“Các pháp
là vô thường. Cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì
vô ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là: “Cái này không
phải là tôi, cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tự
ngã của tôi.”
(Kinh Tương Ưng IV, trang 12)
“Objects are impermanent. What is
impermanent, that is ill. What is ill, that is void of the self. What is void of the self,
that is not mine: I am not it; it is not myself. That is how it is to be regarded with
perfect insight of what it really is.”
(The Book
of the Kindred Sayings IV, p. 2)
2
“Các pháp là khổ. Cái gì khổ
là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ
là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này
không phải là tự ngã của tôi.”
(Kinh Tương
Ưng IV, trang 13)
“Objects are ill. What is ill, that is
void of the self. What is void of the self, that is not mine: I am not it; it is not
myself. That is how it is to be regarded with perfect insight of what it really is.”
(The Book
of the Kindred Sayings IV, p. 3)
3
“Các pháp là vô ngã. Cái gì vô
ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là: “Cái này không phải
của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của
tôi.”
(Kinh Tương Ưng IV, trang 14)
“Objects are void of the self. What is
void of the self, that is not mine: I am not it; it is not myself. That is how it is to be
regarded with perfect insight of what it really is.”
(The Book
of the Kindred Sayings IV, p. 3)
4
“Ta không
thấy một pháp nào khác, này các Tỳ-kheo, lại khó sử dụng, này các Tỳ-kheo,
như tâm không tu tập. Tâm không tu tập, này các Tỳ-kheo, khó sử dụng.”
(Kinh Tăng
Chi Bộ I, trang 15)
“Monk, I know not of any other single
thing so intractable as the uncultivated mind, the uncultivated mind is indeed a thing
intractable.”
(The Book
of the Gradual Sayings I, p. 4)
5
“Ta không
thấy một pháp nào khác, này các Tỳ-kheo, lại dễ sử dụng, này các Tỳ-kheo,
như tâm có tu tập. Tâm có tu tập, này các Tỳ-kheo, dễ sử dụng.”
(Kinh Tăng
Chi Bộ I, trang 15)
“Monks, I know not of any other single
thing so tractable as the cultivated mind. The cultivated mind is indeed a tractable
thing.”
(The Book
of the Gradual Sayings I, p. 4)
6
“Này gia chủ tử, quen thói lười
biếng có sáu nguy hiểm: “Quá lạnh”, không làm việc; “quá nóng”,
không làm việc; “quá trễ”, không làm việc; “quá sớm”, không làm việc;
“tôi quá đói”, không làm việc; “tôi quá no”, không làm việc. Trong
khi những công việc phải làm lại không làm. Tài sản chưa có không xây dựng
lên, tài sản có rồi bị tiêu thất. Này gia chủ tử, quen thói lười biếng
có sáu nguy hiểm như vậy.”
(Kinh Trường
Bộ II, trang 534)
“Six, young householder, are the perils
of the habit of idleness: he says, it is too cold, and does no work. He says, it is too
hot, and does no work; he says, it is too early … too late, and does no work. He says, I
am too hungry and does no work … too full, and does no work. And while all that he
should do remains undone, new wealth he does not get, and such wealth as he dwindles away.”
(Dialogues
of the Buddha III, p. 176)
7
“Này gia chủ tử, có bốn trường
hợp người vật gì cũng lấy phải được xem không phải là bạn, dầu tự
cho là bạn: Người vật gì cũng lấy, cho ít xin nhiều, vì sợ mà làm,
làm vì mưu lợi cho mình.
(Kinh Trường
Bộ II, trang 537)
“Of these the first is on four grounds
to be reclined as a foe in the likeness of a friend: he is rapacious; he gives little and
asks much he foes his duty out of fear; he pursues his own interests.”
(Dialogues
of the Buddha III, p. 177)
8
“Ví như,
này các Tỳ-kheo, sợi râu của lúa mì, hay sợi râu của lúa mạch đặt
sai hướng, khi bị tay hay chân đè vào, có thể đâm thủng tay hay chân, hay
có thể làm đổ máu; sự tình này không xảy ra. Vì cớ sao? Này các Tỳ-kheo,
vì sợi râu bị đặt sai hướng. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, vị Tỳ-kheo
với tâm bị đặt sai hướng, có thể đâm thủng vô minh, làm minh sanh khởi,
có thể chứng đạt Niết-bàn; sự tình này không xảy ra. Vì cớ sao? Này
các Tỳ-kheo, vì tâm bị đặt sai hướng.”
(Kinh
Tăng Chi Bộ I, trang 21)
“Suppose,
monks, the spike of bearded wheat or bearded barley be ill directed. When pressed by hand
or foot it cannot possibly pierce hand or foot or draw blood. Why not? Because the spike
is ill directed. Just so, monks, it cannot be that a monk of ill directed mind will pierce
ignorance, draw knowledge, realize Nibbàna. Why not? Because his mind is ill directed.”
(The Book
of the Gradual Sayings I, p. 5)
9
“Này các
Tỳ-kheo, ví như sợi râu của lúa mì, hay sợi râu của lúa mạch được
đặt đúng hướng khi bị tay hay chân đè vào, có thể đâm thủng tay hay
chân, hay có thể làm cho đổ máu; sự tình này có thể xảy ra. Vì cớ
sao? Này các Tỳ-kheo, vì sợi râu được đặt đúng hướng. Cũng vậy, này
các Tỳ-kheo, vị Tỳ-kheo với tâm được đặt đúng hướng, có thể đâm
thủng vô minh, làm minh sanh khởi, có thể chứng đạt Niết-bàn; sự tình
này có xảy ra. Vì cớ sao? Này các Tỳ-kheo, vì tâm được đặt đúng hướng.”
(Kinh
Tăng Chi Bộ I, trang 21)
“But suppose, monks, the spike of
bearded wheat or bearded barley is well directed. When pressed by hand or foot it is
certain that it will pierce hand or foot and draw blood. Why so? Because, monks, the spike
is well directed. Just so, monks, it is certain that the monk with a mind that is well
directed will pierce ignorance, draw knowledge, realize Nibbàna. Why so? Because, monks,
his mind is well directed.”
(The Book
of the Gradual Sayings I, p. 6)
10
“Hai pháp
này, này các Tỳ-kheo, đưa đến sự hỗn loạn (mê mờ) và biến mất của
diệu pháp . Thế nào là hai? Văn cú bị đảo ngược, và ý nghĩa bị hiểu
lầm. Nếu văn cú bị đảo ngược thời ý nghĩa bị hiểu lầm. Những pháp
này, này các Tỳ-kheo, là hai pháp đưa đến hỗn loạn và biến mất của
diệu pháp.”
(Kinh Tăng
Chi Bộ I, trang 113)
“Monks, these two things conduce to the
confusion and disappearance of true Dhamma. What two? The wrong expression of the letter
(of the text) and wrong interpretation of the meaning of it. For if the letter be wrongly
expressed, the interpretation of the meaning is also wrong. These two things conduce to
the confusion and disappearance of the Dhamma.”
(The Book
of the Gradual Sayings I, p. 53)
11
“Hai pháp
này, này các Tỳ-kheo, đưa đến an trú, không biến loạn, không biến mất
của diệu pháp. Thế nào là hai? Văn cú phối trí chơn chánh và ý nghĩa
được hiểu chơn chánh. Nếu văn cú được phối trí chơn chánh, thời ý
nghĩa được hiểu chơn chánh. Những pháp này, này các Tỳ-kheo, là hai
pháp đưa đến an trú, không hỗn loạn, không biến mất của diệu pháp.”
(Kinh Tăng
Chi Bộ I, trang 113)
“Monks, these two things conduce to the
establishment, the non-confusion, to the non-disappearance of true Dhamma. What two? The
right expression of the letter and right interpretation of the meaning. For if the letter
be rightly expressed, the interpretation of the meaning is also right. These two things
conduce to the establishment, the non-confusion, to the non-disappearance of true Dhamma.”
(The Book
of the Gradual Sayings I, p. 53)
12
“Này các
Tỳ-kheo, có hai loại người ngu này. Thế nào là hai? Người có phạm tội
nhưng không thấy có phạm tội, và người không chấp nhận người khác như
pháp phát lộ tội của mình. Này các Tỳ-kheo, có hai loại người ngu này.”
(Kinh Tăng
Chi Bộ I, trang 114)
“Monks, there are these two fools. What
two? He who sees not his fault as such, and he who does not pardon as he should the fault
confessed by another. These are the two fools.”
(The Book
of the Gradual Sayings I, p. 54)
13
“Này các
Tỳ-kheo, có hai loại người có trí. Thế nào là hai? Người có phạm tội
là thấy có phạm tội và người chấp nhận người khác như pháp phát lộ
tội của mình. Này các Tỳ-kheo, có hai loại người có trí này.”
(Kinh Tăng
Chi Bộ I, trang 114)
“Monks, there are these two wise ones.
What two? He who sees his own fault as such, and he who pardons as he should the fault
confessed by another. There are the two wise ones.”
(The Book
of the Gradual Sayings I, p. 54)
14
“Những Tỳ-kheo
nào, này các Tỳ-kheo, chận đứng cả văn và nghĩa, bằng cách nắm giữ
sai lạc các kinh điển và những văn tự thích ứng, thì những Tỳ-kheo ấy,
này các Tỳ-kheo, chịu trách nhiệm về bất hạnh cho đa số, không an lạc
cho đa số, không lợi ích cho đa số, bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và
loài người. Ngoài ra, các Tỳ-kheo ấy, này các Tỳ-kheo, chất chứa nhiều
vô phước và làm cho diệu pháp biến mất.”
(Kinh Tăng
Chi Bộ I, trang 132)
“Those monks who bar out both the letter
and the spirit, by taking the discourses wrongly and interpreting according to the letter,
such are responsible for the loss of many folk, for the discomfort of many folk, for the
loss, discomfort and sorrow of devas and mankind. Moreover such monks beget demerit and
cause the disappearance of this true Dhamma.”
(The Book
of the Gradual Sayings I, p. 65)
15
“Những Tỳ-kheo
nào, này các Tỳ-kheo, tuỳ thuận cả văn và nghĩa, bằng cách giữ đúng
đắn các kinh điển và những văn tự thích ứng, thì những Tỳ-kheo ấy,
này các Tỳ-kheo, chịu trách nhiệm về hạnh phúc cho đa số, an lạc cho
đa số, lợi ích cho đa số, hạnh phúc và an lạc cho chư Thiên và loài người.
Ngoài ra, các Tỳ-kheo ấy, này các Tỳ-kheo, chất chứa nhiều phước đức,
và làm cho diệu pháp an trú.”
(Kinh Tăng
Chi Bộ I, trang 132)
“But those monks who, by taking the
discourses rightly and interpreting according to the letter, conform to both letter and
spirit, such are responsible for the profit, for the welfare of many folk, for the profit,
the welfare, the happiness of devas and mankind. Moreover such monks beget merit and
establish this true Dhamma.”
(The Book
of the Gradual Sayings I, p. 65)