...... ... |
.. |
. |
.. |
. |
. |
- TƯ LIỆU CÒN LƯU TRUYỀN của ÐIỀU NGỰ
GIÁC HOÀNG
(Trần nhân Tông)
TỰA
THIỀN TÔNG CHỈ NAM
Trẫm thầm nghĩ: Phật không có
Nam Bắc, mọi người đều có thể tu cầu. Tánh có trí ngu, đồng sẵn giác
ngộ. Vì vậy, phương tiện dẫn dụ đám người mê, để sáng tỏ đường
tắt sanh tử, là kinh điển của đức Phật. Ðặt mực thước cho đời, làm
mô phạm cho người sau, là trọng trách của các bậc Thánh trước (Tổ).
Cho nên Lục Tổ nói: "Những bậc Thánh trước (Tổ) cùng Ðại sư
(Phật) không khác". Nên biết giáo pháp của Phật nhờ các bậc
Thánh trước truyền bá ở đời. Nay trẫm đâu không thể lấy trách nhiệm
các bậc Thánh trước làm trách nhiệm của mình, giáo pháp của Phật làm
giáo pháp của mình.
Vả lại, thuở trẫm còn niên thiếu,
có chút ít hiểu biết vừa nghe lời dạy của Thiền sư thì tâm tư lóng lặng,
bỗng dưng thanh tịnh, nên để tâm nơi nội giáo, tham cứu Thiền tông, dốc
lòng tìm thầy, chí thành mộ đạo. Tuy ý nói hồi hướng đã nẩy mầm,
mà cơ cảm xúc chưa thấu suốt.
Năm mười sáu tuổi, Thái Hậu đã
chán cõi đời, trẫm nằm rơm gối đất, khóc ra máu mắt, đau đớn nát
lòng; ngoài nỗi đau buồn này, đâu rảnh nghĩ việc khác. Chỉ vài năm
sau, Thái Tổ Hoàng Ðế cũng băng hà, lòng thương mẹ chưa nguôi, nỗi xót
cha càng thống thiết, buồn thảm tràn trề khó bề dẹp được. Trẫm
nghĩ: Công cha mẹ đối với con, nuôi nấng vỗ về không thiếu điều gì,
dù con phải xương tan, thịt nát vẫn chưa đủ đền đáp trong muôn một.
Huống nữa, Thái Tổ Hoàng đế khai cơ lập nghiệp rất đổi gian nan, trị
nước giúp đời càng thêm hệ trọng. Người đem đất nước giao cho ta
khi còn thơ ấu, khiến ta ngày đêm canh cánh không chút thảnh thơi. Ta lòng
riêng tự bảo: trên đã không cha mẹ để nương tựa, dưới ngại chẳng
xứng lòng dân mong đợi. Phải làm sao đây? Ta suy đi nghĩ lại: chi bằng
lui về ở chốn núi rừng, tìm học Phật pháp để hiểu rõ việc lớn
sanh tử, lấy đó đền đáp công ơn cha mẹ, chẳng hay hơn sao? Thế là
chí trẫm đã quyết định.
Ðêm mùng ba tháng tư năm Bính Thân,
niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình thứ năm (1242), trẫm đổi y phục đi ra khỏi
cửa cung bảo tả hữu rằng: "Trẫm muốn đi dạo để ngầm nghe lời
dân, biết được chí dân, mới hiểu thấu nỗi khó khăn của họ". Bấy
giờ tả hữu theo trẫm không quá bảy tám người. Giờ hợi đêm ấy, trẫm
cởi một ngựa lặng lẽ ra đi; sang sông thẳng về hướng đông, mới nói
thực lòng cho tả hữu biết. Tả hữu ngạc nhiên, tất cả đều khóc. Giờ
mẹo hôm sau, đến bến đò Ðại Than bên núi Phả Lại, sợ có người biết,
trẫm lấy áo che mặt qua sông, đi tắt theo đường núi. Ðến tối vào nghỉ
chùa Tăng Giác Hạnh, đợi sáng lại đi. Leo trèo lặn lội, núi hiểm suối
sâu, ngựa mõi mệt không thể tiến lên được; trẫm bèn bỏ ngựa vin
vách đá lần bước, đến giờ mùi mới tới sườn núi Yên Tử. Sáng hôm
sau, trẫm trèo thẳng lên đỉnh núi, tham kiến vị đại Sa môn Quốc sư Trúc
Lâm. Quốc sư vừa thấy trẫm mừng rỡ, ung dung bảo:
"Lão tăng ở lâu nơi sơn dã, xương
cứng mặt gầy, ăn rau đắng cắn hạt dẻ, uống nước suối dạo cảnh rừng,
lòng như mây nổi theo gió đến đây. Nay Bệ hạ bỏ ngôi nhân chủ, nghỉ
đến nơi quê hèn rừng núi, chẳng hay Bệ hạ mong cầu điều gì mà đến
đây".
Trẫm nghe nói, hai hàng nước mắt tự
trào, đáp lại Sư rằng: "Trẫm còn thơ ấu vội mất hai thân, bơ vơ
đứng trên sĩ dân không chỗ nương tựa. Lại nghĩ sự nghiệp các bậc đế
vương đời trước, thịnh suy không thường, cho nên trẫm đến núi nầy
chỉ cầu làm Phật, chớ không cầu gì khác".
Sư bảo: "Trong núi vốn không có
Phật, Phật chỉ ở trong tâm. Tâm lặng mà biết gọi là chơn Phật. Nay Bệ
hạ nếu ngộ tâm này thì tức khắc thành Phật, không nhọc tìm cầu bên
ngoài".
Bấy giờ ông chú Trần Công, người
em họ mà Tiên quân gởi gấm đứa con côi. Sau khi Tiên quân bỏ thế gian
và quần thần, trẫm phong làm Thái sư tham dự quốc chính. Nghe tin trẫm trốn
đi,ông liền sai tả hữu đi mọi nơi dò tìm tung tích rồi cùng người
trong nước lên đến núi nầy.
Gặp trẫm, ông thống thiết
nói:"Thần nhận sự ủy thác của Tiên quân, tôn Bệ hạ làm chúa thần
dân. Lòng dân trông đợi Bệ hạ như con nhỏ mong đợi cha mẹ. Huống nữa,
ngày nay các cố lão trong triều đều là bề tôi thân thuộc, dân chúng sĩ
thứ ai cũng vui vẻ phục tùng. Cho đến đứa bé lên bảy cũng biết Bệ hạ
là cha mẹ dân. Vả Thái Tổ bỏ thần mà đi, nắm đất trên mồ chưa khô,
lời dặn dò còn vẳng bên tai. Nay Bệ hạ trốn lánh vào núi rừng, ẩn cư
để mong thỏa chí mình. Như thần nghĩ, Bệ hạ tính kế tự tu thì có thể
được, còn quốc gia xã tắc thì sao? Chỉ để lời dạy suông cho đời,
chi bằng đem thân mình làm gương trước cho thiên hạ. Bệ hạ nếu không
nghĩ lại, chúng thần cùng người trong thiên hạ đồng chết ngay hôm nay,
quyết chí không trở về".
Trẫm thấy Thái sư cùng các cố lão
quần thần không có ý bỏ trẫm, liền đem lời bày tỏ với Quốc sư. Quốc
sư cầm tay trẫm bảo: "Phàm làm đấng nhân quân, phải lấy ý muốn của
thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tâm của thiên hạ làm tâm của
mình. Nay thiên hạ muốn đón Bệ hạ trở về, Bệ hạ không về sao được.
Song phần nghiên cứu nội điển, mong Bệ hạ đừng xao lãng".
Vì thế, trẫm cùng mọi người trở
về Kinh, miễn cưỡng lên ngôi. Khoảng hơn mười năm, những khi được rảnh
rổi, trẫm họp các vị kỳ đức để tham cứu thiền, hỏi đạo và các
kinh Ðai thừa... đều nghiên cứu qua. Trẫm thường đọc kinh Kim Cang đến
câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm", trong khoảng để quyển xuống
ngâm nga, bỗng nhiên tự ngộ. Liền đem sở ngộ này viết thành bài ca, để
tên là "Thiền Tông Chỉ Nam". Năm này, Quốc sư từ núi Yên Tử về
kinh, trẫm mời ở chùa Thắng Nghiêm, trông coi việc ấn bản các kinh. Trẫm
đem tập sách này trình Sư, Sư xem qua liền tán thán rằng: "Tâm chư Phật
ở trọn nơi đây, sao không nhân khắc in các kinh, khắc in luôn để dạy kẻ
hậu học".
Trẫm nghe lời này, sai thợ viết chữ
chân phương, ra lệnh khắc bản in. Chẳng những để chỉ đường mê cho hậu
thế, mà còn muốn tiếp nối công lớn các bậc Thánh nhơn đời trước. Vì
thế tự làm lời tựa này.
TỰA
KHÓA NGHI SÁU THỜI SÁM HỐI
Tiện lợi việc đi lại dưới sông
trên bộ, là nhờ xe, thuyền; tẩy sạch bụi dơ nơi thân tâm, là do sám hối.
Muốn tẩy sạch thân tâm mà không dùng sám hối, khác nào muốn tiện lợi
qua lại mà chẳng dùng xe, thuyền. Thế mới biết công dụng sám hối rất
là to. Cho nên kinh Ðại Tập nói: "Như áo dơ hằng trăm năm, có thể
trong một ngày giặt được sạch sẽ. Như thế, trong trăm ngàn kiếp đã
tích tụ các nghiệp chẳng lành, do nhờ Phật lực, khéo thuận tư duy, có
thể trong một ngày hay một giờ, trọn hay tiêu diệt!"
Vả lại, chúng sanh từ trước đến
nay tánh giác thanh tịnh tròn sáng, trong trẻo như hư không chẳng có mảy bụi.
Do bọt vọng dấy lên, cõi uế hiện thành, năng và sở nương nhau, Phật với
chúng sanh thấy hai. Căn tánh sai biệt, ngu trí phân chia, chỉ cho một cửa,
khó được ngộ nhập. Vì thế, đức Phật chúng ta trí nguyện rộng lớn,
mở cửa phương tiện, tùy lối chỉ đường về, đúng bệnh cho thuốc. Biết
huyễn cấu của chúng sanh từ vọng mà sanh, khuyên họ một niệm kính
thành quy y sám hối. Khiến thân tâm thanh tịnh, trong sạch như xưa. Gió
yên thì sóng lặng, bụi sạch thì gương sáng. Sao thế? Vì trước khởi tâm
ác, như mây che mặt trăng, sau sanh tâm thiện, như đuốc sáng tan bóng tối.
Ôi! Công dụng sám hối lớn lao há chẳng vậy sao?
Trẫm nhờ quyến thuộc nhà trời, ở
ngôi chí tôn, nên việc dân gian quốc chính phiền rộn. Phồn hoa dụ dỗ
bên ngoài, thị dục mê hoặc ở trong. Miệng thì chán ngán vị ngon, thân
phải đeo mang vàng ngọc. Thấy nghe đuổi theo thinh sắc, ở ăn toàn chốn
gác đài. Lại nữa, thói đời khinh bạc, nhân pháp suy vi, học giả mù độn,
căn lành kém mỏng. Ngày thì căn trần va chạm, lưới nghiệp kéo lôi; đêm
thì mê ngủ che đậy, dây lười trói buộc. Ngày đêm dính mắc, đâu
không phải là lỗi chuốc họa gây thù. Trẫm vì lẽ đó, ôm ấp trong
lòng, thương cảm xen lẫn, quên ăn mất ngủ. Nhân khi việc triều rãnh rổi,
xem khắp Kinh, Luận và các văn nghi lễ, tuyển chọn pháp có được tự lợi,
lợi tha dùng để chỉ dạy cho người. Trăn trở suy đi nghĩ lại, xưa tạo
nghiệp trọn do sáu căn. Vì thế đức Phật Thích Ca khi chưa thành đạo,
trước vào núi Tuyết sáu năm tu khổ hạnh, là do sáu căn đó vậy. Phỏng
theo ý ấy, lấy sáu căn phân làm sáu thời, mỗi thời lễ sám một căn.
Chính trẫm chế nghi văn sám hối này, gọi là "Khóa nghi sáu thời lễ
Phật sám hối".
Văn thì rườm rà, lời thì xa xôi. Nếu
văn rườm rà thì người lười sám hối, lời xa xôi thì dễ sanh nghi. Cho
nên không dùng lời phù phiếm dồn cho đầy quyển, cốt khiến người đọc
tụng vui vẻ, người nghe thấy dễ ngộ. Mới mong những kẻ có lòng tin,
ngày đêm phát tâm chí thành, theo khóa nghi này làm lễ sám hối. Ðây chẳng
phụ chí nguyện tự lợi, lợi tha của trẫm.
Người sáng mắt thời sau, chớ xem
nghi văn này mà phát cười. Tuy nhiên như thế:
Không nhân ngõ tía hoa cười sớm,
Ðâu thấy hoàng oanh đậu liễu xanh.
NGŨ GIỚI:
VĂN GIỚI SÁT
Phàm các loài sanh từ trứng,
thai, ẩm, hóa tính vẫn đồng, thấy nghe hiểu biết đâu khác. Chỉ do tạo
nghiệp kết oán, nên thọ tên hiệu khác. Ngày trước vốn loài người,
nay sanh đàn giống khác nhau. Hoặc là bạn bè, hoặc là anh em. Thay đổi
áo xiêm đai mũ, biến thành mai vảy cánh lông. Vợ quên chồng, chồng quên
vợ, con trái cha, cha trái con. Ðã thấy đổi đầu khác mặt, lôi về mổ
bụng chặt chân. Luống do tham sống sợ chết, lại không một lời kêu
đau khổ. Ngươi giết nó, nó giết ngươi, hắn ăn mày, mày ăn hắn, hằng
ngày không dứt, mãi tạo oán trái. Kiếp kiếp trả nhau, đời đời thù
nhau.
Người quay đầu liền đến quê nhà,
kẻ phóng tâm hằng chìm địa ngục. Sách Nho dạy: "Thi ân bố đức".
Kinh Ðạo dạy: "Ái vật háo sanh"; Phật chỉ cấm sát là giữ giới,
người phải để ý tuân hành chớ phạm.
Kệ rằng:
Cánh lông mai vảy trọn hàm linh,
Sợ chết tham sanh nào khác tình.
Từ trước thánh hiền lòng chẳng nở,
Ðâu cam thấy chết vẫn tham sinh.
VĂN GIỚI TRỘM
Người làm nhân gnghĩa là quân tử,
kẻ làm trộm cắp là tiểu nhân. Người quân tử ôm lòng cứu giúp kẻ
cô bần, đứa tiểu nhân thì tham tài lấy vật. Vật của người lấy làm
của mình, mặc kệ nhiều người trách cứ, chỉ biết lợi ích cho mình.
Ðâu biết giàu sang tại trời, chỉ thả ý tham cầu. Thuốc chó, đào hầm,
đục tường, khoét vách theo gót tướng quân Sơn Dương, tập làm Khương
Thượng quân tử. Nghịch trời trái đất, dối pháp khinh hình. Khi sống
thì pháp luật trừng trị, lúc chết bị minh ty khảo tra.
Không những đống vàng khối ngọc,dầu
rằng cọng cỏ mảy lông. Ngửi mùi hương sen trong ao mà Ðịa thần còn quở,
cho vay lấy lời Diêm vương còn phạt. Lưới trời lồng lộng, làm thiện
thì thoát, làm ác phải mang. Phép nước thênh thang, làm việc công thì khỏi,
làm việc tư thì phạm.
Kệ rằng:
Ðục vách đào tường ý chẳng thôi,
Trăm mưu ngàn kế khổ mong cầu.
Ðời này ví được của mấy người,
Nào biết muôn phen kiếp ngựa trâu.
VĂN GIỚI SẮC
Lưng ong tóc mượt hay khiến tâm
tánh say mê, sắc én mày ngài làm cho hồn phiêu phách lạc. Ðưa mắt liếc
chẳng phải dao mài mà ai không đứt ruột. Lưỡi uốn tợ sáo diều, mọi
người đều phải lắng nghe. Người mê thì nghĩa thân sơ đều dứt; kẻ
tham thì đạo đức tiêu tan. Trên thì phong giáo đắm chìm, dưới thì khuê
môn tán loạn. Bất luận phàm phu học giả, đều say áo đẹp thích điểm
trang. Kỷ cương quốc gia rơi chốn Tô đài; giới thể bị chôn vùi nơi dâm
thất.
Thảy do phóng mắt đuổi theo bên
ngoài, nên không xoay đầu nhìn lại bên trong. Cởi hết lụa là che thân chỉ
bày làn da bọc thịt. Ðộc giác gần Nữ am mà hoàn tục; chân quân xa
Thán phụ nên thăng thiên. Người chẳng theo sắc được năm thần thông, kẻ
mê sắc thì mất các giới hạnh.
Kệ rằng:
Má thoảng hương mai, mặt nhụy đào,
Thấy rồi mắt dán, ý nao nao.
Thảy đều một đãy da hôi thúi,
Thầm cắt ruột người chẳng dụng dao.
VĂN GIỚI VỌNG NGỮ
Tâm là gốc thiện ác, miệng là
cửa họa phúc. Nghĩ một niệm thì hưởng ứng chẳng sai; nói một lời
thì bóng theo chẳng lệch. Quân tử trọng lời như biện; cổ nhân ngừa
nói như bình. Nói ra thì ngay thẳng công bằng; mở lời không cong queo tà vạy.
Không nói đây kia hay dỡ, chẳng bàn mình phải người sai. Ðâu dám khua
môi múa lưỡi, cần phải giữ miệng gìn lời. Vả nghiệp của thân là nặng,
song họa của miệng là trước. Chẳng những kẻ nói là vọng ngôn, còn
khiến người nghe làm bậy.
Ðời này bị người khinh rẻ, sau khi
chết bị nghiệp kéo lôi. Hoặc kềm sắt, kéo lưỡi cam chịu chua cay. Hoặc
nước đồng sôi rót vào miệng ôm lòng đau đớn.
Kệ rằng:
Kề vai cười nói khua lưỡi môi,
Cứ mãi làm người vọng ngữ thôi.
Riêng ý cầu tài mong người thích,
Sau cùng khó tránh nghiệp kéo lôi.
VĂN GIỚI RƯỢU
Người ưa uống rượu thì đức
hạnh suy kém, lời nói nhiều lầm lỗi. Hơi nóng xông nát dạ dày, vị cay
xuyên thủng gan ruột. Rối loạn tinh thần, tâm tánh hôn mê. Chẳng nghĩ đến
cha mẹ, tội ngũ nghịch chuyên làm. Hoặc ồn náo nơi tiệm quán, hoặc say
mèm ngoài đường sá. Khi trời mắng đất, hũy Phật chê Tăng. Miệng lãm
nhãm hát ca, thân trần trụi nhảy múa. Ðã không tiếp Phật cúng dường,
mà lại theo bọn mũ đen bất chánh. Tan thân mất mạng từ đó mà sanh, mất
nước tan nhà từ đây mà có.
Bỏ rượu thì ngàn điềm lành điều
tới, uống rượu thì trăm họa kéo về. Ðại Võ không uống rượu nên
muôn họ đều theo. Thái Khang mê rượu nên năm con đều oán. Ðâu chỉ
hàng phong lưu phải răn, mà bậc đạt giả cũng cần phải tránh. Bao nhiêu
người rạng rỡ trên đời, lại bị tối tăm trong rượu.
Kệ rằng:
Men bả một vò ủ nấu thành,
Bao nhiêu người trí mất thông minh.
Chẳng riêng Tăng sĩ không gìn giới,
Mất nước, tan nhà từ đó sanh.
BỐN NÚI:
Nguyên là, tứ đại vốn không,
ngũ ấm chẳng có. Do không khởi vọng, vọng thành sắc, sắc tự chơn không.
Vọng ấy từ không, không hiện vọng, vọng sanh các sắc. Ðã trái không
sanh không hóa, mãi làm có hóa có sanh. Không sanh hóa thì không hóa sanh; có
hóa có sanh nên có sanh có hóa. Hoặc sanh thánh hiền ngu trí, hoặc hóa vảy
cánh lông sừng. Luôn luôn chìm đắm nơi bến mê, mãi mãi trôi lăn trong biển
khổ. Mờ mờ mịt mịt nào biết nào hay, rối rắm lăng xăng chẳng tinh chẳng
ngộ. Trọn là buông tâm chạy đi, đều không nắm mũi kéo về. Khiến đến
qua lại sáu đường, xuống lên bốn núi. Bốn núi là: Sanh, Già, Bệnh, Chết.
Nay lần lượt trình bày bốn núi để lại đời sau.
KỆ BỐN NÚI
Bốn núi cheo leo vạn khóm tùng,
Ngộ xong chẳng có muôn vật không.
Mừng được ba chân lừa có sẵn,
Cởi lên thúc mạnh vượt cao phong.
NÚI THỨ NHẤT
Núi thứ nhất là tướng Sanh:
Vì sai một niệm nên hiện đa đoan. Gá hình hài nơi tinh huyết mẹ cha,
nương khí âm dương dưỡng nuôi thai nghén. Trong tam tài người đứng giữa,
lại hàng chí linh của muôn vật. Chẳng luận kẻ trí người ngu, đều thuộc
bào thai bao bọc; hỏi chi một người trăm họ đều trong lò bể mà ra. Hoặc
mặt trời biểu hiện, vua thánh giáng sanh; hoặc các sao ứng điềm, tôi hiền
xuất hiện. Văn chương quét sạch ngàn quân, võ luợc chiến thắng trăm trận.
Trai cậy phong tư ném quả, gái khoe sắc đẹp nghiêng thành. Một trận cười
nghiêng nước, hai trận cười đổ thành. Ðua danh khoe đẹp, tranh lạ đấu
trân, xem ra thảy đều luân hồi, đáo để khó trốn sanh hóa.
Tướng Sanh của người là mùa xuân
trong năm. Hanh thông đang độ tam dương, muôn vật rực màu tươi tốt. Một
trời trong sáng, nơi nơi liễu thắm hoa cười; muôn dặm phong quang, chốn
chốn oanh kêu bướm lượn.
Kệ rằng:
Trời đất nấu nung vạn tượng thành,
Xưa nay không mống cũng không manh.
Chỉ sai hữu niệm quên vô niệm,
Liền trái không sanh nhận có sanh.
Mũi đắm các hương, lưỡi tham vị,
Mắc mờ chúng sắc, tiếng mê tai.
Lang thang làm khách phong trần mãi,
Ngày cách xa quê muôn dặm trình.
NÚI THỨ HAI
Núi thứ hai là tướng Già:
Hình dung thay đổi, khí huyết đã suy, dáng gầy tuổi cao, ăn uống hay sặc
thường nghẹn. Tóc xanh má đỏ đổi thành tóc bạc da mồi, ngựa trúc áo
hoa biến thành gậy cưu xe cói. Dẫu rằng mắt sáng như Ly Lâu cũng khó
phân rành màu sắc; dù cho tai thính như Sư Khoáng cũng không nhận rõ âm
thanh. Tiều tụy như cây liễu lúc thu về, điêu linh như đóa hoa khi xuân hết.
Bóng chiều vừa ngã non tây, dòng nước sắp chảy về biển đông.
Tướng Già của người là mùa hạ
trong năm. Trời nóng đá chảy muôn vật đều khô, nắng nóng sôi vàng trăm
sông sắp cạn. Hoa tàn liễu úa, bờ lạch trong vườn há còn lưu giữ. Bướm
lượn oanh bay, dưới lá đầu cành già sắp tới.
Kệ rằng:
Con người kiếp sống tợ phù du,
Thọ yểu người trời chớ vọng cầu.
Bóng ngã nương dâu, chiều sắp đến,
Thân như bồ liễu tạm qua thu.
Phan Lang thuở nọ còn xanh tóc,
Lã Vọng ngày nay đã bạc đầu.
Cuồn cuộn việc đời trôi chẳng đoái,
Vầng ô gác núi, nước trôi xuôi.
NÚI THỨ BA
Núi thứ ba là tướng Bệnh:
Tuổi đã già khọm, bệnh đến cao hoang. Chân tay mỏi mệt, mạch lạc khó
thông, trăm lóng rã rời, nóng lạnh chẳng thuận. Tan mất tánh chơn thường,
sai lệch nguồn điều sướng. Ngồi đứng khó khăn, co duỗi đau đớn. Mạng
dường ngọn đèn trước gió, thân như hòn bọt trên sông.Tâm sanh bóng quỷ
lô nhô, mắt thấy không hoa lốm đốm. Hình hài gầy yếu, ai là Biển Thước
thuốc thang; thân thể hao mòn, nào kẻ Lư Nhân cứu chữa. Bạn bè luống
nhọc viếng thăm, anh em uổng sức nâng đỡ. Bệnh nặng nhiều tháng chẳng
lành, nằm liệt nhiều tuần chưa khỏi.
Tướng Bệnh của người là mùa thu
trong năm. Gặp khi sương lạnh mới rơi, đến lúc cỏ cây đều héo. Rừng
rậm xum xuê, một trận gió vàng đã lơ thơ; núi biếc non xanh, móc ngọc mới
sa liền trơ trọi.
Kệ rằng:
Âm dương trái vận vốn xoay vần,
Gieo rắc tai ương đến thế nhân.
Ðại để có thân là có bệnh,
Ví bằng không bệnh cũng không thân.
Linh đơn chớ cậy trường sanh thuật,
Lương dược khó mong được sống bền.
Sớm nguyện xa lìa ma cảnh giới,
Xoay tâm về đạo dưỡng thiên chơn.
NÚI THỨ TƯ
Núi thứ tư là tướng Chết:
Bệnh càng trầm trọng mạng sắp cáo chung. Tuổi thọ mong hưởng trăm
năm, thân thế trở thành giấc mộng. Thông minh trí tuệ khó trốn ngày đại
hạn sắp sang. Sức mạnh oai hùng đâu chống được khi vô thường đã đến.
Thiếp thuận vợ trinh trở thành đau thương đứt ruột, anh nhường em kính
vội nên ly biệt suốt đời. Vật mình lăn đất, vỗ trán kêu trời. Tường
hoa nhà rộng có làm chi, kho đụn vàng kho rồi cũng bỏ. Dạ đài mù tối
luống nghe gió bấc vi vu, tuyền hộ then gài chi thấy mây sầu ảm đạm.
Tướng Chết của người là mùa đông
trong năm. Càn khôn ứng Thái tuế tròn vòng, nhật nguyệt hướng huyền huyền
hội tụ. Âm tinh cực thịnh, khắp trời mưa tuyết tơi bời, dương khí
tan dần, nước tám đức đóng băng càng lạnh buốt.
Kệ rằng:
Cào đất đùng đùng trận gió hanh,
Lão ngư say tít chiếc thuyền chành.
Bốn bề mù mịt mây sầm bóng,
Một dãy lô xô sóng cuộn ghềnh.
Theo lớp hạt mưa bay phất phới,
Dồn nhau tiếng sét nổ đì đoành.
Giây lâu tan bụi, bên trời tạnh,
Trăng lặng lòng sông, đêm mấy canh?
(Ngô Tất Tố)
Bảo táp cuồng phong đất bụi bay,
Lão ngư say tít, chiếc thuyền lay.
Bốn bề mây phủ màu đen kịt,
Một dãy sóng gầm tiếng vang tai.
Sầm sập trận mưa ào ạt đổ,
Ì ầm xe sấm nổ vần xoay.
Tạm thời bụi lắng, chân trời sáng,
Trăng lặng lòng sông, canh mấy ai?
NÓI RỘNG SẮC THÂN
Hết thảy các người! Thân là gốc
khổ, thể chất là nhân nơi nghiệp nếu tự cho nó là thật, cũng là nhận
giặc làm con.
Các ông nên chín chắn xem, chỉ sắc
thân này khi chưa vào bào thai thì nơi nào được có. Bởi do niệm khởi
duyên hội, năm uẩn hợp thành, thể mạo vọng sanh, hình dung giả có.
Quên thật quên gốc, hiện giả hiện dối, hoặc nữ hoặc nam, hoặc đẹp
hoặc xấu. Trọn là buông tâm chạy đi, toàn không một bước trở về, chạy
rong trên đường sanh tử, mất tuốt "bản lai diện mục". Do đó,
dương mắt nhìn bên ngoài, ai biết xoay đầu ngó lại bên trong. Khi lại,
sanh là hóa sanh; nơi đến, trong mộng nói mộng . Lăng xăng lộn xộn, vội
vội vàng vàng, lấy giả làm chơn, trái không quên sắc. Ðầu sọ khô cài
hoa dắt ngọc, túi da hôi ướp xạ xông hương, cắt lụa là che đậy máu
tanh, dồi son phấn át thùng phân thúi. Trang sức như thế trọn là gốc nhớp.
Không thể nơi đây tự thẹn, lại hướng trong ấy mến yêu.
Hết thảy các người! Giống hệt con
rối, đều nhờ sợi tơ kéo rút, đùa đến đùa đi, cùng sanh một thứ,
sau khi buông đi, thật là đáng chết. Tự khởi muôn việc tính toán, đều
do lục tặc công phá. Chẳng lo già bệnh chết đến, chỉ thích sắc tài rượu
thịt. Luống đua đầu lằn sừng ốc, cam chịu lợi ràng danh buộc. Trọn
ngày dồn sức mong cầu, tối lại trở thành mộng tưởng. Chất chứa nghiệp
dơ như giếng, chẳng biết tóc bạc như sương. Một hôm bệnh nặng trầm
kha, trăm năm trọn về mộng lớn. Tim gan đau đớn dường thể oán thù,
thân thể ốm gầy giống như quỷ đói. Còn muốn cầu đảosống dai, nào
biết sát sanh hại mạng. Chỉ mong biết đời sống như tùng bá, đâu ngờ
thân thể ví tựa nhà xiêu. Hồn phách tuy về cõi quỷ, thi hài vẫn còn
ở nhân gian, tóc lông răng móng chưa kịp tiêu, đàm dãi máu me đều chảy
trước. Rữa nát thì máu mủ chảy trào, hôi hám ắt xông trời ngộp đất,
đen nám chẳng dám nhìn, xanh bầm thật đáng tởm. Chẳng luận giàu nghèo
đồng vào cõi chết, hoặc để trong nhà thì dòi đục tửa sanh, hoặc ném
ra đường quạ ăn chó xé. Người đời đều bịt mũi đi qua, con hiếu thì
lấy chiếu mền quấn dấu. Nhặt thu hài cốt, chôn cất thịt xương. Quan
quách phó cho đóm lửa ma trơi nơi hoang dã, mã mồ giao cho muôn dặm núi
sông. Khi xưa tóc đen má ửng, ngày nay xương trắng tro đen, Khi mưa lệ
rơi thì mây sầu thê thảm, khi gió buồn thổi thì trăng sáng hắt hiu.
Ðêm vắng thì quỷ khóc thần sầu, năm dài thì ngựa giày trâu đạp. Lửa
đom đóm lập lòe trong đám cỏ xanh, tiếng dế ngân nỉ non cạnh hàng dương
liễu. Bia ghi nữa chìm rêu xanh phủ, tiều phu dẫm mãi thành lối mòn. Dầu
cho văn chương cái thế, giả sử tài sắc nghiêng thành, chung cuộc đâu
có đường khác, cuối cùng cũng chỉ một lối đi. Mắt bị sắc dẫn, trèo
lên cây kiếm; tai theo tiếng lôi, tiến lên núi đao; ý chua cay vạt dầu
sôi nung nấu. Nhân gian trọn một trăm năm, trong địa ngục mới là sáng tối.
Nếu người tác gia đủ mắt, cần phải
sớm gấp hồi quang, chuyển thân nhảy khỏi vòng sanh tử, khoảng khảy tay
cắt đứt lưới ái ân. Dù là nam hay nữ thảy đều tu được; dầu rằng
trí hay ngu trọn đều có phần. Nếu chưa đạt được Phật tâm, Tổ ý
hãy trước nương trì giới tụng kinh. Ðến lúc Phật cũng chẳng phải, Tổ
cũng chẳng phải, thì giới gì trì, kinh nào tụng. Nơi sắc huyễn cũng là
chơn sắc, ở thân phàm cũng là thân Phật. Phá sáu thức làm sáu thần
thông, dạo tám khổ thành tám tự tại.
Tuy nói thế ấy, mà mỗi người vào
trong sắc thân rồi bỏ đó thật khó thay!
Hết thảy các người! Chỉ sắc thân
này lại làm sao giải thoát? Nếu chưa giải thoát, cần phải nghe đây:
Vô vị chơn nhơn thịt đỏ au,
Hồng hồng bạch bạch chớ lầm nhau.
Ai hay mây cuộn, không toàn tịnh,
Sương biếc bên trời, dãy núi cao.
RỘNG KHUYẾN PHÁT
TÂM BỒ ÐỀ
Ở đời cái quý tột chỉ là vàng ngọc
mà thôi. Nhưng xét kỹ chỗ quý tiếc ấy, chẳng bằng thân mạng. Ví như
có người giàu sang được phong làm đại tướng, dùng vàng ròng làm giáp
để che chở cho thân. Ðến khi lâm chiến binh đao bị thua, hoặc cởi giáp
ném gươm mà chạy, mong được thân mạng an toàn mà thôi, giáp vàng ròng
chẳng bằng cái quý thân mạng, đây là thực vậy.
Ngày nay không thế, trái lại quý vật
kia mà khinh thân này. Chẳng biết thân này khó được có ba. Thế nào là
ba?
1.- Trong lục đạo chỉ có người là
quý, đến khi nhắm mắt đi rồi, mờ mờ mịt mịt chẳng biết chỗ đến.
Hoặc vào đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A tu la chẳng được làm
người. Ðây là cái khó được thứ nhất.
2.- Ðã được làm người, lại sanh
nơi mọi rợ, tắm thì đồng sông, ngủ thì chung giường, trật tự tôn ty
không có, nam nữ lẫn lộn, chẳng được phong tục nhân thuần, chẳng nghe
chư thánh giáo hóa. Ðây là cái khó được thứ hai.
3.- Ðã được sanh nơi phồn thịnh mà
sáu căn không đủ, thân thể tật nguyền, mù, điếc, câm, ngọng, què, thọt,
còng, gù; miệng mũi hôi tanh, thân hình nhơ nhớp. Thầy chẳng được gần,
chúng chẳng được thân. Tuy ở nơi phồn thịnh dường thể ở ngoài quê
vắng. Ðây là cái khó được thứ ba.
Nay đã làm người, được sanh nơi phồn
thịnh lại đầy đủ sáu căn, đâu chẳng là quý sao? Người đời luôn
luôn đuổi theo con đường danh lợi, luống nhọc xác tổn thần, đem thân
mạng rất quý báu này làm tôi tớ cho tiền của đáng khinh. Sánh với người
ăn bánh quên vợ, ngậm cơm quên môi nào có khác gì. Tuy thân mạng thực
là quý trọng, vẫn chưa quý trọng bằng đạo tối cao. Cho nên Khổng Tử
nói: "Sớm nghe đạo, chiều chết cũng vui". Lão Tử nói: "Tôi
sở dĩ có hoạn lớn, vì tôi có thân". Thế Tôn thuở xưa cầu đạo xả
thân cứu cọp đói. Ðâu chẳng phải ba bậc thánh nhân đều khinh thân mà
trọng đạo đó sao? Than ôi! Thân mạng thật lá quý trọng còn phải xả
để cầu vô thượng Bồ đề, huống là vàng ngọc, tiền của đáng khinh
mà lại tiếc sao? Ở trong ấp mười nhà vẫn có người trung tín, huống
là cả thế gian há không có người thông minh sáng suốt sao? Ðã nghe lời
này, cần phải gắng học, chớ nên nghi ngờ chậm trể. Kinh nói: "Một
phen mất thân người, muôn kiếp chẳng được lại", thật là thống
thiết. Cho nên Khổng Tử nói: "Người không chịu làm, tôi chẳng làm
gì, cam đành thôi vậy".
Rõ ràng thời gian trăm năm, toàn ở
trong sát na, thân huyễn tứ đại đâu thể lâu dài. Mỗi ngày chìm đắm
trong trần lao, mỗi lúc nghiệp thức càng mênh mông vô tận. Chẳng biết một
tánh viên minh, luống theo sáu căn tham dục. Công danh cái thế cũng chỉ là
một trường đại mộng, phú quý kinh nhân khó khỏi vô thường hai chữ.
Tranh nhân tranh ngã rốt cuộc thành không, khoe giỏi khoe hay cứu cánh chẳng
thật.
Gió lửa khi tan không già trẻ,
Núi sông bại hoại mấy anh hùng.
Ðầu xanh chưa mấy lúc, tóc bạc đã
sớm điểm sương, ngày vui vừa đến thì ngày điếu cũng đi theo. Một bao
máu mủ nhiều năm khổ luyến ân tình, bảy thước hình hài buông lòng
tham mê tài bảo. Thở ra khó mong được hít vào, ngày nay không bảo đảm
ngày mai.
Sông yêu chìm nổi lúc nào thôi,
Nhà lửa đốt thiêu bao giờ tắt.
Chẳng nguyện vượt ra lối nghiệp,
chỉ vì có công phu. Vua Diêm La chợt truy tìm, Thôi tướng công há cho triển
hạn. Ngoái đầu nhìn người thân chẳng thấy, đến đây rồi nghiệp báo
tự mang. Quỷ vương, ngục tốt mặc sức khảo tra, cây kiếm núi đao khôn
chống đở. Hoặc nhốt dưới ngọn núi lửa, hoặc giam trong núi Thiết vi.
Vào vạt dầu sôi muôn kiếp ngàn đời, bị chặt chém một đao thành hai
khúc. Ðói nuốt hoàn sắt nóng, khát uống nước đồng sôi. Suốt ngày
luôn chịu khổ đau, năm trăm kiếp chẳng thấy hình bóng. Trả xong tội
nghiệp trở vào luân hồi. Bỗng mất thân người khi trước, trở lại
mang lấy đãy da. Ðội lông mang sừng, hàm sắt dây yên, lấy thịt nuôi người
dùng mạng trả nợ. Sanh bị khổ dao bầm chày nện, sống bị nạn nước
sôi lửa bỏng. Hằng chứa oán thù, thay nhau ăn nuốt. Khi đó mới hối hận,
học đạo không nhân. Chi bằng ngày nay tu tập, chớ để đời này trôi
qua.
Ðức Phật Thích Ca trước bỏ hoàng
cung đi thẳng vào núi Tuyết. Cư sĩ Bàng Long Uẩn đem gia tài đổ xuống
biển sâu. Chân Vũ chẳng tiếc ngôi vua chỉ cầu tu hành. Lữ Công đã làm
thần tiên vẫn còn tham vấn. Tô Ðông Pha thường gần Phật Ấn, Hàn Văn
Công lại lễ Ðại Diên, Bùi Công bị đoạt hốt nơi Thạch Sương, Phòng
Tướng hỏi pháp ở Quốc Nhất. Diệu Thiện không nhận phò mã, thành Phật
không ngờ, Lục Tổ mới gặp khách nghe kinh liền tỉnh ngộ. Ðạo Thiền
nếu không thú vị, hiền thánh sao chịu quy y, Hoa Lâm cảm hóa hai cọp theo
luôn, Ðầu Tử có ba con chim báo sáng. Lý Trưởng giả giải kinh mà thiên
trù dâng cơm. Tu Bồ Ðề ngồi yên mà Ðế Thích tán hoa. Ðạt Ma một chiếc
dép về Tây, Phổ Hóa rung chuông bay đi. La hán đến tham vấn với Hòa thượng
Ngưỡng Sơn, Nhạc Ðế quy y với Thiền sư Tư Ðại, Cảnh Sơn đến nay vẫn
được Long vương thỉnh cúng. Tuyết Phong ngày xưa hay sai người gỗ phá
non. Ðây là những nguyên do để nghiệm biết, chớ tự khinh mà lui sụt.
Chồn hoang còn nghe Bá Trượng nói
pháp. Loài ốc sò vẫn biết hộ kinh Kim Cang. Mười ngàn con cá nghe danh hiệu
Phật được hóa làm con trời. Năm trăm chim quạ nghe tiếng pháp thảy được
làm hiền thánh. Mãng xà nghe sám hối được sanh thiên. Rồng nghe kinh mà
ngộ đạo. Chúng là loài vật còn hay lãnh ngộ, huống là người sao chẳng
hồi tâm.
Hoặc có người vùi đầu trong ăn uống,
qua mất một đời. Hoặc có người trên đường tu hành lầm lẫn mà
không thức tỉnh. Ðâu biết tánh giác Bồ đề mỗi mỗi viên thành, nào
hay căn lành Bát nhã người người đầy đủ. Chớ luận đại ấn tiểu
ấn, thôi phân tại gia xuất gia. Chẳng cuộc người tăng kẻ tục, chỉ cốt
nhận được bản tâm. Vốn không có nam nữ, đâu cần chấp tướng. Người
chưa rõ dối chia tam giáo, liễu được rồi đồng ngộ nhất tâm. Nếu hay
phản chiếu hồi quang, đều được kiến tánh thành Phật.
Huống là thân người khó được, Phật
pháp khó nghe. Nếu muốn vượt khỏi vòng quanh lục đạo, chỉ có con đường
tắt nhất thừa. Cần tìm chánh kiến, chớ tin tà sư. Ngộ rồi mới là
vào cửa, hành được mới hay thoát tục. Bước bước đạp trên đất thật,
đầu đầu đều đội hư không. Khi dùng thì muôn tánh toàn bày, buông đi
thì mảy bụi chẳng lập. Vượt đến chỗ không còn tương quan sanh tử,
cơ liễu ngộ quỷ thần nhìn chẳng ra.
Là phàm là thánh đồng vào đường này,
hoặc oán hoặc thân cùng chung một lỗ. Thật ngộ như thế, còn kẹt giữa
đường. Thôi nói tam huyền hướng thượng, cốt rõ một câu rốt sau. Hãy
nói hiện nay cái gì là "một câu rốt sau?"
Non xanh chốn ấy nhìn trời rộng,
Sen đỏ nở rồi nghe mùi thơm.
LUẬN VỀ THỌ GIỚI
Tịnh giới tiếng Phạn gọi là
Ba La Ðề Mộc Xoa. Sở dĩ chư Phật ba đời được thành đạo không vượt
ngoài giới. Nên nói: "Người có phá giới, được gọi là Tỳ kheo, người
không phá giới gọi là ngoại đạo". Ðây là chỉ người có thọ giới
cùng người không thọ giới. Thọ giới rồi lại phá còn gọi Tỳ kheo; huống
là người thọ tất cả tịnh giới, lại kiên trì giữ gìn! Cho nên hiện
tại Bồ tát lấy đây (giới) mà độ sanh; vị lai người tu hành do đây
(giới) mà giải thoát. Kinh nói: "Giới như đất bằng, muôn điều lành
từ đó sanh. Giới như thuốc hay, chữa lành các bệnh. Giới như hòn ngọc
sáng, hay phá mờ tối. Giới như chiếc thuyền, hay đưa người qua biển.
Giới như chuổi anh lạc,trang nghiêm pháp thân".
Người có tội phải sám hối, nếu
không sám hối thì tội càng sâu. Một phen mất thân này, muôn kiếp chẳng
được lại. Ngày nay tuy an, sáng mai khó bảo đảm. Nên giữ giới pháp
này, chóng qua sanh tử. Thờ Phật làm thầy, trước phải y theo giới luật.
Cổ Ðức nói: "Qua sông phải dùng bè, đến bờ chẳng cần thuyền".
Ðây là cổ nhân dùng giới luật làm thuyền bè. Song người nay chẳng dùng
thuyền bè qua sông, mà được đến bờ kia, thật ít thay!
LUẬN TỌA THIỀN
Phàm người học đạo chỉ cầu
kiến tánh. Tuy thọ được tất cả tịnh giới, mà không tọa thiền thì
định lực chẳng sanh; định lực chẳng sanh thì vọng niệm không diệt,
muốn được kiến tánh thật khó vậy. Ðức Phật Thích Ca vào núi Tuyết,
ngồi ngay thẳng sáu năm, chim cáp làm tổ trên đầu, cỏ tranh mọc xuyên
qua bắp vế, mà thân tâm thản nhiên. Tử Cơ ngồi tựa ghế, thân như cây
khô, tâm tợ tro tàn. Nhan Hồi ngồi quên, tay chân rã rời. Ðuổi thông
minh, lìa ngu trí, đồng với đại đạo. Ðó là các bậc thánh hiền trong
tam giáo ngày xưa, đã từng ngồi định.
Song đi đứng nằm ngồi đều là thiền,
không phải chỉ riêng ngồi. Nhưng vì đi thì cất bước, đứng thì nhọc
nhằn, nằm thì mờ mịt mà yên tỉnh, yên tỉnh thì cái nghĩ sanh, nghĩ
sanh thì niệm khởi. Muốn dứt các niệm nên tập ngồi thiền định, nếu
khi ngồi không dứt các niệm, tâm khỉ đua nhảy, ý vượn chạy rong, hoặc
vọng tưởng mà biết tiền trần, hoặc vô ký mà quên tự tánh. Tựa giường
tựa vách, nhắm mắt che tròng, ngủ gục nước miếng chảy, đầu cúi xương
sống cong. Tuy giả danh là tọa thiền, mà ngồi dưới núi đen, trong hang quỷ.
Cho nên thiền sư Hoài Nhượng nói: "Mài gạch muốn làm gương" là
nói về người này vậy.
Vả lại, thiền có bốn thứ:
1.- Tạo kế khác, ưa trên chán dưới
mà tu, gọi là "Ngoại đạo thiền".
2.- Chánh tín nhơn quả, cũng ưa trên
chán dưới mà tu, gọi là "Phàm phu thiền".
3.- Rõ lý sanh (nhân) không, chứng đạo
thiền chơn mà tu, gọi là "Tiểu giáo thiền".
4.- Ðạt nhân, pháp đều không mà tu,
gọi là "Ðại giáo thiền".
Nay người hậu học, cần lấy "Ðại
giáo thiền" làm chánh. Nơi đây tập tọa thiền dứt niệm, chớ sanh
kiến giải.
LUẬN VỀ GIỚI, ÐỊNH, TUỆ
Phàm tất cả người tu hành đều
do hai việc: chán sanh, tử. Bỏ cha mẹ vợ con, xuất gia cầu đạo, phụng
thờ đức Phật làm thầy. Noi theo đường tắt của chư Phật chỉ có kinh
mà thôi. Song trong kinh nói ra duy giới, định, tuệ. Luận giải thoát nói:
"Giới, định, tuệ gọi là đạo giải thoát". Giới là oai nghi. Ðịnh
là chẳng loạn. Tuệ là nghĩa giác tri. Lấy giới để trừ ác cấu, lấy
định để trừ triền cấu, lấy tuệ để trừ sử cấu. Cho nên dùng giống
thiện này (giới, định, tuệ) mà theo đạo gọi là Sơ thiện, Trung thiện.
Hậu thiện. Giới là sơ thiện, định là trung thiện, tuệ là hậu thiện.
- Giới là sơ thiện: vì tinh tấn trì
giới thành tựu bất thối nên mừng. Vì mừng nên nhảy nhót, vì nhảy
nhót nên cử động, vì cử động nên vui, vì vui nên tâm không định.
- Ðịnh là trung thiện: do thân cử động
nên dừng, do dừng nên tâm trụ, do tâm trụ nên biết như thật.
- Tuệ là hậu thiện: do thấy biết
như thật nên chán ghét, do chán ghét nên lìa dục, do lìa dục nên giải
thoát.
Vì thế dùng giới trừ ác thú, dùng
định trừ Dục giới, dùng tuệ trừ tất cả cõi. Nương theo giới, định,
tuệ này mà tu, tức là đường tắt của chư Phật.
LUẬN GƯƠNG TUỆ GIÁO
Tuệ sanh từ sức định. Nếu tâm
định thì gương tuệ sanh, nếu tâm loạn thì gương tuệ diệt. Cũng như
chiếc gương bằng đồng trước phải nhờ mài giũa, sau mới trong sạch
soi sáng. Nếu chẳng mài giũa thì tỳ vết bụi nhơ phủ tối. Ðã bị bụi
nhơ phủ ánh sáng làm sao sanh? Cho nên trí tuệ do định hiện, định tuệ
nương nhau không thể thiếu một.
Nếu mượn danh tọa thiền, tâm chưa
được định mà gương tuệ sanh thì không bao giờ có. Tuy có tánh tuệ mà
không tập tọa thiền, tự cho đã có tuệ thì cần tọa thiền làm gì? Người
như thế, tuy có tuệ mà không sáng suốt. Nếu khi thiền định, tâm chưa
được định mà muốn cầu tuệ, ví như sóng gió chưa dừng mà mong thấy
bóng mặt trăng. Nếu tâm đã định lại sanh tà giải, cầu mong được tuệ,
cũng như sóng gió đã lặng, bóng trăng lóng trong mà lại lấy tay muốn vớt
bóng trăng trong nuớc, khi nào được thấy.
Tổ sư nói: "Tịch mà thường chiếu,
chiếu mà thường tịch". Lại nói: "Tịch tịch tinh tinh phải, tịch
tịch vô ký sai. Tinh tinh tịch tịch phải, tinh tinh loạn tưởng
sai".(*) Tinh tinh tịch tịch phải, tịch tịch tinh tinh là thuốc, vô ký
loạn tưởng là bệnh. Nếu thân có bệnh phải nhờ thuốc đối trị, thân
đã bình định còn gì phải trị. Nếu được như thế thì định tuệ thành
tựu.
Chú thích: (*) Trong chánh văn:
"Tịch tịch tinh tinh thị vô ký, tinh tinh tịch tịch thị loạn tưởng".
Nguyên bản của thiền sư Huyền Giác: "Tịch tịch tinh tinh thị, tịch
tịch hôn trầm phi". Có lẽ ở đây in sót mấy chữ.
LUẬN VỀ NIỆM PHẬT
Phàm niệm Phật là do tâm khởi.
Tâm khởi thiện thì niệm thiện, khởi niệm thiện thì nghiệp báo thiện.
Tâm khởi ác là niệm ác, sanh nghiệp ác thì ứng nghiệp ác. Như gương hiện
ảnh, tợ bóng theo hình. Cho nên thiền sư Vĩnh Gia nói: "Ai vô niệm, ai
vô sanh?" là nghĩa này vậy.
Nay học giả muốn khởi chánh niệm
để dứt ba nghiệp, cũng nhờ công phu niệm Phật. Thế nào là niệm Phật
được dứt ba nghiệp? Vì khi niệm Phật thân ngồi ngay thẳng, không làm hạnh
tà là dứt thân nghiệp. Miệng tụng chân ngôn, chẳng nói lời tà là dứt
khẩu nghiệp, Ý gắng tinh tấn, chẳng khởi tà niệm là dứt ý nghiệp.
Song người trí có ba bực:
1.- Bậc thượng trí thì tức tâm tức
Phật, chẳng nhờ tu thêm. Niệm tức là trần, chẳng cho một điểm. Niệm
trần vốn tịnh, nên gọi như như bất động, tức là thân Phật. Thân Phật
tức là thân ta, không có hai tướng. Tướng tướng không hai, lặng lẽ thường
còn chẳng biết, đó là Phật sống.
2.- Bậc trung trí ắt nương niệm Phật.
Chú ý chuyên cần, niệm niệm chẳng quên, tự tâm thuần thiện. Niệm thiện
đã hiện, niệm ác liền tiêu. Niệm ác đã tiêu chỉ còn niệm thiện. Do
niệm là ý niệm, nên niệm niệm diệt đó. Khi niệm diệt ắt về chánh
đạo. Lúc mạng chung được vui Niết bàn: thường, lạc, ngã, tịnh, là Phật
đạo vậy.
3.- Bậc hạ trí miệng siêng niệm lời
Phật, tâm muốn thấy tướng Phật, thân nguyện sanh về nước Phật. Ngày
đêm siêng năng tu hành, không thối chuyển. Sau khi mạng chung, tùy niệm thiện
đó được sanh về nước Phật. Sau được chư Phật dạy bảo chánh pháp,
chứng được Bồ đề cũng vào quả Phật.
Ba bậc trên sâu cạn chẳng đồng, chỗ
được là một vậy. Song bậc thượng trí nói thì dễ mà hành thì khó. Người
thời nay muốn theo gương học, toàn không có chỗ gá nương, trọn trông bờ
rồi lui rất khó đặt chân. Bậc trung trí nếu hay siêng tu như lời nói
ở trên thì tức khắc thành Phật. Nếu như lậu chưa hết mà lâm chung,
tùy quả báo kia trở lại thọ sanh ở đời, nhận quả báo thiện. Quả
báo thiện đã hết, không có người đánh thức, trở lại rơi vào đường
ác. Như thế đó cũng là khó vậy. Bậc hạ trí lấy niệm Phật làm nấc
thang, lấy tinh tấn làm cây thang, chú ý duyên lành, nguyện sanh về nước
Phật. Siêng năng không lười biếng, tâm tánh thuần thục. Sau khi mạng
chung, tùy theo sở nguyện được sanh về nước Phật. Ðã sanh vế nước
Phật thân đó không bao giờ mất.
Người học thời nay, đã được thân
người, ba nghiệp đồng có, mà chẳng dùng niệm Phật, cầu sanh về cõi
Phật, đâu chẳng khó sao? Như muốn niệm Phật, tức lấy bậc hạ trí
làm trước. Tại sao? Vì có chú ý vậy. Ví như xây đài ba tầng, mà chẳng
dùng tầng dưới làm trước thì không thể có vậy.
TỰA
BÌNH ÐẲNG SÁM HỐI
Pháp tánh như như, không có niệm
lự chừng mảy tóc. Chơn nguyên trong lặng, xưa nay bặt cả bụi nhơ. Bởi
chợt khởi vọng duyên, hiện thành thân huyễn. Chạy theo nghiệp thức,
quên mất hạt minh châu, tan hết gia tài, sáu căn ham mê tham dục. Nếu có
thu nhận tịnh pháp, ắt hay tẩy sạch vọng trần. Phát tâm bình đẳng nhất
chơn, lễ thể pháp thân vô tướng. Tiến vào trong ấy mà tự thọ dụng
và tha thọ dụng lẫn nhau. Nhằm bên kia cầu thì diện mục mập mờ liền
tự hiện.
Tuy nhiên như thế, kiếm chưa rút ra
khỏi hộp ngọc thì chỗ loạn khó yên; thuốc ra khỏi bình vàng thì gốc
bệnh mới lành. Trẫm khi muôn việc rảnh rỗi xem thấy chỗ sâu xa của ba
tạng, gặp được pháp môn này, chỉ thẳng vào trong người có khả năng
thành Phật. Dù là người mắt sáng, ngại gì trên gấm thêm hoa. Nếu là
tri âm hãy nên tiến bước.
TỰA KINH
KIM CANG TAM MUỘI
Trẫm theo bản tánh lắng mầu,
chơn tâm trong lặng tròn khuyết đều dứt, chẳng phải tánh trí hay tìm
được mối manh; tan hợp trọn quên, tai mắt đâu thể dự vào vang bóng
có không chung lại; đạo tục san bằng, sừng sững riêng còn siêu nhiên
không gì ngoài. Ðây là trọng yếu của tánh Kim Cang vậy.
Bởi chúng sanh đã lâu, huân nhiễm
nghiệp tập khắn chặt, tuy có thần thức mà bị sóng gió tri kiến lay động,
kẻ buông lung hạnh nhớp, che đậy chẳng phải không; người xoay huệ
quang soi sáng rất ít. Bèn khiến bốn phương đổi chỗ, mơ màng hướng về;
lối tẻ đã sai, đường chánh thành nhiều ngõ. Bản giác thủy giác đâu
rành, chơn tâm vọng tâm khó phân biệt. Vàng ròng lẫn trong chất quặng,
trăng sáng cùng bụi mù hiện chung. Cố hương lầm về chốn nào? Diện mục
quên mất bản lai. Trên đường Niết bàn rất khó tiến lên, hang ổ sanh tử
chui vào có lúc. Cho nên thầy ta bậc Năng nhân chỉ "Vô sanh từ nhẫn";
vì thương các khổ đắm chìm nên ôm ấp "Tứ hoằng thệ nguyện";
nhọc nhằn da diết "tâm tư". Pháp thân lắng lặng, Báo thân hiện
ra, điềm lành hiện rõ ở triều Chu. Chánh pháp đi, tượng pháp lại, nơi
điện Hán mộng thấy người vàng. Ngài Ca Diếp Ma Ðằng, Trúc Pháp Lan chở
kinh vào, Tây trúc (Ấn độ) Chấn Ðán (Trung hoa) mới thông. Kinh chữ Phạn
dịch ra văn Trung hoa sáng tỏ, đổi lá bối viết vào giấy lụa. Biển
giáo phô bày mọi trân bảo, nghĩa trời hiện rực các vì sao. Hoặc muốn
tăng thêm nơi chưa ổn, hoặc mong bổ túc chỗ còn sót, nối gót theo lối
Y Ngô, tiến chân trên đường Lưu Sa. Vượt biển không xa, quyết chí về
Trung quốc. Từ đời Hán bắt đầu đến nay mở rộng. Nào là: Thiên,
Viên, Bán, Mãn không thiếu ở hòm châu. Nào là: Ðốn, Tiệm, Thật, Quyền
dẫy đầy trong rương báu.
Kinh Kim Cang Tam Muội, há chẳng phải
là loại viên mãn đốn thật hay sao? Nếu chẳng vậy sao dùng pháp yếu
"vô sanh", trình thần thông làm phương tiện. Ðại sĩ (Bồ tát) hỏi
nhân xuất thế. Tôn giả (Phật) gieo quả cứu cánh. Muốn dẹp trừ có trụ
có diệt, trước nên vô tướng vô sanh. Thấy sanh niệm nơi vọng niệm là
mờ, khởi thủy giác nơi bản giác là lợi. Chuyển các tình thức vào thức
Am Ma La. Quên đầu không đoái thân mình, duỗi tay dắt về nơi thật tế.
Nếu chấp ngoại trần duyên hợp là có, liền bàn chân tánh vốn không và
tam tướng không quan hệ, tứ thiền làm gì có? Hòa các vị thành vô thượng
vị, đùa các dòng thành dòng sông bất nhị. Xoay chuyển vọng tâm biến kế,
tiếp nhập thức Như lai tàng, bao gồm hiển bày một tâm. Người nhơn chấp
mà mê, như Man, Thục giữ nhau. Người tùy sai mà ngộ, như Lỗ, Tề một lần
đối.
Trẫm xét đức làm chủ cả nước,
chăn dắt muôn dân, mỗi khi nghĩ đến gian nan, quên mất sớm tối. Việc
tuy hàng vạn, trộm lúc rảnh rang, chăm việc tiếc giới, học càng tăng tiến.
Chũ nghĩa còn ngại chưa rành, đêm đến canh khuya vẫn còn chăm học. Ðã
đọc sách Khổng Tử, lại xem kinh nhà Phật, kinh này một phen xem, trăm thứ
cảm hứng nảy sanh, tìm tòi chỗ thâm áo, ba nhẫn chín suy. Gậm nhấm nghĩa
vị, thu thập văn hoa, muốn rõ lời Phật, để giúp ích phần nào cho kẻ
hậu học. Lạm đem cái thấy biết hạn hẹp, hầu mở mang cho đàn vượn
ngốc. Do đó diễn tả lòng mình, tự làm chú giải. Tìm áo nghĩa nơi Long
cung, dò lời mầu nơi Thứu lãnh, nhỏ từng giọt nước trong nguồn chánh
giác, bồi từng hạt bụi trên đường chơn như. Phát huy u chí, mở sáng
chân tông, khiến người vừa xem liền thấy nghĩa rõ ràng. Phá giậu phên
cố chấp của bọn tà, làm thấy nhóm nghĩa đồ nghi thức.Vọng kiến mênh
mang, dần biết hướng chầu phương Bắc, đường mê chi chít, tạm biết lối
chánh về Nam. Ðể làm chỗ nương cho học giả, mới thấy lòng trẫm
không keo xẻn. Cho nên làm lời tựa.
NÓI RỘNG
MỘT ÐƯỜNG HƯỚNG THƯỢNG
Bàn Sơn để lời rằng: "Một
con đường hướng thượng ngàn thánh chẳng truyền, học giả nhọc hình
như khỉ bắt bóng". Khiến người học các nơi thảy nhằm trên đầu
đường này tham lấy ý thiền. Thử hỏi các ông, ý thiền làm sao tham? Nếu
tham được việc ấy, lại như kẻ ngu trên đầu thêm đầu, dưới đuôi
thêm đuôi, trong mắt thêm bụi, trên thịt thêm bướu. Nói đến thì môi
méo miệng lệch, nhìn đến thì tròng mắt rơi rớt. Ðức Phật đứng bên
liếc mắt nhìn, Tổ Ðạt Ma tựa góc châu mày, Mã Tổ treo phất tử, Thù
Sơn dấu trúc bề, Triệu Châu rách nát vải thô, Vân Môn dẹp bỏ bánh hồ,
Ðức Sơn ném phắt cây gậy, Lâm Tế im hơi. Phật Phật Tổ Tổ đều ẩn
dấu, người người đều tan mật. Dùi không thể vào, kim không thể dung,
đầu đồng cũng không thể tiến được, trán sát vọt cũng chẳng thủng.
Lửa nháng còn không đuổi kịp, điện xẹt cũng còn sau đuôi. Tịnh ngộ
thì chìm trong làng say, động mê thì đi trên đường sanh tử, giả sử
được phó chúc trên hội Linh sơn trọn là một đường bày vẽ. Thiếu Thất
truyền riêng cũng là hang dây bò. Mặc dù ông có cơ dường điện chớp,
tiếng hét liền ngộ, nói thao thao như dòng nước chảy; câu thoại đầu
liền tiến được, tham qua tham lại, lâu ngày chầy tháng, trên miệng tạm
có chút ít lưu loát, đâu không khỏi thân vẫn ở trong hang ổ.
Này các người! đến trong đây cũng
chẳng được vượt qua một mức, người học ngã nhào phóng mắt nhìn bờ
thẳm rất khó bề tiến bước. Hôm nay tôi vì tất cả các người, chẳng
khỏi vuốt râu trên miệng cọp, bước khỏi đầu sào. Chỗ nói gió khua
tùng vang, chỗ nín trăng rọi đầm trong. Khi đi thì mây bay nước chảy, lúc
đứng thì non yên núi vững. Lời lời là kế sống đức Thích Ca, câu câu
vốn gia phong Tổ Ðạt Ma. Buông đó thì chữ bát mở toang, nắm đó thì một
cửa không kẻ hở. Tại trong hang quỷ làm lầu các Di Lặc, ở dưới hắc
sơn chẳng khác cảnh giới Phổ Hiền. Chốn chốn là đại quang minh tạng,
cơ cơ đều bất nhị pháp môn. Mặc cho tối đi sáng lại, ngại gì mây
che trăng khuất. Minh châu trong tay, xanh thì rọi xanh, vàng thì rọi vàng, gương
sáng trên đài Hồ đến hiện Hồ, Hán đến hiện Hán. Ðâu quan hệ gì
thân huyễn trọn là pháp thân. Chẳng nhọc trên đảnh phóng quang, vốn đủ
sáu thần thông dụng. Hất nhào cung điện Ma vương, lột trần tâm can ngoại
đạo. Biến đại địa thành thế giới hoàng kim, khuấy trường hà làm
tô lạc cho người trời, trong lỗ mũi pháp luân thường chuyển, dưới chân
mày chùa báu hiện tiền. Trên sóng gái đá múa diệu bà sa, người gỗ thổi
sáo ca khoản đãi. Hoặc gặp trường thì đùa cợt, hoặc được chỗ thì
mở rộng lòng. Hoặc duỗi tay dìu dắt, hoặc quay về núi rừng. Khi lười
biếng thì ngủ mây gối đá, khi hứng thú thì vịnh gió ngâm trăng. Dạo
chơi nơi quán rượu phòng trà, cười đùa nơi bờ hoa rặng liễu. Hoa vàng
rợp rợp đều là tâm Bát nhã, trúc biếc xanh xanh vốn thực lý chân như.
Vạch cỏ hiện bản lai diện mục, đào đất dứt đường hiểm sanh tử.
Xoay đầu ngựa sắt đánh lối về, xỏ mũi trâu đất dắt đi hành khước.
Chẳng cùng muôn pháp làm bạn, ai bảo một vật vẫn còn? Phật cũng phi, tâm
cũng phi; chơn cũng vào, giả cũng vào. Ngoài cửa tam yếu mặc tình hét hai
làm ba, chữ thập đầu đường tha hồ gọi chín làm mười. Sáo không lỗ
thổi bản vô sanh, đàn không dây khảy bài khoái hoạt (vui sống). Kìa nơi
nơi chẳng phải tri âm, đây chốn chốn đâu cho nghe lỏm.
Chỉ một con đường hướng thượng
xưa nay làm sao nói? Dốt! Lửa này chưa từng đốt miệng. Lắng nghe! Lắng
nghe! Nếu nghe được lời này thì tai điếc ba ngày, nếu chẳng nghe được
chạy qua nhanh. Lại trao cho chẳng?
Chốn chốn non xanh nên cột ngựa,
Nhà nhà có lối thẳng Trường An.
Trở về dưới nguyệt người ít đến,
Một ánh trăng soi khắp mọi miền.
Tư liệu lưu truyền
của :
Dịch nguyên ngữ :
Thiền viện : |
Ðiều Ngự Giác Hoàng
HT. Thích Thanh Từ
Trúc Lâm Yên Tử |
Sưu tầm và đánh máy: Thanh-Sơn
VA-2002 (PL. 2546)
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/tulieu-GiacHoang.htm
|
|