- Cây cỗ thụ Phật Giáo
- R.P. Hayes
Đạo Phật đến với người Âu Mỹ chúng ta qua nhiều
tông phái và hệ phái, làm cho một người mới vào đạo cảm thấy rất bỡ
ngỡ, mất rất nhiều thì giờ tìm hiểu những chi tiết vô nghĩa. Ngay cả
chính tôi, sau 30 năm nghiên cứu Đạo Phật và hành trì trong những truyền
thống khác nhau, tôi vẫn cảm thấy ngại ngùng về tính chất phức tạp của
đạo nầy. Từ lâu, tôi đã giới hạn sự hiểu biết của tôi trên bình
diện tổng quát của Đạo Phật, và chỉ đào sâu vào một vài tông phái
đặc biệt. Cho nên, vì sự hiểu biết của tôi rất tổng quát, hy vọng
những gì trình bày ở đây có thể sẽ giúp ích phần nào cho những người
mới bắt đầu tìm hiểu Đạo Phật.
Chúng ta có thể hình dung Đạo Phật như một cây cỗ thụ
to lớn với cành lá xum xuê. Có một thân cây lớn, với những nhánh
chính, rồi đâm ra các cành nhỏ, và cuối cùng là những lá cây trên những
cành nhỏ đó. Bên dưới mặt đất là một hệ thống rễ cây. Cũng như là
phần trên mặt đất, hệ thống rễ nầy lại phân chia thành nhiều rễ
con.
Bây giờ, ta hãy hình dung đến một thân cây to lớn vươn
lên khỏi mặt đất và nâng đở, nuôi dưỡng các nhánh cây và lá cây.
Thân cây nầy biểu tượng cho hành động tìm nơi nương tựa -- quy y -- của
Phật tử. Đây là một hành động chung cho mọi Phật tử, và là một phương
diện quan trọng nhất của mọi công tác nghiên cứu và hành trì Đạo Phật.
Bất cứ luận thuyết, tông phái và pháp hành nào của Phật giáo đều xem
như là phải bắt nguồn từ hành động quan yếu đó, mà mỗi Phật từ đều
phải trì tụng thường xuyên, đó là việc quy y. Trong tiếng Pali, hành động
đó gọi là "sarana-gamana" (quy y). "Gamana" nghĩa là đi đến,
tìm về. "Sarana" nghĩa là nơi nương tựa, giúp đỡ, dưỡng nuôi,
hướng dẫn. "Quy y" về một nơi nào có nghĩa là đến đó để
xin giúp đỡ, hướng dẫn và dưỡng nuôi. Thông thường, đó là điều ta
làm khi ta gặp phải một khủng hoảng nào đó trong đời sống, khi ta gặp
phải một thực tế khó khăn mà tự chúng ta không thể đương đầu được.
Do đó, ta tìm đến một nơi nào đó để xin giúp đỡ.
Điều làm cho một người theo đạo thành một Phật tử
không phải chỉ đơn giản là đi tìm nơi nương tựa. Thông thường, đa số
chúng ta đi tìm nơi nương tựa ở một cái gì khác, chẳng hạn nương tựa
vào bạn bè, rượu chè, nghề nghiệp, ma túy, giải trí, gia đình, chuyên
gia, thể thao, nhà phân tâm, tình dục, du lịch, v.v. Điều làm cho một người
trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựa ở
Đức Phật, Phật Pháp, và Tăng Đoàn -- gọi là Quy Y Tam Bảo.
Như thế, ba nhánh rễ cái để nuôi dưỡng thân cây là Phật,
Pháp và Tăng. Mỗi một danh từ nầy lại có nhiều ý nghĩa khác nhau. Cho
nên, ta có thể hình dung là từ ba rễ cái đó lại đâm ra nhiều rễ con
khác nữa. Tuy nhiên, trong phạm vi giới hạn của bài viết, chúng ta sẽ chỉ
đề cập sơ lược đến ba rễ cái nầy mà thôi.
Rễ cái chính giữa là Pháp (Dharma). Danh từ nầy có nhiều
nghĩa. Trong ngữ cảnh Phật giáo, ý nghĩa quan trọng nhất của Pháp là Niết
Bàn, là mục đích tối hậu của tất cả Phật tử. Niết Bàn là sự hủy
diệt mọi mầm mống đưa đến khổ đau, bất toại nguyện. Mọi Phật tử
đều nỗ lực trên con đường diệt khổ đó. Đó là ý nghĩa chính của
Pháp. Nhưng chữ Pháp cũng có nghĩa là phương tiện, cách thức để giúp
ta đạt đến mục đích tối hậu, Niết Bàn. Điều để giúp ta đạt được
mục đích đó là một thái độ tích cực và chân thiện, từ đó đưa đến
danh từ "giới hạnh". Như thế, ý nghĩa thứ hai của Pháp là Giới
hạnh, có liên quan đến tánh thiện của mỗi người. Pháp cũng còn là những
gì giúp ta phát triển giới hạnh. Từ đó, ý nghĩa thứ ba của Pháp là
các điều giáo hóa. Những điều giáo hóa nào giúp ta đến Niết Bàn đều
có thể xem như là Pháp, nhưng thông thường, Phật tử quy y vào những điều
giảng dạy được ghi lại trong Kinh (tập hợp các bài giảng của Đức Phật)
và trong Luật (tập hợp các giới luật đặt ra cho các tu sĩ, những người
rời bỏ đời sống gia đình để dành tất cả thì giờ và năng lực để
hành trì Đạo Pháp).
Hai nhánh rễ cái kia là Phật-đà (Buddha) và Tăng-già
(Sangha). Có nhiều quan kiến khác nhau về ý nghĩa của danh hiệu Phật. Mọi
người đều đồng ý rằng trong lịch sử đã có nhiều vị Phật, và vị
Phật trong thời đại gần đây nhất là Ngài Tất Đạt Đa Cồ Đàm
(Siddhattha Gotama), cũng còn được gọi là vị hiền triết tịch mặc (Mâu
Ni, Muni) dòng họ Thích Ca (Sakya). Bộ tộc Thích Ca có lẽ là một bộ tộc
thiểu số, có nguồn gốc chủng tộc và văn hóa khác với giống dân
A-lê-da (Aryan), giống dân chính đang sinh sống trong vùng. Do đó, khi Ngài Tất
Đạt Đa Cồ Đàm đến các thành phố vùng Ba-la-nại (Benares) và thung lũng
sông Hằng (Ganges), có lẽ dung mạo và cách nói của Ngài có vẻ hơi xa lạ
đối với người dân trong vùng. Cũng có thể là họ đã không coi trọng
Ngài vì họ cho rằng Ngài thuộc sắc dân thiểu số, kém văn minh. Mặc dù
có nguồn gốc xa lạ và bị những thành kiến như vậy, nhưng sau một thời
gian truyền giảng Chánh Pháp, Ngài đã cảm hóa được rất nhiều người,
kể cả những người có địa vị quan trọng như các vị vua chúa, tướng
lãnh, thương gia giàu có, và các học giả thông thái trong thời đó. Tất
cả những người nầy đã tùng phục Ngài, và xem Ngài như là một vị Thầy
hướng dẫn. Vì vậy, khi ta quy y Phật, ta kính trọng Ngài như là một vị
Thầy cao quý nhất của chư thiên và nhân loại, một người toàn thiện nhất.
Nói một cách khác, Ngài là một mẫu mực chân chính để mọi Phật tử
noi theo.
Danh từ "Tăng-già" có nghĩa là một nhóm, một cộng
đồng, hội chúng. Tăng-già mà mọi Phật tử quy ngưỡng là A-lê-da Tăng-già
(Ariya Sangha, Tứ Thánh Tăng-già), là đoàn thể của các bậc thánh cao sang,
những người đã phát triển tuệ giác và giới đức thanh khiết, đã đạt
Niết Bàn hay trên đường gần đến Niết Bàn, thường được gọi là
các quả thánh. Điều cần biết ở đây là các thành viên của A-lê-da Tăng-già
không phải chỉ là tu sĩ, mà cũng không phải bất cứ tu sĩ nào cũng là
thành viên của A-lê-da Tăng-già. Trên bình diện tuyệt đối, khi một Phật
tử quy y Tăng Bảo, người ấy không quy y vào một đoàn thể tu sĩ hay một
đoàn thể những Phật tử khác. Đúng ra, người ấy quy y vào một đoàn
thể của những vị thượng trí, có tuệ giác và giới đức trong sạch, có
một trình độ cao cả, hơn hẳn những người tầm thường. Tuy nhiên, chữ
"Tăng-già" thường được dùng để chỉ các cộng đồng khác, như
cộng đồng tu sĩ (Tỳ-kheo Tăng-già và Tỳ-kheo-ni Tăng-già), cộng đồng
cư sĩ hộ tăng (Ưu-bà-di Ưu-bà-tắc Tăng-già), cộng đồng các cư sĩ đã
nghe Đức Phật giảng Pháp và đã đến xin quy y với Ngài (Thanh văn
Tăng-già). Có một số Phật tử cho rằng có lẽ nên xem toàn thể cộng đồng
Phật tử như là một Tăng-già, như một biểu tượng cho lý tưởng A-lê-da
Tăng-già mà họ quy ngưỡng. Tuy nhiên, trong các quốc gia có truyền thống
Phật giáo lâu đời, Tăng-già thường được xem như là cộng đồng các vị
tu sĩ.
Ba nhánh rễ chính nầy là để dưỡng nuôi thân cây, và từ
một hành động quy y Tam Bảo, tạo ra điều kiện thành lập Phật Giáo như
là một tôn giáo có tổ chức. Có nhiều phương thức khác nhau để quy y.
Tối hậu, ta có thể nói rằng có nhiều cách quy y khác nhau vì có vô số
cá nhân khác nhau, bởi trong lịch sử Đạo Phật, việc quy y tối hậu là
một quyết định của từng cá nhân, và mỗi người phải tự mình tìm
cách hành trì trong đời sống của riêng từng người. Ta có thể xem mỗi
Phật tử là một chiếc lá gắn vào cây cỗ thụ Phật giáo. Lá sống nhờ
cành, cành gắn vào nhánh phụ, nhánh phụ bắt nguồn từ nhánh lớn vốn mọc
ra từ thân cây chính. Từ đó, ta hãy xem xét đến các nhánh cây chính.
Những nhánh cây chính có thể được xem như là dựa trên
căn bản các kinh điển chứa đựng lời dạy của Đức Phật và các vị
đại đệ tử. Một nhánh chính có tên gọi là nhánh Thanh Văn (Savaka). Những
vị tu sĩ trong nhánh nầy hành trì theo các giáo pháp mà mọi người đều
tin rằng đó là các lời dạy công khai của Đức Phật đến các tu sĩ và
cư sĩ đệ tử. Ngày xưa, có rất nhiều nhánh con đâm ra từ nhánh Thanh Văn
nầy, nhưng ngày nay chỉ còn lại một nhánh. Nhánh đó được gọi là
Theravada (Trưởng Lão Thuyết) có nghĩa là lời thuyết giảng của các vị
trưởng lão. Trưởng lão, hay thượng tọa, là tu sĩ đã thọ giới ít nhất
là 10 năm và có tuệ giác minh. Tông phái Theravada dựa theo các pháp hành lưu
truyền qua nhiều đời của các vị trưởng lão nầy. Giáo pháp của Đức
Phật được viết lại trong một tập hợp kinh điển bằng tiếng Pali. Dù
rằng các vị tu sĩ Theravada có nghiên cứu các loại kinh sách khác, nền tảng
cơ bản của sự giảng dạy và hành trì là dựa vào kinh điển Pali. Tông
phái Theravada (thường được gọi là Nam Tông, hay Phật Giáo Nguyên Thủy)
ngày nay hiện diện tại Tích Lan, Miến Điện, Lào, Thái Lan, và Việt Nam.
Nhánh chính thứ hai lại chia chẻ ra rất nhiều nhánh con. Tất
cả các nhánh con nầy đều có một đặc điểm chung là họ chấp nhận
giá trị của các loại kinh điển khác mà nhánh Thanh Văn không thừa nhận
vì cho rằng đó không phải là lời giảng của Đức Phật lịch sử. Nhánh
nầy được gọi là nhánh Mahayana (Đại Thừa, Bắc Tông). Số lượng kinh
điển Mahayana rất lớn và không ai có thể học hết trong một đời, và
vì thế, các Phật tử Mahayana thường chỉ chuyên khảo vào một vài bộ
kinh, hoặc chỉ một bộ kinh. Chẳng hạn như Thiền tông (Zen) thường được
hiểu rằng chỉ dựa vào sự truyền tụng bộ kinh Lăng Già (tựa đề nguyên
thủy "Lăng Già A Bạt Đa La" có nghĩa là truyền dạy chân pháp
vào đảo Lăng Già - Tích Lan, một quốc gia có cả 2 nhánh Theravada và
Mahayana vào thời đó). Các tông phái Tịnh độ thì dựa vào kinh điển mô
tả các quốc độ thanh tịnh cực lạc để ta tái sinh vào đó, tiếp tục
hành trì Phật Pháp dễ dàng hơn là trong thế giới khó khăn nầy. Còn nhiều
nhánh nhỏ khác, chẳng hạn như nhánh Pháp Hoa, dựa theo kinh Diệu Pháp
Liên Hoa -- một kinh điển nhằm thống nhất các tông phái -- trong đó có
nhóm Nhật Liên (Nichiren) và Học Hội Sáng Giá (Soka Gakkai) hiện đang hoạt
động tích cực tại Nhật Bản, Hoa Kỳ, và các nơi khác. Thông thường, các
nhánh nhỏ nầy lại đan kết với nhau, tạo ảnh hưởng lên nhau, rất khó
phân biệt.
Phật Giáo Đại Thừa (Mahayana) đã có thời phát triển
sâu rộng tại Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam và In-đô-nê-si-a
(Nam Dương), nhưng ngày nay đã có nhiều thay đổi. In-đô-nê-si-a giờ đây
là một quốc gia Hồi Giáo. Phật Giáo đã tàn lụn tại lục địa Trung
Hoa. Đa số dân chúng Triều Tiên theo đạo Ky-Tô, chỉ còn một phần ba là
theo đạo Phật. Phật Giáo đang trên đà suy tàn ở Nhật Bản và đang bị
thay thế bởi hằng trăm nhóm đạo giáo mới (có khi chỉ có vẻ là Phật
Giáo bề ngoài). Phật Giáo ở Việt Nam cũng bị suy yếu vì chiến tranh
trong quá khứ và hiện nay là các áp lực chính trị, kinh tế, mặc dù Việt
Nam là nơi đã có những nỗ lực tốt để kết hợp hai nhánh Mahayana và
Theravada. Có thể nói là đang có những nguy cơ khiến Phật Giáo Đại Thừa
có thể sẽ suy tàn ở Á Châu trong 25 năm tới. Một điều buồn là nhánh
cây nầy, một thời rất khỏe mạnh và tươi tốt, nay đang bị ung thối và
có nguy cơ sẽ gẫy rụng vì sức nặng của nó.
Nhánh chính thứ ba là nhánh Kim Cương (Vajra). Thật ra, để
chính xác, có thể nói nhánh nầy là mọc từ nhánh Đại Thừa, nhưng vì
có những đặc thù riêng nên có thể xem như một nhánh chính. Kinh điển của
nhánh nầy là dựa theo các mật chú, nên còn được gọi là Phật giáo Mật
tông (Tantric Buddhism). Đây là những loại kinh điển viết bằng một văn từ
đặc biệt, không rõ ràng cho những ai không được truyền thừa, gọi là
mật nghĩa. Ta không thể nghiên cứu hoặc hành trì nếu không có đạo sư
hướng dẫn, và những vị thầy có những lễ truyền thừa đặc biệt cho
môn đệ có sức linh nào đó để hành trì. Mật tông là tông phái chính
ở Tây Tạng và Mông Cổ (từ Tây Tạng truyền sang). Cũng có những hình
thái Mật tông khác ở Trung Hoa, và từ đó truyền sang Việt Nam, Triều
Tiên, và Nhật Bản. Ngay cả các tông phái Phật Giáo khác cũng chịu ít
nhiều ảnh hưởng của Mật tông, trong phần lý luận cũng như trong cách
hành trì. Thí dụ như tại Việt Nam ngày nay, thường thấy một sự hòa hợp
rất tốt, rất đặc biệt của Nam Tông, nhiều nhánh Bắc Tông (Tịnh độ
và Thiền) và Mật Tông. Phật Giáo Triều Tiên giờ đây cũng là một tổng
hợp của Thiền, Tịnh và một vài dấu vết của Mật.
Đến đây, tôi đã trình bày xong các nhánh rễ, thân cây
chính và các nhánh cây chính của cây cỗ thụ Phật Giáo. Bây giờ thì ta
hãy xem toàn thể cây nầy được cấu tạo ra sao. Nó được cấu tạo bởi
2 phần chính, phần thịt gỗ và phần nhựa cây. Phần gỗ, là cốt tủy của
Đạo Phật, là Trí Tuệ. Phần nhựa, để giúp cho cây tiếp tục tồn tại
bằng cách truyền dẫn các dưỡng tố từ rễ đến các phần khác và đến
cành lá, là Từ Bi. Không có phần nhựa Từ Bi thông chảy xuyên suốt thì
cả toàn cây sẽ chết nhanh. Không có phần gỗ Trí Tuệ thì nhựa cây
không truyền dẫn và sẽ bốc hơi nhanh chóng. Như thế, không phần nào
quan trọng hơn phần nào. Cả hai phần cùng hợp lại để duy trì sự sống
cho cây cỗ thụ Phật Giáo.