- Vô
nhãn, nhĩ, tỷ . . .
- Barbara Brodsky
-
- Vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý
- Vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp . . .
- Kinh Bát Nhã
Ba La Mật
Barbara Brodsky đã hành thiền từ năm
1970. Bà dạy các phương pháp thiền
quán Vipassana và Tào động khắp nơi trên thế giới. Bà cũng là vị thầy hướng dẩn ở Trung
Tâm Deep Spring, nơi thường tổ chức các lớp hành thiền và các khóa an cư. Bà đã bị khiếm thính nặng từ hơn hai
mươi lăm năm nay. Phải sống với sự
im lặng đã ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống cũng như phương pháp giảng
dạy của bà. Bà cũng có nhiều năm
tham gia tìch cực vào các phong trào chuyến hoá xã hội với tinh thần bất
bạo động. Bà còn là nhà điêu khăc,
nhà văn.
Vô nhĩ; vô thanh; không có âm thanh. Vào năm 1972 tôi đánh mất khả năng nghe,
và tất cả các dây thần kinh trong tai cũng bị hư hoại làm ảnh hưởng
đến sự cân bằng của cơ thể. Sự
mất mát nầy là nổi đau khổ lớn nhất trong đời tôi, đồng thời cũng
là một quà tặng quí báu nhất.
Tôi phải đối mặt với sự mất mát nầy
cũng như với những trở ngại khác, nghĩa là phải đem hết tâm sức ra
tranh đấu để chấp nhận, thích ứng với tật bịnh của mình, và không
cho phép mình được than khóc, tự thương hại mình. Tôi còn là mẹ của những đứa trẻù,
nên dù cảm thấy đau đớn, chán nản, tôi không thể quên được bổn phận
phải nuôi dưỡng con. Chấp nhận được
sự mất mát của mình giúp tôi cảm thấy tự chủ dù rằng tôi hoàn toàn
không thể làm chủ được cơ thể. Tôi
không thể nghe; không thể đứng, đi, đọc hay chủ tâm nhìn vào một điểm
nào. Tôi nằm trên giường bịnh
nhưng cả thế giới như quay cuồng đảo lộn với những cơn nôn mữa đến
chóng mặt. Tôi có cảm tưởng như mình
bị bọc trong một quả bóng khổng lồ đến độ tất cả mọi âm thanh từ
thế giới bên ngoài không thể nào với tới tôi.
Khỏang một tháng sau tai nạn, tôi bắt
đầu phải bò như một đứa trẻ, đầu gối tôi sưng phồng trên nền gổ. Nhưng từ từ tôi gượng đứng lên trên
hai chân, đặt những bước đi đầu tiên, rồi ngã sóng soài giữa khoảng
không gian tưởng chừng vô tận giữa tủ quần áo đến cửa phòng, rồi cửa
phòng đến tủ sách khi cố gắng giữ thăng bằng trước mặt. Cuối cùng dầu tôi chưa thể đoán được
chữ trên môi người, tôi đã có thể tập trung mắt nhìn lâu ỡ một chổ
để có thể đọc sách được.
Đức Phật đã dạy rằng ta phải
quý thân nầy, nhưng tôi vứt bỏ thân tôi như một tấm giẻ rách. Tôi bỏ mặc tiếng kêu đau của cơ thể,
không cần biết đến sự giới hạn của cơ thể, tôi tự đứng lên để
chấp nhận nỗi bất hạnh nầy. Ngoài
bề mặt coi như tôi đã thắng được số phận.
Tôi may mắn có được một gia đình êm ấm, bạn bè tốt và công việc
của một nhà điêu khắc đồng thời là giáo sư đại học cũng đem lại
cho tôi nhiều an ủi. Tôi cố gắng đẩy
lui lòng sân hận, nỗi sợ hãi luôn đe dọa cuộc sống yên lành của tôi.
Không lạ gì khi càng ngày tôi càng cảm
thấy xa cách mọi người chung quanh. Khi
tiếp xúc tay đôi với ai, tôi không có vấn đề, nhưng khi ở trong đám đông,
khi quanh tôi một vài người bắt đầu nói, tôi lại có cảm tưởng mình
đang đứng ngoài cửa sổ lạnh lẻo, nhìn vào một đám đông ấm cúng
đang chuyện trò bên những bàn tiệc. Tôi
chỉ có thể ngồi ở bên ngoài lạnh lẻo, nhìn họ với bao thèm muốn. Lúc nào như cũng có một tấm gương thinh
lặng ở giữa chúng tôi.
Dỉ nhiên là bạn bè đã cố gắng giúp đở tôi rất nhiều. Họ tập nói chậm hơn. Nhiều người còn học cả 'ngôn ngữ im lặng'
bằng cách ra dấu tay. Họ 'dịch' cho
tôi khi người khác nói. Dần dần
tôi nhận ra rằng không phải sự vô tâm của họ làm tôi đau khổ, mà
chính là lòng ao ước, nỗi sân hận trong lòng đã hành hạ tôi. Khám phá đó cũng chẳng ích lợi gì, vì
tôi lại bắt đầu tự trách mình đã không biết mang ơn lòng tử tế của
những người quanh tôi.
Rỏ ràng là tôi cần phải suy gẫm
(quán chiếu) về cảm giác bị cô lập của mình. Nỗi đau khổ triền miên buộc tôi phải
tìm lối ra. Nhưng bằng cách nào? Tôi hãy còn trẻ, lúc đó tôi chưa được
biết đến Phật pháp. Dầu rằng
lòng tin vào tín ngưỡng của tôi (đạo Quaker) trong bao nhiêu năm cũng phần
nào nâng đở tôi, nhưng nó không dạy cho tôi phương cách nào để luôn
có mặt ở hiện tại.
Hơi thở luôn có mặt với chúng ta. Tôi bắt đầu chú ý đến hơi thở vào,
hơi thở ra khi làm việc. Chú ý đến
cách tôi cầm cây hàn xì, cách bàn tay tôi di chuyển. Rồi tôi bỗng nhận thấy tất cả hình
như hòa vào nhau -bàn tay, cử động, cây hàn xì, ánh lửa. Tôi cảm thấy một niềm vui tràn ngập như
thể tôi và tất cả đang hòa nhịp chung một vũ điệu. Tôi hiểu rằng sự tự thương hại hay tự
trách mình đều không giải quyết được điều gì. Trái lại khi tôi hòa nhập vào công việc
của mình, chủ tâm đến hơi thở, đến từng chuyển động của thân,
tâm tôi không cần phải tư duy để đem lại an bình cho tôi. Tôi đã có mặt ở đó.
Phải trãi qua nhiều thời gian trước
khi tôi hiểu được tính chất của sự mất mát của mình, và lâu hơn nữa
trước khi tôi có thể hiểu, làm lành được vết thương bị làm người
điếc. Suốt những năm tháng đó, suốt
ngày tôi chỉ thực hành thở khi sáng
tạo, thở khi mài dủa, hàn xì, thở và hiện hữu. Tôi bỏ rất nhiều giờ mổi ngày, tháng
nầy qua tháng khác, thực tập như thế hơn mười năm.
Trong những năm tháng đó, sự hành
Thiền của tôi dần thay đổi và sâu lắng hơn.
Nỗi đau khổ của tôi vẫn hiện diện, nhưng đã giảm mức độ. Sự thực hành đó đã giúp tôi suy gẫm về
trạng thái của khổ đau, để hiểu nó đã phát sinh do cảm thấy mình
khác biệt với mọi người chung quanh, dẫn đến cảm giác cô đơn cùng cực.
Ngày nay tôi không còn thấy mình 'điếc'
nữa, chỉ là tôi nghe ở một mức độ khác: Tôi nghe sự lặng thinh! Đó là một khả năng thiên phú! Vâng, tôi vẫn còn cảm nhận được nỗi
buồn trong tiếng cười của các con tôi, vẫn thèm được nghe những âm
thanh tuyệt vời đó. Nhưng tôi không
còn cảm thấy khổ đau trầm trọng nữa. Cái
tôi mất mát nơi thính giác nhắc nhở tôi hãy rộng mở trái tim đón muôn
ngàn niềm vui cũng như nỗi buồn của tất cả chúng sanh.
Diệu
Liên
(Trích
dịch từ No Eye, Ear, Nose. . .)