- Những cánh hoa trí tuệ:
tư tưởng tháng 5-2002
1
Có hai loại hội chúng,
này các Tỳ-kheo. Thế nào là hai? Hội chúng bất hoà và hội chúng hoà hợp.
Và này các Tỳ-kheo, thế nào là hội chúng bất hoà? Ở đây, này các Tỳ-kheo,
tại hội chúng nào, các Tỳ-kheo sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh,
đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi, này các Tỳ-kheo, đây gọi là
hội chúng bất hoà.
Và này các Tỳ-kheo, thế
nào là hội chúng hoà hợp? Ở đây, này các Tỳ-kheo, tại hội chúng nào,
các Tỳ-kheo hoà hợp, hoà kính, không có đấu tranh, hoà hợp như sữa với
nước, sống nhìn nhau với cặp mắt từ ái, này các Tỳ-kheo, đây gọi
là hội chúng hoà hợp.
Này các Tỳ-kheo, có hai
hội chúng này. Hội chúng tối thượng giữa hai hội chúng này, này các Tỳ-kheo,
tức là hội chúng hoà hợp.
(Kinh Tăng Chi Bộ I,
trang 134)
Monks, there are these two
companies. What two? The discordant and the harmonious. And what is the harmonious
company?
Herein, monks, in whatsoever
company the monks dwell quarrelsome, wrangling, disputatious, wounding each other with the
weapons of the tongue, - such a company is called “discordant.”
And what, monks, is the
harmonious company?
Herein, monks, in whatsoever
company the monks dwell in harmony, courteous, without quarrels, like milk and water
mixed, looking on each other with the eye of affection, - such a company is called “harmonious.”
(The Book of the Gradual
Sayings I, p. 66)
2
“Này các Tỳ-kheo, các
pháp ác, bất thiện khởi lên có tướng, không phải không có tướng. Do
đoạn tận chính tướng ấy, như vậy các pháp ác, bất thiện ấy, không
có mặt.”
(Kinh Tăng Chi Bộ I,
trang 152)
“Monks, with
characteristics are evil, unprofitable states, not without them. By abandoning just those
characteristics, those evil, unprofitable states exist not.”
(The Book of the Gradual
Sayings I, p. 75)
3
“Này các Tỳ-kheo, có
hai loại kẻ ngu này. Thế nào là hai? Người tưởng là hợp pháp đối với
việc không hợp pháp, và người tưởng là không hợp pháp đối với việc
hợp pháp. Hai người này, này các Tỳ-kheo, là hai kẻ ngu.”
(Kinh Tăng Chi Bộ I,
trang 155)
“Monks, there are these
two fools. What two? He who deems unlawful what is lawful, and the reverse. These two.”
(The Book of the Gradual
Sayings I, p. 76)
4
“Này các Tỳ-kheo, có
hai bậc hiền trí này. Thế nào là hai? Người tưởng là không hợp pháp
đối với việc không hợp pháp, và người tưởng là hợp pháp đối với
việc hợp pháp. Hai người này, này các Tỳ-kheo, là hai bậc hiền trí.”
(Kinh Tăng Chi Bộ I,
trang 156)
“Monks, there are these
two wise ones. What two? He who deems unlawful what is unlawful, and he who deems lawful
what is lawful.”
(The Book of the Gradual
Sayings I, p. 76)
5
“Tôn giả Ànanda bạch
Thế Tôn:
-
“Bạch Thế Tôn, không biết
nữ nhân sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp
và Luật do Như Lai thuyết giảng, có thể chứng được Dự lưu quả, Nhất
lai quả, Bất lai quả hay A-la-hán quả không?”
-
“Này Ànanda, sau khi xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, trong Pháp và Luật do Như Lai
thuyết giảng, nữ nhân có thể chứng được Dự lưu quả, Nhất lai quả,
Bất lai quả hay A-la-hán quả”.”
(Kinh Tăng Chi Bộ III, trang 653)
“Ànanda
spoke thus “Lord, if women go forth from the home to the homeless life into discipline
of Dhamma, declared by the Tathàgata, can they realize the fruit of Stream-winning, of
Once-returning, of Non-returning and of Arahantship?”
The
Buddha answered: “They can, Ànanda, if women go forth from the home to the homeless
life into discipline of Dhamma, declared by the Tathàgata, they can realize the fruit of
Stream-winning, of Once-returning, of Non-returning and of Arahantship”.”
(The Book of the Gradual Sayings IV, p. 183)
6
“Khéo
làm các công việc,
Thâu
nhiếp người phục vụ,
Sở
hành vừa ý chồng,
Gìn
giữ của cất chứa,
Đầy
đủ tín và giới,
Bố
thí, không xan tham,
Rửa
sạch đường thượng đạo,
Đến
đời sau an lành.
Như
vậy là tám pháp,
Nữ
nhân có đầy đủ,
Được
gọi bậc có giới,
Trú
pháp, nói chân thật.
Đủ
mười sáu hành tướng,
Thành
tựu tám chi phần,
Nữ
cư sĩ như vậy,
Với
giới hạnh đầy đủ,
Sanh
làm vị Thiên nữ,
Với
chân thật khả ái.”
(Kinh Tăng Chi Bộ III, trang 648)
“Deft,
capable, she manages amid
His
folk at work, minding her husband’s wealth,
Sweet
in her ways; and she is virtuous,
Believing,
kind and bountiful; she clears
The
onward Way to faring will hereafter.
They
say a woman who is so endowed,
With
these eight states, is virtuous indeed
And
truthful, just. And where these eight unite,
Blessed
sixteenfold, that virtuous devotee
Is
born again where lovely devas dwell.”
(The Book of the Gradual Sayings IV, p. 180)
7
“Hãy
thường yêu thương chồng,
Luôn
nỗ lực, cố gắng,
Người
đem lại lạc thú,
Chớ
khinh thường người chồng,
Chớ
làm chồng không vui,
Chớ
làm chồng tức tối,
Với
những người ganh tị.
Chồng
cung kính những ai,
Hãy
đảnh lễ tất cả,
Vì
nàng người có trí.
Hoạt
động thật nhanh nhẹn,
Giữa
các người làm việc,
Xử
sự thật khả ái,
Biết
giữ tài sản chồng.
Người
vợ xử như vậy,
Làm
thoả mãn ước vọng,
Ưa
thích của người chồng,
Sẽ
được sanh tại chỗ,
Các
chư Thiên khả ái.”
(Kinh Tăng Chi Bộ III, trang 643)
“Active,
alert to cherish him always,
Not
to that man who brings her every joy,
She
offers slight, nor will a good wife move
To
wrath her husband by some spiteful word;
And
she reveres all whom her lord doth honour,
For
she is wise. Deft, nimble, up betimes,
She
minds his wealth amid his folk at work
And
sweetly orders all. A wife like this,
Who
with her husband’s wish and will complies,
Is
born again where lovely devas dwell.”
(The Book of the Gradual Sayings IV, p. 178)
8
“Trong
sạch và thù diệu,
Đúng
thời và thích ứng,
Đồ
uống và đồ ăn,
Luôn
luôn làm bố thí,
Trong
các ruộng tốt lành,
Sống
theo đời Phạm hạnh.
Không
có gì hối tiếc,
Bố
thí nhiều tài vật.
Những
bố thí như vậy,
Với
tâm tín, giải thoát.
Được
bậc Trí tán thán,
Bậc
Trí thí như vậy,
Với
tâm tín, giải thoát.
Không
hại, tâm an lạc,
Bậc
Trí sanh ở đời.”
(Kinh Tăng Chi Bộ III, trang 618)
“Clean,
choice and timely, proper drink and food
He
gives in charity repeatedly
To
them that live the life – fair field of merit –
Nor
feels remorse at lavishing his gifts
Of
things material. Gifts given thus
The
seers extol. And sacrificing thus –
Wise
man, believer, with his heart set free –
I’
the calm and happy world that sage is born.”
(The Book of the Gradual Sayings IV, p. 166)
9
“Tín,
tàm và thiện chí,
Những
pháp thiện sĩ cầu,
Đường
này gọi Thiện đạo,
Đường
này đi Thiên giới.”
(Kinh Tăng Chi Bộ III, trang 607 - 608)
“Faith,
modesty and faultless giving –
These
are the things wise men pursue.
This
is the way divine, they say,
The
high way to the deva-world.”
(The Book of the Gradual Sayings IV, p. 161)
10
“Với
ai không run sợ,
Đến
hội chúng bạo ngôn,
Không
quên lời đã học,
Không
che giấu giáo pháp,
Không
nói lời nghi hoặc,
Được
hỏi không phẫn nộ.
Vị
Tỳ-kheo như vậy,
Xứng
đáng đi sứ giả.”
(Kinh Tăng Chi Bộ III, trang 555)
“Who,
to some high assembled council come,
Wavers
not, nor in discourse fails, nor hides
The
Master’s word, nor speaks in doubtfulness,
Whoso
by question ne’er is moved to wrath –
Worthy
to go with message is that monk.”
(The Book of the Gradual Sayings IV, p. 135)
11
“Không
tụng làm nhớp kinh,
Không
dậy làm nhớp nhà,
Biếng
nhác nhớp dung sắc,
Phóng
dật nhớp phòng hộ,
Ác
hạnh nhớp mỹ nhân,
Xan
tham nhớp bố thí,
Các
pháp ác làm nhớp,
Đời
này và đời sau,
Nhưng
có loại cấu uế,
Hơn
tất cả cấu uế,
Đây
chính là vô minh,
Là
cấu uế lớn nhất.”
(Kinh Tăng Chi Bộ III, trang 553)
“In
non-repeating lies the mantra’s stain:
Not
rising, that of homes; and sluggishness
Is
beauty’ stain; a guard’s is carelessness;
Misconduct
is a woman’s stain; in gifts
The
stain is stint. In sooth, all sins are stains
Hereafter
and on earth. But greater stain
Than
these is ignorance, the greatest stain.”
(The Book of the Gradual Sayings IV, p. 134)
12
“Lợi
dưỡng, không lợi dưỡng,
Danh
vọng, không danh vọng,
Chỉ
trích và tán thán,
An
lạc và đau khổ,
Những
pháp này vô thường,
Không
thường hằng, biến diệt,
Biết
chúng, giữ chánh niệm,
Bậc
trí quán biến diệt.
Pháp
khả ái, không động,
Không
khả ái, không sân,
Các
pháp thuận hay nghịch
Được
tiêu tan không còn.
Sau
khi biết con đường,
Không
trần cấu, không sầu,
Chơn
chánh biết sanh hữu,
Đi
đến bờ bên kia.”
(Kinh Tăng Chi Bộ III, trang 497)
“Gain,
loss, obscurity and fame,
And
censure, praise, contentment, pain –
These
are man’s states – impermanent,
Of
time and subject unto change.
And
recognizing these the sage,
Alert,
discerns these things of change;
Pair
things his mind ne’er agitate,
Nor
foul his spirit vex. Gone are
Compliance
and hostility,
Gone
up in smoke and are no more.
The
goal he knows. In measure full
He
knows the stainless, griefless state.
Beyond
becoming hath he gone.”
(The Book of the Gradual Sayings IV, p. 108)
13
“Ví
như, này các Tỳ-kheo, có tám, mười hay mười hai trứng gà mái. Các trứng
ấy được con gà mái ấp một cách đúng đắn, ấp nóng một cách đúng
đắn, ấp dưỡng một cách đúng đắn. Dầu cho con gà mái ấy không khởi
lên ước muốn: “Mong rằng các con gà của ta, với chân, móng và đỉnh
đầu, hay với miệng và mỏ, sau khi làm bể vỏ trứng, được sanh ra một
cách an toàn!”; tuy vậy các con gà con ấy có thể với chân, móng và đỉnh
đầu, hay với miệng và mỏ, sau khi làm bể vỏ trứng, được sanh ra một
cách an toàn.
Vì
cớ sao? Vì rằng, này các Tỳ-kheo, tám, mười hay mười hai trứng gà được
con gà mái ấy ấp nằm một cách đúng đắn, ấp nóng một cách đúng đắn,
ấp dưỡng một cách đúng đắn.
Cũng
vậy, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo sống chú tâm tu tập, dầu cho vị ấy
không khởi lên ước muốn: “Mong rằng tâm ta được giải thoát khỏi
các lậu hoặc, không có chấp thủ!”; tuy vậy, tâm vị ấy vẫn được
giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.
Vì
cớ sao? Phải nói rằng, vì vị ấy có tu tập. Tu tập cái gì? Có tu tập
Bốn niệm xứ, có tu tập Bốn chánh cần, có tu tập Bốn như ý túc, có
tu tập Năm căn, có tu tập Năm lực, có tu tập Bảy giác chi, có tu tập
Thánh đạo tám ngành.”
(Kinh Tăng Chi Bộ III, trang 456 – 7)
“Monks,
it is just as if eight or ten or a dozen hen’s eggs were fully sat upon, fully warmed
and fully made to become; although any such wish might not come to that hen: “Oh that my
chicks might break the egg-shells with the spiked claws of their feet or with their beaks
and bills, and hatch out safely!” – yet it is not possible for those chicks to break
the shells with their claws and beaks and to hatch out safely. And why? Because the eggs
were fully sat on, fully warmed, fully made to become.
In
just the same way, monks, although a monk might not express such a wish: “Oh that my
heart might be freed of the cankers and be without attachment!” – yet his heart is
freed form the cankers and attachment. And why? Let it be said: “It is due to
making-become.” Making what become? The four arisings of mindfulness, the four right
efforts, the four bases of psychic power, the five controlling faculties, the five powers,
the seven parts in awakening and the eightfold Aryan Way.”
(The Book of the Gradual Sayings IV, p. 83)
14
“Ví
như, này các Tỳ-kheo, một người thợ nề hay đệ tử của người thợ nề,
khi nhìn vào cán búa, tháy dấu các ngón tay và dấu ngón tay cái. Người
ấy không có thể biết được như sau: “Hôm nay từng ấy cán búa của ta
bị hao mòn, hôm qua từng ấy, các ngày khác từng ấy”. Nhưng người ấy
biết được cán búa bị hao mòn trên sự hao mòn của cán búa.
Cũng
vậy, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo chú tâm trong sự tu tập không có biết như
sau: “Hôm nay từng ấy lậu hoặc của ta được đoạn tận, hôm qua từng
ấy, các ngày khác từng ấy.” Nhưng vị ấy biết được các lậu hoặc
được đoạn tận trên sự đoạn tận các lậu hoặc.”
(Kinh Tăng Chi Bộ III, trang 457)
“Monks,
just as a carpenter or a carpenter’s apprentice, inspecting the handle of his adze, sees
thereon the marks of his fingers and thumb, nor knows how much of the adze-handle was worn
away that day, nor the previous day, nor at any time, yet knows just when the wearing away; even so, monks, a monk
intent upon making-become knows not to what extent the cankers were worn away that day,
nor the previous, nor at any time yet knows just when the wearing away has reached the end
of wearing away.”
(The Book of the Gradual Sayings IV, pp. 83 - 4)
15
“Ví
như, này các Tỳ-kheo, một chiếc thuyền đi biển, có đầy đủ cột buồm
và dây buồm bị mắc cạn sáu tháng do thiếu nước trong mùa đông, các cột
buồm và dây buồm bị gió và mặt trời làm hư hỏng. Rồi bị nước mưa
đổ xuống trong mùa mưa, chúng bị hư dần và mục nát một cách dễ
dàng.
Cũng
vậy, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo sống chú tâm trong sự tu tập, các kiết sử
rất dễ bị yếu dần và mục nát.”
(Kinh Tăng Chi Bộ III, trang 457 - 8)
“Monks,
just as in an ocean-going ship, rigged with mast and stays, after it has sailed the seas
for six months and is beached on the shore for the winter, the stays, affected by wind and
heat, rained upon in the rainy season, easily weaken and rot away; even so, monks, in a
monk, abiding intent upon making become, the fetters easily weaken and rot away.”
(The Book of the Gradual Sayings IV, p. 84)
http://www.buddhismtoday.com/viet/trich/5-2002.htm