- Về pháp tu thiền
Trước
hết, chúng ta hãy thử tự trả lời câu hỏi: Thiền là gì? Một câu hỏi
tuy đơn giản, nhưng có lẽ sẽ có nhiều lối trả lời khác nhau.
Theo ngữ nguyên, Thiền là cách nói
tắt của chữ "thiền-na", là lối phiên âm Hán Việt của chữ
Phạn Jhana, hay Dhyana trong Sanskrit. Thiền-na, trong kinh điển
nguyęn thủy, dùng để chỉ mức độ an định đặc biệt khi luyện tâm.
Thiền còn được dùng để dịch
chữ Bhàvana và Samadhi. Bhàvana có thể được hiểu như
lŕ một sự tiến triển, phát triển tâm linh, sự tu tâm, luyện tâm. Tiếng
Anh thường dịch là Mental development. Samadhi thường được dịch
lŕ Định, Thiền định, Tâm định. Tiếng Anh thường dịch là Concentration,
Meditation.
Ngay trong ngôn ngữ Thái Lan, họ cũng
không có một từ chuyên môn để dịch. Thông thường, để chỉ công phu
ngồi hŕnh thiền, họ dùng chữ "Nắng Samadhi" ("nắng"
là ngồi), hay "Nắng Bhavana". Thỉnh thoảng, họ dùng chữ "Nắng
Thang-nay" nghĩa là "ngồi và quay nhìn vào bên trong".
Theo thiển ý, có thể dịch chữ "bhàvana"
là: tu thiền, tu tâm, luyện tâm, lọc tâm, dưỡng tâm. Còn chữ "samadhi"
thì tùy theo ngữ cảnh. Nếu được dùng trong nghĩa "chánh định" (samma
samadhi), một trong 8 chi phần của Bát Chánh Đạo, thě chữ nầy có
liên quan đến các tầng thiền-na, và thường được xem như cùng nghĩa với
"samatha-bhàvana", dịch là Thiền An Chỉ, hay Thiền Chỉ. Nếu
được dùng trong nghĩa tam vô lậu học Giới Định Tuệ, thì có nghĩa là
bao gồm 3 chi: Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định của Bát Chánh Đạo.
Theo Tiến sĩ Muller, một học giả
Bắc tông, tác giả quyển Tự điển Thuật ngữ Phật học Đông Á (Dictionary
of East Asian Buddhist Terms), Thiền Định lŕ tiếng ghép đôi, từ chữ Phạn
là "Thiền" (từ "thiền-na") và chữ Hán là "Định",
có nghĩa là quay nhìn vào bên trong, với trạng thái tĩnh lặng.
Cư sĩ Đoŕn Trung Còn, một học giả
Bắc tông khác, trong quyển Phật học Từ điển, viết rằng: - Thiền là từ
chữ "Thiền-na", âm tiếng Phạn "Jhana, Dhyana".
"Thiền định" důng để dịch chữ "Samadhi", phiên
âm là Tam-ma-địa, Tam-muội. Có khi dịch là "tĩnh lự", nghĩa là
làm cho an tĩnh để suy xét (tư lự).
Theo Tự điển Phật Học Huệ
Quang, Dhyàna hay Jhàna, ngoài tiếng phiên âm là Thiền-na, còn
được phiên âm là Đà-diễn-na, Trì-a-na; dịch là Tĩnh lự, Tư duy tu tập,
nghĩa là tư duy trong sự vắng lặng.
Vì Thiền có liên quan đến Con Đường
Tám Chánh đưa đến giác ngộ giải thoát, ở đây, chúng ta cũng nęn ôn lại
lời Phật dạy về 8 chi phần của con đường nầy.
Tương Ưng Bộ, Tập 5, có ghi như
sau:
"Này các vị Tỳ-khưu, thế
nào là chánh tri kiến? Đó là sự thông hiểu về khổ, sự thông hiểu về
nguyên nhân của khổ, sự thông hiểu về sự diệt khổ, và sự thông hiểu
về con đường diệt khổ.
Thế nào là chánh tư duy? Đó là tư
duy về sự xuất ly, tư duy về vô sân, tư duy về vô hại.
Thế nào là chánh ngữ? Đó là từ
bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ
nói lời phù phiếm.
Thế nào chánh nghiệp? Đó là từ
bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ hành động tà dâm.
Thế nào là chánh mạng? Đó là đoạn
trừ tà mạng, nuôi sống với chánh mạng.
Thế nào là chánh tinh tấn? Đó là
tinh tấn ngăn chận không cho khởi sanh các bất thiện pháp chưa sanh, tinh tấn
trừ diệt các bất thiện pháp đă sanh, tinh tấn phát khởi các thiện
pháp chưa sanh, và tinh tấn duy trì các thiện pháp đã sanh.
Thế nào là chánh niệm? Đó là sống
quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, điều phục mọi tham ưu trên
đời; sống quán thọ trên thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, điều phục mọi
tham ưu trên đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, điều
phục mọi tham ưu trên đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh
giác, điều phục mọi tham ưu trên đời.
Thế nào là chánh định? Đó lŕ ly
dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền-na thứ nhất, một trạng
thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ; rồi làm cho tịnh chỉ tầm
và tứ, chứng và trú vào Thiền-na thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định
sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh, nhất tâm; rồi ly hỷ trú xả, chánh
niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm
lạc trú, chứng và trú vào Thiền-na thứ ba; rồi xả lạc, xả khổ, diệt
hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú vào Thiền-na thứ tư, không khổ,
không lạc, xả niệm thanh tịnh."
Qua đoạn kinh tręn, có 2 điều quan
trọng cần ghi nhận:
1) Chánh Định là công tác tu tập
để đem tâm an trú vŕo 4 Thiền-na, sau khi đoạn trừ các dục, các bất
thiện pháp - ở đây thường được hiểu lŕ đoạn trừ 5 triền cái: tham
dục, sân hận, hoŕi nghi, hôn trầm thụy miên, và trạo hối; và thay thế
bằng 5 thiền chi: tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm. Sau đó lần lượt xả bỏ
4 thiền chi đầu: tầm, tứ, hỷ, lạc, chỉ cňn giữ lại một trạng thái
tâm chuyên nhất, thanh tịnh, và tỉnh thức ở tầng thiền-na thứ tư.
2) Nếu xem Định trong tam học Giới-Định-Tuệ
lŕ gồm 3 chi cuối của Bát Chánh Đạo, thě Chánh Niệm và Chánh Định cần
phải thực hành chung với nhau, dựa trên Chánh Tinh Tấn.
Tu thiền, hành thiền, định tâm
là một công phu tu tập tối quan trọng để phát tuệ giải thoát, và thường
được ghi lại trong rất nhiều bài kinh giảng của Đức Phật. Định
trong Con Đường Tám Chánh đă được Đức Phật tuyęn bố ngay trong bài giảng
đầu tiên sau khi Thành Đạo, bài kinh Chuyển Pháp Luân. Trong những ngày cuối
cùng còn tại thế, Ngài tóm tắt về các pháp tu tập qua 37 phần bồ đề,
trong đó, "Định" được đề cập trong các nhóm: Ngũ căn, Ngũ lực,
Thất giác chi, vŕ Bát chánh đạo, như đă ghi lại trong kinh Đại Bát Niết
Bŕn của Trường Bộ.
Ngoài ra, theo Hòa thượng Thích Minh
Châu, trong quyển "Hành Thiền", có bốn lợi ích hay bốn công năng
của Thiền:
1) Thiền có khả năng đoạn trừ các
tham dục qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.
2) Thiền có khả năng đối trị sợ hăi, giúp hành giả có thể tu tập
trong bất cứ hoàn cảnh nào.
3) Thiền đem lại hỷ lạc cho hành giả.
4) Thiền đưa đến thŕnh tựu trí tuệ, đưa đến giác ngộ giải thoát,
đưa đến Niết bŕn.
Trong Kinh Pháp Cú, kệ 282, Đức Phật
dạy:
Tu thiền, trí tuệ sanh,
Bỏ thiền, trí tuệ diệt.
Trong kệ 372, Ngài khuyên:
Không trí tuệ, không thiền,
Không thiền, không trí tuệ.
Người có thiền, có tuệ,
Nhất định gần Niết Bŕn.
Trong Tương Ưng Bộ, Tập 5, Ngài dạy
rằng Bát Chánh Đạo chính lŕ cỗ xe tối thượng, là Pháp Thừa, để chiến
thắng tham-sân-si:
Này Ananda, cần phải hiểu như thế
này: "Cỗ xe thù thắng, cỗ xe pháp vô thượng - pháp thừa - là sự
chinh phục trong chiến trận chống tham, sân, si. Cỗ xe pháp nầy chính là
Con Đường Tám Chánh".
Rồi Đức Thế Tôn dạy thęm rằng
vật dụng để tạo cỗ xe đó lŕ Giới luật, Thiền là trục bánh xe và
Niệm là người đánh xe.
Trong Trung bộ 24, Kinh "Trạm
Xe", ngài Xá-lợi-phất giảng về 7 trạm xe, ám chỉ 7 giai đoạn thanh
tịnh hóa của một người tu Phật: Giới thanh tịnh, Tâm thanh tịnh,
Kiến thanh tịnh, Đoạn nghi thanh tịnh, Đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh,
Đạo tri kiến thanh tịnh, và Tri kiến thanh tịnh. Trong đó:
1) "Giới thanh tịnh" là
tuân giữ nghiêm túc các học giới đã thọ.
2) "Tâm thanh tịnh" là nhiếp
phục năm triền cái, đưa tâm an trú vŕo các thiền-na.
3) "Kiến thanh tịnh" là
phân biệt Danh-Sắc, sự thấy đúng danh và sắc như vậy, một sự thấy
đă được an lập tręn sự không mê mờ, do đã vượt qua ảo tưởng về
tự ngã.
4) "Đoạn nghi thanh tịnh"
lŕ thấy rõ quá trình tâm lý và vật lý tự phô bày sự thật Duyên
khởi, sự tồn tại và sự tan rã của các cảm thọ, các tưởng, không
còn nghi ngờ gì nữa.
5) "Đạo phi đạo tri kiến
thanh tịnh" lŕ biết rõ các cảm thọ hỉ, lạc đều là chướng ngại
cho sự phát triển trí tuệ rộng lớn, liền giác tỉnh, rồi khởi cảm thọ.
Hành giả đắc được trí biết rő cái gì là Đạo và cái gì là chướng
đạo (hay Phi đạo). Bấy giờ, hành giả tự mình biết chắc rằng:
giờ đây ta mới thực sự hạnh phúc.
6) "Đạo tri kiến thanh tịnh":
thấy rő quá trình thực hành, tu tập; thấy rõ hiện tượng tan rã của
các quá trình thân và tâm, thấy không có gì hiện hữu nữa; các đối tượng
chú tâm đều tan ră. Hành giả thấy rõ ba pháp ấn: khổ, vô thường, vô
ngã.
7) "Tri kiến thanh tịnh" là
tâm hoàn toàn thanh tịnh do thấy và biểt. Trong giai đoạn này, hành giả
đi vào các tầng thánh Đạo-Quả (Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, và
A-la-hán), sau khi thành tựu Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi và Bát Chánh
đạo.
Bảy giai đoạn thanh tịnh nầy được
triển khai trong bộ luận Thanh Tịnh Đạo của ngŕi Phật Âm (Buddhaghosa),
trong đó, có 3 phần: Giới, Định, vŕ Tuệ. Phần đầu lŕ tu tập về Giới,
để đưa đến thanh tịnh đầu tięn là Giới thanh tịnh. Tiếp đến
lŕ phần tu tập Định, có đề cập đến phát triển các tầng thiền-na.
Tu tập Định đưa đến Tâm thanh tịnh. Từ đó, lŕm nền tảng để
tu tập Tuệ, ở phần thứ 3 của bộ luận, để đưa đến các thanh tịnh
kế tiếp lŕ: Kiến thanh tịnh, Đoạn nghi thanh tịnh, Ðạo phi đạo tri
kiến thanh tịnh, Ðạo tri kiến thanh tịnh và Tri kiến thanh tịnh.
Trong bài kinh số 107, thuộc Trung Bộ,
Đức Phật giảng cho người Bà-la-môn Ganaka Moggallàna, tóm tắt con đường
tu tập, như sau:
- giữ gìn giới hạnh,
- hộ trì các căn,
- tiết độ ăn uống,
- chú tâm cảnh giác,
- thŕnh tựu chánh niệm tỉnh giác,
- tìm nơi thanh vắng để hành thiền,
- loại trừ 5 triền cái,
- an trú vào 4 tầng thiền-na.
Và các bước tu tập này áp dụng
cho bậc hữu học, tức là các phàm nhân, lẫn các bậc vô học, tức là
các vị thánh A-la-hán giải thoát.
Thêm vào đó, theo kinh Sáu Thanh Tịnh,
Trung Bộ 112, sau khi an trú vào 4 tầng thiền-na, Đức Phật khuyên các vị
Tỳ-khưu hữu học phải tiếp tục hành trì, phát triển các tuệ minh và
tiến tới giải thoát:
Sau khi an trú trong Tứ Thiền, với
tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến,
dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm
đến lậu tận trí. Vị ấy biết như thật: "Ðây là khổ", biết
như thật: "Ðây là nguyên nhân của khổ", biết như thật: "Ðây
là khổ diệt", biết như thật: "Ðây là con đường đưa đến khổ
diệt", biết như thật: "Đây là những lậu hoặc", biết như
thật: "Ðây là nguyên nhân của lậu hoặc", biết như thật: "Ðây
là các lậu hoặc được đoạn trừ", biết như thật: "Đây là
con đường đưa đến các lậu hoặc được diệt trừ".
Vị ấy nhờ biết như vậy, nhờ
thấy như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu,
thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, vị
ấy khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát"". Vị ấy biết:
"Sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành, việc cần làm đã làm; không còn
trở lui trạng thái này nữa".
Cũng xin ghi nhận ở đây, ngay trong
chương đầu tięn của bộ luận Thanh Tịnh Đạo, ngŕi Phật Âm trích lời
Phật dạy trong Tương Ưng, Tập 1:
Người trú giới có trí
Tu tập tâm và tuệ
Nhiệt tâm và thận trọng
Tỳ-khưu ấy thoát triền.
Ngài Phật Âm giải thích: "người
trú giới có trí" là người có giới thanh tịnh, có hiểu biết rõ
ràng dựa trên vô tham, vô sân, vô si. "Tu tập tâm" ở đây là
pháp hành thiền an chỉ, "tu tập tuệ" ám chỉ hành thiền minh
quán, "tu tập tâm và tuệ" có nghĩa là hành thiền Chỉ-Quán, hay
Chỉ-Quán song tu. "Nhiệt tâm và thận trọng" có nghĩa là có nhiều
nghị lực, tinh tấn và tỉnh giác nhận thức. "Tỳ-khưu" -
bhikkhu - ở đây mang một nghĩa rộng, không phải để chỉ hàng tu sĩ,
mà để chỉ người thấy được sự khốn khổ của sinh tử luân hồi.
"Thoát triền" lŕ thoát khỏi mọi trói buộc của sinh tử luân hồi.
Như thế, qua câu kệ trên, Đức Phật dạy chúng ta phải an trú trong Giới,
tu tập thiền Định, phát triển Tuệ quán, để giác ngộ giải thoát.
Đôi khi, trong kinh tạng, Đức Phật
có đề cập đến hai pháp thiền: (1) thiền an chỉ hay thiền chỉ (samatha-bhavana),
và (2) thiền minh quán (vipassana-bhavana) hay thiền quán. Hai pháp Chỉ-Quán
nầy cần phải được phát triển đồng đều, bổ túc cho nhau.
Trong Tăng Chi Bộ, Chương Hai Pháp,
Đức Phật dạy:
Có hai pháp này, này các Tỳ-khưu,
thuộc thành phần minh. Thế nào là hai? Chỉ và Quán. Chỉ được tu tập,
sẽ được lợi ích gì? Tâm được tu tập. Tâm được tu tập, sẽ được
lợi ích gì? Cái gì thuộc về tham được đoạn tận. Quán được tu tập,
sẽ được lợi ích gì? Tuệ được tu tập. Tuệ được tu tập, sẽ được
lợi ích gì? Cái gì thuộc vô minh được đoạn tận. Bị tham lŕm uế nhiễm,
này các Tỳ-khưu, tâm không thể giải thoát. Hay bị vô minh làm uế nhiễm,
tuệ không được tu tập. Vì vậy, do ly tham, là tâm giải thoát. Do đoạn
vô minh, là tuệ giải thoát.
Trong kinh Kimsuka, Tương Ưng Bộ, Thiên
Sáu Xứ, Ngài có ví dụ pháp tu Chỉ-Quán như là hai vị thiên sứ cùng đến
báo cáo cho vị chủ một ngôi thành ở vùng biên giới về tình trạng an
ninh, bảo vệ phòng chống quân địch. Vị chủ thành đó là Tâm Thức của
chúng ta, và địch quân ở đây lŕ các phiền não lậu hoặc. Người giữ
cửa thành là Niệm, và thành có sáu cửa là sáu căn. Như thế, ta dùng Niệm
để canh giữ sáu căn, vŕ nhờ có tu tập thiền Chỉ-Quán mà ta có thể ngăn
chận và phòng chống được các phiền não do lậu hoặc mang đến.
Tóm lại, Thiền định lŕ một pháp môn tu tập cần thiết
của người con Phật. Thiền định giúp tạo một khả năng bền vững để
giúp ta có đời sống thiện, hướng thiện, và cứu cánh là thiện. Thiền
có thể được xem là một tiến trình huân tập về cảm thọ, nuôi dưỡng
các cảm thọ tốt đẹp như hỷ, lạc, xả, và từ bỏ các cảm thọ
không tốt đẹp, như khổ, ưu. Đây lŕ một sự giáo dục tâm lý, đoạn tận
các tâm lý không tốt đẹp như năm triền cái vốn bắt nguồn từ tham
sân si, và thay thế bởi những tâm lý tốt đẹp là năm thiền chi, có căn
bản lŕ không tham, không sân, và không si. Thiền định là một giai đoạn
tiếp theo việc vun bồi Giới đức, vŕ là nền tảng để bước vào giai
đoạn kế là phát triển Tuệ giác.
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/tuthien.htm