Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Những Vần Thơ Ngụ Ngôn I
Thích Nhật Từ

 

CHÓ TRU

Chó tru buồn bả ra đi,
Bỏ nơi cắt rún những khi no đầy.
Giữa đường gặp chú chó gầy,
Buông lời thăm hỏi: "chú mầy đi đâu ?"
Chó tru tỏ rõ đuôi đầu:
"Vì người căm ghét tiếng tru như trù.
Tiếng tru như tiếng gọi sầu,
Ma chay, chết chóc đượm mầu tang thương.
Người xua đuổi, kẻ bắn bương.
Tôi nào chịu nỗi, tìm đường đi xa !"
Khoan . . . khoan, chú hãy nghe ta:
"Tiếng tru không đổi, đau là vẫn đau !
Dù cho chú đến nơi nao,
Dân làng vẫn ghét, có đâu mà gần."
Chó tru mừng cảm lệ tràn,
Học đòi tiếng sủa, bỏ dần tiếng tru !

 

ẾCH NGỒI ĐÁY GIẾNG

Ếch ngồi đáy giếng một mình,
Nghêu ngao ca vịnh trời xanh thế tình:
Rằng trong cái kiếp phù sinh,
Ta là số một, ai kình, ai hơn ?
Bầu thăm thẳm, dáng tròn tròn,
Bên nước đọng, bên xình non, thiếu gì ?
Ếch liền đắc ý cười khì,
Thế gian một cõi, ai bì ta đây !
Oang oang, ẹp ẹp, hoay hoay,
Vênh vang tự đắc, biết ngày nào ra !
Trời cao đất rộng bao la,
Non xanh nước biếc, sơn hà bao quanh.
Dưới biển rộng, trên trời xanh,
Mênh mông, bát ngát, ngút ngàn không gian.
Kiếp ếch giếng thật lầm than,
Khôn ngu tự rõ, khoe khoang làm gì !

 

BA CON CHÓ, MỘT KHÚC XƯƠNG

Tại xó chợ, một khúc xương,
Hai con chó dữ cùng đường cắn nhau.
Một con dùng móng chân quào,
Móc mắt chó khác, té nhào ra ngay.
Chó kia đau đớn, chua cay,
Dùng mồm cẩu sực cắn nhây đỉnh đầu,
Chú chó đau, sủa gâu gâu . . .
Chưa phân thắng bại, bỗng đâu vụt vèo,
Một con chó khỏe nhanh nheo,
Xông ra chụp lấy, quặp quèo chạy đi.
Hai chú tức, đứng chết lì,
Con thì nhức mắt, con thì đầu đau,
Đói meo ruột, máu tuông trào,
Nghĩ thầm đau đớn, cắn nhau chỉ vì . . .
Chú chó "được" đứng cười khì,
Lại còn chọc tức, "Làm gì được anh ?"
Trăm năm trong chốn hồng trần,
Chiến tranh, tang tóc, xa gần lợi ai ?
Hỡi này, những đấng anh tài,
Thương nhau chung sức, dựng xây cuộc đời !

 

THƯỢNG ĐẾ PHẢI ĐẮC CỬ CƠ !

"Thượng đế phải đắc cử cơ !"
Đó là lời trách vọng từ nhân gian.
Trời xanh nghe vậy xốn xang,
Truyền cho ông Táo xuống trần xét xem.
Phi trường hạ cánh đã đêm,
Táo quân bị đám người chen té nhào,
Ngỡ ngàng, ngồi dậy hỏi mau,
"Những trang thanh tú vì sao vội vàng ?"
Một hành khách cất vọng than,
"Họ đem quà quý đón dâng một người
Được bầu chủ tịch, tới nơi,
Lấy lòng chủ tớ cho đời lên hương."
Táo quân thẳng bước qua đường,
Đến quầy vé, mua một trương tốc hành,
Người bán vé nói thật nhanh,
"Giờ bầu chủ tịch hội đoàn đang căng,
Taxi không chở khách hàng,
Xin ông vui đón xe đường mà đi."
Táo quân buồn, thở cái khì,
Lên xe buýt đi về khu Đền Vàng.
Đến nơi, cảnh sát hai hàng,
Súng gươm, giáo mác hiên ngang ngẩng đầu,
Táo quân hỏi: "cớ vì sao,
Không cho bá tánh bước vào Đền cơ ?"
"Tổng thống viếng đã đến giờ,
Phòng canh cẩn mật để chờ ngài thăm.
Chúng tôi bảo vệ nghiêm trang,
An toàn tánh mạng cho hàng bề trên."
Táo quân bảo, "chín giờ đêm,
Nếu ông không tới, ai thèm vào thăm.
Mười giờ, Thượng đế phải nằm,
Vào giấc ngủ, dưỡng tấm thân ngọc ngà !"
Cảnh sát bảo, "chớ lo xa,
Tổng thống chưa tới trời đà ngủ đâu,
Ngài xin trời giáng phúc mầu,
Trị vì thiên hạ ngỏ hầu trọn nên."
Táo quân bực tức kêu rên:
"Trời ơi, có thấu ngôi Đền, chao ôi !"
Nói xong, vụt biến về trời,
Bẩm tâu Thượng đế nguồn khơi dưới trần,
Thưa ngài, con xét kỷ càng,
Những người dưới thế thở than đúng mà.
Thượng đế phải đắc cử cơ !
Bằng không cõi thế xem lờ trời xanh !

 

SEN VÀ BÙN

Có loài hoa mọc dưới đầm,
Nhụy vàng, cánh trắng hương trầm tỏa bay.
Đó là sen chốn sìn lầy,
Gần bùn mà chẳng hôi lây mùi bùn.
Sen bùn hai thứ ở chung,
Bùn: nhơ bẩn; sen: ngát hương đất trời.
Bùn không sen, bùn tanh hôi,
Sen không bùn, sen khó ngời danh thơm.
Bùn cam thân phận kém hơn,
Dưỡng nuôi sen lớn cho tròn nụ hoa,
Không lời than trách, kêu ca,
Cho sen thơm ngát gần xa hưởng nhờ.
Sen kia được tiếng thơm tho,
Là nhờ bùn bẩn chăm lo vun bồi,
Hương sen chẳng ngại bùn hôi,
Cám ơn bùn đã cho đời lên hương !
Buồn thay, cái cảnh đoạn trường:
Sen mời thưởng thức, bùn không ai gần.
Phận ai nấy giữ đã đành,
Hoa sen nên được trọn phần tòa sen,
Bùn kia mãi cảnh ố hoen,
Người chê, kẻ trách, đuốt đen một màu.
Tuy hai thể chất khác nhau,
Sen bùn chung sống cùng ao, khác mùi.
Sen bùn kết hợp tuyệt vời,
Lầy đời hết bẩn, sìn đời ngát hương.
Sen bùn mà biết hỗ tương,
Công danh sẽ trọn, tình thương sẽ tròn.
Trăm năm trong cõi bụi hồng,
Nên danh bao nỗi vấn vương cuộc đời,
Người công, kẻ sức . . . khôn nguôi,
Âm thầm, lặng lẽ chăm nuôi ai người,
Cho nên thân phận rạng ngời,
Công thành thân thoái đơn côi một mình.
Thế nên, sống kiếp nhân sinh,
Mang ân nhớ trả cho tình người tươi.

 

TRĂNG VÀ SAO

Chị Hằng đương tuổi mười lăm,
Mởn mơ, tròn trịa, sáng ngần khắp nơi.
Chị liền rão bước dạo chơi,
Thấy chùm sao nhỏ chiếu soi góc trời.
Chị liền cất tiếng dạy đời:
"Ta đây một cõi, rạng ngời dương gian !
Ta đây sáng tỏ ai bằng ?
Ôi, chùm sao nhỏ, khi gần khi xa,
Bóng đêm mờ tỏ bao là ?
Trên đời sáng nhất, riêng ta một vùng !"
Chùm sao nghe, dạ bâng khuâng,
Từ xa vọng gọi chị hằng thân thương:
"Chị hơn là chuyện bình thường,
Có gì đắc chí mà dương cao đầu !
Đương rằm, dáng chị tỏ làu,
Ba mươi, bóng chị một màu tối đen.
Chúng tôi vẫn một lòng bền,
Muôn ngàn lấp lánh dưới nền trời xa,
Trời cao đất rộng bao la,
Sao không có, đâu cũng là bóng đêm !"
Chị hằng bày tỏ nỗi niềm,
"Ba mươi, ta vẫn sáng hơn bọn mầy !"
Chùm sao nhỏ nhẹ tỏ bày:
"Sáng đêm là chị, sáng ngày thái dương.
Thái dương soi tỏ mười phương,
Vậy mà đâu có ngông cuồng ta đây.
Trong khi chị sáng đêm nay,
Dáng chị thay đổi khi đầy khi vơi.
Hơn tụi nầy đáng gì cười !
So thái dương, chị một mười mà thôi.
Cho hay, lớn nhỏ . . . chuyện đời,
Đều do đối đãi với người với ta,
So lớn hơn: chẳng bao là,
So nhỏ hơn: tưởng bao la dặm ngàn.
Tính từ hơn kém . . . hai đàng,
Phân chia bỉ thử, ngã nhân cuộc đời.
Chia ranh giới chị và tôi,
Gây nên bao cảnh ngậm ngùi đau thương."
Chị hằng nghe, bổng vấn vương,
Học đường lễ độ, bỏ phường tự cao.

 

HOÀNG OANH TRONG LỒNG

Ông tỷ phú, thật giàu sang,
Nuôi chim bằng chiếc lồng vàng, đẹp xinh.
Hàng ngày ông lặng ngắm nhìn,
Lấy làm đắc chí như mình thương chim.
Ông nào biết được nỗi niềm,
Chim lồng cá chậu: xà lim, ngục tù.
Chim kêu đau xót xuân thu,
Buồn cho đôi mắt như mù bấy lâu,
Không trời xanh, cảnh vật màu,
Không cây, không cỏ, không sao, trăng, trời . . .
Chiếc lồng vàng, ánh sáng ngời,
Có gì giá trị cho đời chim xanh,
Phải bay, nhảy, hót trên cành,
Mà nay sống cảnh trông canh đêm ngày !
Nỗi niềm khổ có ai hay,
Chỉ loài chim mới tỏ bày đặng nhau.
Chú chim quý bổng ngục đầu,
Kêu la văng vẳng như chầu đợi ai,
Mở lồng thả khỏi tù đày,
Rong chơi rừng núi thẳng dài đôi chân.
Lòng đau chạnh nỗi bâng khuâng,
Mong ngày được cảnh dặm đàng lượn quanh.
Thà làm chim sẻ trên cành,
Còn hơn sống kiếp hoàng oanh trong lồng.
Trăm năm trong cõi bụi hồng,
Tự do là sống thong dong cõi đời.

 

MUỐI ĐƯỜNG

Muối đường, đôi bạn chân tình,
Chỉ vì danh lợi, tranh giành với nhau.
Muối luôn lên tiếng càu nhàu:
"Thiếu tôi, hương vị khác nào nước thôi,
Thịt ươn, cá rữa, tanh hôi,
Tôi mà có mặt mặn mòi dễ ăn !"
Đường nghe muối nói nhăn răng,
"Thiếu đường, muối chẳng sánh bằng ai đâu !"
Chú đường đắc chí gật đầu,
"Nhờ tôi, đời có biết bao ngọt bùi,
Khi yến tiệc, lúc chung vui,
Thanh lương mỹ vị có tôi nhún vào . . ."
Muối chê, "đường quá tự cao,
Đường nhiều ngọt quá, miệng nào ăn ngon."
Muối đường tranh dở, tranh khôn,
Nước liền lên tiếng ôn tồn dạy khuyên:
"Cái gì nhiều quá: khó nên,
Cái gì vừa phải mới bền, mới xong.
Mặn không, thiếu ngọt khó dùng,
Ngọt không, thiếu mặn chẳng chung ngọt bùi.
Muối đường vừa phải, ngon ơi,
Một còn, một mất, vị mùi hết ngon.
Trăm năm nước chảy đá mòn,
Phải vừa: giá trị; tương dung: sống đời."

-oOo-

 


Cập nhật: 27-4-2000

Trở về thư mục "Thơ và Nhạc Phật giáo"

Đầu trang