ đến pháp tháp ở phần học pháp, mà Giới Bổn Nguyên
Thuỷ không có. Thậm chí một số pháp yết ma, an cư, truyền giới của Pháp
Tạng Bộ còn đầy đủ hơn so với các truyền thống Giới của các Bộ phái khác,
kể cả Nguyên Thuỷ, đang có mặt tại Trung Quốc thời bấy giờ. Chính vì vậy
các Ngài mới chọn Giới Bổn của Pháp Tạng bộ làm chuẩn mực để thọ trì. Đây
cũng chỉ nói về giới tướng Thanh Văn, chứ chưa nói tới Bồ Tát Giới mà chỉ
có trong truyền thống Đại Thừa.
Qua cuộc thỉnh vấn dài, nếu
tôi chịu xả giới và thọ giới lại theo truyền thống Nguyên Thuỷ thì việc
xin vô trường thiền tu học là chuyện không khó tí nào, nhưng đó là điều mà
tôi không muốn ! Cuối cùng chẳng đi tới đâu, mặc dầu tôi có thưa rằng, đối
với tôi đi đứng, ngồi nằm, vị trí lớn nhỏ như thế nào cũng được, miễn rằng
không cần phải thọ giới lại theo truyền thống Nguyên Thuỷ, nhưng câu trả
lời vẫn bỏ ngỏ !
Như người viết đã nói, nếu là
nhà Sư khác với truyền thống Nguyên Thuỷ thì ngồi phía dưới ăn cơm chung
với cư sĩ. Ăn cơm ngồi đâu, có lẽ không quan trọng lắm đối với một hành
giả thực thụ. Nhưng điều tôi muốn nói, là cách sắp xếp của thiền viện
phản ánh phần nào cách nhìn nhận về các Sư, các Thầy tu khác truyền thống
Nguyên Thuỷ. Âu đó cũng là một nỗi buồn của riêng tôi, mà có lẽ của nhiều
người nữa ! Phật giáo đúng ra là hiện thân của trí huệ và từ bi, là hiện
thân của đoàn kết, của hoà hợp, của bao dung, của độ lượng, nhưng đôi khi
vì thiếu kiến thức tổng quát hoặc vì một lý do nào đó, nên sự phân phái
càng ngày càng rõ, dù rằng có người đã sẵn sàng bỏ những cái nhãn hiệu
không quan trọng để thực hiện một lý tưởng chung, nhưng đôi khi cũng không
được.
Vào ngày đi khất thực gạo sống
do Thiền Lâm Pa-Auk tổ chức, người viết có duyên nói chuyện với một Sư
Nguyên Thuỷ Việt Nam ở Mỹ. Trong cuộc trao đổi ngắn khi đang đứng chờ ban
tổ chức sắp xếp mọi việc, chúng tôi trao đổi về các trường thiền ở Miến,
nhà Sư ấy mới cầm y chúng tôi (một Sư khác và tôi) mà nói rằng, ở
Panditarāma, y này không được mặc, phải xuống hàng cư sĩ hết ! Có lẽ các
nhà Sư Khất Sĩ đã từng tới đó dự định tu mà không thành, cũng đã từng xảy
ra trong quá khứ chăng ?
III.
TRƯỜNG THIỀN MOGOK
Trường thiền này là một trong
những trường thiền khá nổi tiếng tại Miến khi HT Thiền Chủ còn sống. Các
vị ở Miến nói, đề cập đến thiền viện ở Miến phải kể đến thiền viện Mahāsi
, thiền viện Mogok và thiền lâm Pa-Auk.
Hoà thượng kế nghiệp hiện đang
giảng dạy tại trường Đại Học Phật Giáo, nhưng vì một lý do nào đó, người
ngoại quốc gần như không được đón mời cho lắm, quả là điều đáng tiếc!
Chúng tôi nhờ một vài vị gọi điện thoại để hỏi thăm thủ tục và dự định đến
xin tu nửa tháng cho biết cách quán lý Duyên Khởi (Paṭicca-samuppāda)
nhưng có lẽ các thủ tục liên hệ đến sở di trú, v.v… còn gặp khó khăn, nên
đành chịu !
Khi HT viện chủ còn sinh tiền,
Ngài chủ trương dạy cách quán Thập Nhị Nhân Duyên một cách rành rẽ trước,
sau mới thiền tập. Đây cũng là một trong những nét đặc thù của trường
thiền Miến. Vì ai cũng biết rằng, chính Đức Phật trước lúc thành Vô Thượng
Giác nhờ quán lý Thập Nhị Nhân Duyên theo hai chiều thuận nghịch mà thấu
suốt và thấy rõ được bản chất của sanh tử như thế nào, làm thế nào nó tiếp
diễn và làm thế nào nó bị đoạn diệt, và nhờ đó Ngài trở thành Đấng Tối
Thắng giữa chư Thiên và loài người.
Khi HT viên tịch có để lại Xá
Lợi gân. Xin đọc Hành Trạng và Các Phép Quán của
Hoà Thượng Mogok cũng sẽ được đăng trên trang nhà Buddhismtoday.
Tôi mong ước đến thăm thiền viện này một lần trước khi rời đất Miến, nhưng
duyên chưa đủ, đành hẹn khi khác vậy.
**************************************
Quả thật, trường thiền nào cũng
có cái hay của nó, và bên cạnh đó cũng có những điều có thể không phù hợp
với người này hoặc người kia, tuỳ theo trình độ, nhận thức và tu tập của
mỗi hành giả mà có cách nhìn khác nhau. Đã là cõi ta bà và với những chúng
sanh phàm phu thì những điều bất như ý trong cuộc đời là lẽ đương nhiên.
Nhưng nếu hành giả khéo tu tập, môi trường, tổ chức ở Miến như vậy có lẽ
cũng quá đủ để mình an trú mà tu tập rồi.
Chúng tôi đã tìm những hướng dẫn căn
bản tại thiền viện này trên mạng của trang nhà Panditarama.
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/trungtam_tuthien.htm