Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Những cánh hoa trí tuệ: Tư tưởng tháng 7-2001
Tịnh Tuệ sưu tầm

1

Ví như, này các Tỷ-kheo, một cây gậy được quăng lên hư không, khi thì rơi xuống đầu gốc, khi thì rơi xuống chặng giữa, khi thì rơi xuống đầu ngọn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, các chúng sanh bị vô minh che lấp, bị khát ái trói buộc, dong ruỗi, luân chuyển, khi thì đi từ thế gới này đến thế giới kia, khi thí đi từ thế giới kia đến thế giới này. Vì sao? Vì rằng không thấy bốn Thánh đế. (Tương Ưng Bộ Kinh V, trang 638-639).

Monks, just as a stick, when thrown up into the air, falls, now on its butt, now on its middle, now on its tip, even so beings, hindered by ignorance, fettered by craving, run on, wander on, pass on from this world to the next and thence come back again to this world. What is the cause of it? Through the fact of not seeing four Ariyan truths. (Samyutta-Nikaya V, p. 440; The Book of the Kindred Sayings V, p. 371f).

 

2

Vô thỉ, này các tỷ-kheo, là sự luân chuyển, khởi điểm không thể nêu nõ, đối với (những đau khổ) do bị thương đâm, do bị kiếm chém, do bị búa chặt. Dầu vậy đi chăng nữa, này các Tỷ-kheo, Ta cũng không tuyên bố rằng nhờ khổ và ưu mà bốn Thánh đế được chứng ngộ. Nhưng này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng nhờ lạc và hỷ mà bốn Thánh đế được chứng ngộ. (Tương Ưng Bộ Kinh V, trang 641).

Incalculable is th ebeginning of this faring on. The earliest point is not revealed (of the pain) of blows from spears, swords and axes. Even if this were to befall one, monks, I would not deen the full comprehension of four Ariyan truths to be won with sorrow and woe, but with joy and gladness. (Samyutta-Nikaya V, p. 441; The Book of the Kindred Sayings V, p. 372f).

 

3

Ta tuyên bố rằng còn mau hơn, này các Tỷ-kheo, là con rùa mù ấy, sau mỗi trăm năm nổi lên một lần, có thể chui cổ vào khúc gỗ có một lỗ hổng ấy; còn hơn kẻ ngu, khi một lần đã rơi vào đọa xứ để được làm người trở lại. Vì sao? Vì rằng ở đấy không có pháp hành, chánh hành, thiện nghiệp, phước nghiệp. Ở đấy, này các Tỷ-kheo, chỉ có ăn thịt lẫn nhau, và chỉ có người yếu bị ăn thịt. Vì sao? Vì không thấy được bốn Thánh đế. (Tương Ưng Bộ Kinh V, trang 660).

Well, monks, sooner I declare would that blind turtle push his neck through that yoke with one hole, popping up to the surface once in a hundred years, than would a fool who has gone to the Downfall become a man again. What is the reason for that? Because here prevails no pracice of the holy life, no righteous living, no doing of good deeds, no working of merit, but just cannibalism and preying on weaker creatures. Why so? It is through not seeing the four Ariyan truths. (Samyutta-Nikaya V, p. 456; The Book of the Kindred Sayings V, p. 383).

 

4

Này các Tỷ-kheo, dầu ác Như Lai có xuất hiện hay các Như Lai không xuất hiện, vẫn được an trú là pháp trú tánh của giới ấy, là pháp guyết định tánh, tức là: "Tất cả các hành là vô thường". Vấn đề này, Như Lai chánh giác tri, chánh giác ngộ. Sau khi chánh giác tri, chánh giác ngộ, Như Lai tuyên bố, thuyết giảng, tuyên thuyết, xác nhận, khai thị, phân biệt, hiển thị: "Tất cả các hành là vô thường". (Tăng Chi Bộ Kinh I, trang 523).

Monks, whether there be an appearance of non-appearance of a Tathagata, this causal law of nature, this orderly fixing of things prevails, namely, All phenomena are impermanent. About this a Tathagata is fully enlightened, he fully understands it. So enlightened and understanding he declares, teaches and makes it plain. He shows it forth, he opens it up, explains and makes it clear: this fact that all phenomena are impermanent. (Anguttara Nikaya I, 285; The Book of the Gradual Sayings I, p. 264).

 

5

Này các Tỷ-kheo, dầu ác Như Lai có xuất hiện hay các Như Lai không xuất hiện, vẫn được an trú là pháp trú tánh của giới ấy, là pháp guyết định tánh, tức là: "Tất cả các hành là khổ". Vấn đề này, Như Lai chánh giác tri, chánh giác ngộ. Sau khi chánh giác tri, chánh giác ngộ, Như Lai tuyên bố, thuyết giảng, tuyên thuyết, xác nhận, khai thị, phân biệt, hiển thị: "Tất cả các hành là khổ". (Tăng Chi Bộ Kinh I, trang 523).

Monks, whether there be an appearance of non-appearance of a Tathagata, this causal law of nature, this orderly fixing of things prevails, namely, All phenomena are misery. About this a Tathagata is fully enlightened, he fully understands it. So enlightened and understanding he declares, teaches and makes it plain. He shows it forth, he opens it up, explains and makes it clear: this fact that all phenomena are misery. (Anguttara Nikaya I, 285; The Book of the Gradual Sayings I, p. 265).

 

6

Này các Tỷ-kheo, dầu ác Như Lai có xuất hiện hay các Như Lai không xuất hiện, vẫn được an trú là pháp trú tánh của giới ấy, là pháp guyết định tánh, tức là: "Tất cả các hành là vô ngã". Vấn đề này, Như Lai chánh giác tri, chánh giác ngộ. Sau khi chánh giác tri, chánh giác ngộ, Như Lai tuyên bố, thuyết giảng, tuyên thuyết, xác nhận, khai thị, phân biệt, hiển thị: "Tất cả các hành là vô ngã". (Tăng Chi Bộ Kinh I, trang 523).

Monks, whether there be an appearance of non-appearance of a Tathagata, this causal law of nature, this orderly fixing of things prevails, namely, All phenomena are not the self. About this a Tathagata is fully enlightened, he fully understands it. So enlightened and understanding he declares, teaches and makes it plain. He shows it forth, he opens it up, explains and makes it clear: this fact that all phenomena are not the self. (Anguttara Nikaya I, 285; The Book of the Gradual Sayings I, p. 265).

 

7

Ai thấy được lý duyên khởi, người ấy thấy được pháp: ai thấy được pháp, người ấy thấy được lý duyên khởi. (Trung Bộ Kinh I, 422).

Whoever sees conditioned genesis (Paticcasamuppada) sees dhamma, whoever sees dhamma sees conditioned genesis. (Majjhima Nikaya I, p. 191; The Collection of the Middle Length Sayings I, 237).

 

8

Ai thấy Pháp, người ấy thấy Ta. Ai thấy Ta, người ấy thấy Pháp. (Tương Ưng Bộ Kinh III, 219).

Seeing the Norm, one sees me: seeing me, one sees the Norm. (Samyutta-Nikaya III, p. 120; The Book of the Kindred Sayings III, p. 103).

 

9

Thân thể này không phải của các ông, không phải của người khác. Thân này, này các Tỷ-kheo, phải được xem là do hành động, do sắp đặt, do sự cố ý, do sự cảm thọ trong quá khứ. (Tương Ưng Bộ Kinh II, trang 118-119).

This body, brethren, is not your own, neither is it that of any others. It should be regarded as brought about by action of the past, by plans, by volitions, by feelings. (Samyutta-Nikaya II, p. 63; The Book of the Kindred Sayings II, p. 44).

 

10

Những ai thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện, những người ấy bảo vệ tự ngã. Dầu cho họ không được tượng binh bảo vệ, hay không được mã binh bảo vệ, hay không được xa binh bảo vệ, hay không được bộ binh bảo vệ; đối với những người ấy, tự ngã được bảo vệ. Vì cớ sao? Vì sự bảo vệ như vậy là sự bảo vệ bên trong, không phải sự bảo vệ ở ngoài. Cho nên đối với những người ấy, tự ngã được bảo vệ. (Tương Ưng Bộ Kinh II, trang 170).

They whose conduct in deed and word and thought is good, by them the self is guarded. Yes, though no squadron of elephants, or of cavalry, or of chariots, or of infantry keep grard for them, yet is the self guarded by them. And why is this? Because theirs is an inner guard, not an extenal guard; therefore is the self guarded by them. (Samyutta-Nikaya I, p. 72; The Book of the Kindred Sayings I, p. 99).

 


Cập nhật: 1-7-2001

Trở về mục "Trích dẫn hằng tháng"

Đầu trang