- Sự hình thành Đại thừa
- J. R. O'Neil
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về
sau nầy được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời
gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN, là kết quả tích tụ của nhiều
phát triển vốn có từ trước. Nguồn gốc của nó không liên hệ với một
cá nhân nào, và cũng không đặc biệt liên kết với một tông phái nào của
thời kỳ Phật Giáo sơ khai. Có thể phong trào đó khởi dậy từ nhiều nơi
trong xứ Ấn Độ, tại miền nam, miền tây bắc và miền đông.
Phong trào nầy có 3 đặc tính tổng quát. Thứ nhất là sự
đồng tình hết lòng với quan niệm về Bồ Tát Đạo vốn đã được một
vài tông phái nguyên thủy khởi xướng từ trước. Thứ hai, họ đưa ra một
vũ trụ quan mới, dựa vào các pháp quán kiến về Đức Phật mà dưới cái
nhìn mới, đã trở thành một vị siêu nhân, siêu thế. Thứ ba, họ có những
quan niệm mới về A-tỳ-đàm (Abhidhamma, Vi Diệu Pháp), phát nguồn từ kết
quả thiền quán về "không tính" sâu kín của vạn vật và từ đó
có một nhãn quan triết lý mới. Từ ba đặc tính nầy, phát sinh một định
hướng mới về giáo pháp của đạo Phật và tạo ra hằng loạt các diễn
giải mới lạ, và dần dần tạo nắn thành một phong trào gọi là Đại
thừa với tính chất riêng biệt.
Mahayana đi vào lịch sử như một liên hiệp lỏng lẻo của
nhiều nhóm, mỗi nhóm liên kết với một hay nhiều kinh điển mới. Các
kinh điển nầy được viết ra bằng các phương ngữ miền Trung Ấn chẳng
bao lâu sau khi chúng được trước tác. Tiếp theo là các sửa đổi, rồi dần
dần trở thành một loại ngữ văn "Sanskrit tạp", rất gần với
Sanskrit cỗ, ngữ văn quý trọng của Ấn Độ. Những người nào chấp nhận
các văn liệu nầy là kinh điển chính thống -- lời giảng dạy của Đức
Phật -- được xem như thành viên của phong trào mới. Điều đó không có
nghĩa là các tu sĩ trong phong trào mới nầy bắt buộc phải từ bỏ truyền
thống cũ, vì họ vẫn tiếp tục tuân giữ các giới luật trong truyền thống
cũ của họ. Các người Đại thừa vẫn là một thiểu số trong giới Phật
tử Ấn Độ trong một thời gian dài. Đến thế kỷ thứ bảy Công Nguyên,
nhà hành hương Huyền Trang ước tính là phân nửa trong số 200,000 vị tu sĩ
tại Ấn Độ theo phong trào Đại thừa.
Những người truyền thống lúc đó không chấp nhận các văn
liệu mới nầy là "lời dạy của Đức Phật (Phật ngôn -
Buddhavaccana)" như các kinh nguyên thủy. Thật ra, kinh điển nguyên thủy
cũng bao gồm bài giảng của các vị đại đệ tử nhưng được họ chấp
nhận là vì Đức Phật đã từng khen ngợi các vị đại đệ tử đó và
Ngài đồng ý với các bài giảng đó. Ngay cả sau khi những vị đó đã
qua đời, một vài bài kinh khác đã được thêm vào nếu chúng có cùng văn
phong và nội dung với tạng kinh luật.
Kinh điển mới của Mahayana hoàn toàn khác hẳn về văn
phong và âm điệu. Nhưng chúng được nhiều người theo phong trào mới chấp
nhận là "Phật ngôn" vì nhiều lý do. Thứ nhất, họ tin rằng Đức
Phật vẫn hiện hữu, cảm nhận được qua các trạng thái nhập thiền và
mộng tưởng, và đã giảng các bộ kinh đó. Thứ hai, chúng được xem như
sản phẩm từ các tuệ giác bát nhã có cùng một căn bản như các bài
pháp của Đức Phật. Thứ ba, về sau nầy, nhiều người Đại thừa lại
tin rằng các kinh điển đó là lời giảng của Đức Phật nhưng đã được
dấu đi tại quốc độ của các loài thần rắn (Naga, Long vương), cho đến
khi nào loài người có thể nhận thức được tầm mức quan trọng của
kinh thì mới thỉnh được chúng qua năng lực trong lúc tham thiền. Mỗi một
giải thích đều cho rằng các kinh điển nầy được phát khởi từ kinh
nghiệm tham thiền. Tuy nhiên, chúng thường có dạng các lời đối thoại
giữa Đức Phật lịch sử và các đệ tử cùng với sự hiện diện của
chư thiên.
Các loại kinh điển mới nầy được các người Đại thừa
xem như "thời kỳ Chuyển Pháp Luân lần thứ hai", một cấp độ
giảng dạy cao sâu hơn các kinh nguyên thủy. Giờ đây, các đệ tử Bồ Tát
được hình dung ra như có trí tuệ cao hơn các vị A-la-hán. Vì các kinh điển
mới được xem như có giá trị giải thoát, các người Đại thừa cho rằng
sẽ có nhiều phước đức nếu chúng được sao chép lại, quảng bá, tụng
đọc, tham cứu, thực hành, và ngay cả việc tôn thờ lễ lạc chúng. Điều
nầy cho thấy có một thái độ tự vệ của phong trào mới, vẫn còn là
thiểu số, đang cố gắng củng cố, xây dựng một thế đứng, phản ứng
chống lại các chỉ trích của giới tăng sĩ truyền thống. Có lẽ các
kinh điển Mahayana được trước tác bởi một số các vị pháp sư có uy
tín và muốn khởi xướng phong trào mới. Các vị nầy, tu sĩ lẫn cư sĩ,
truyền bá tư tưởng mới trong và ngoài cộng đồng Phật giáo đương thời
để lôi cuốn thêm tín đồ mới. Họ ca ngợi các tính chất cao quí của
quả vị Phật Chánh Đẳng Giác, một sự hoán chuyển tâm thức sâu xa, thực
hiện qua việc khai phát tâm thức giác ngộ -- giác tâm (bodhi-citta), một
lòng hứng khởi để đạt quả vị Phật, qua các phương tiện của Bồ Tát
Đạo.
Các quan niệm mới về giá trị của kinh điển đã khuyến
khích phong trào Đại thừa có thêm nhiều tự do phóng khoáng, nhiều sự
"mặc khải", để tạo ra hằng loạt các kinh điển mới ở Ấn Độ
cho đến khoảng năm 650 CN. Các bộ kinh nầy thường được trước tác bởi
các vị tu sĩ ẩn danh, thông thường có một nhóm tác giả viết ra một văn
bản mới với nhiều chi tiết, càng ngày càng phát triển rộng thành các
tác phẩm lớn, có khi lên đến vài trăm trang giấy. Trong khi đó, các kinh
điển nguyên thủy thường ngắn gọn hơn, mỗi bài kinh chỉ có vài ba
trang. Thật ra, trong một vài bài kinh nguyên thủy, Đức Phật được nhắc
đến như là một đại nhân cao quý, xuất chúng, chung quanh là hàng trăm vị
chư thiên và đại đệ tử. Các kinh điển Mahayana đã mô phỏng theo lối
diễn tả nầy. Trong các kinh đại thừa, Đức Phật thường dùng các ẩn
dụ, lời nói bóng bẩy, đa nghĩa, và giảng cho nhiều vị Phật khác, nhiều
vị Bồ Tát trong nhiều tầng trời của vũ trụ. Những vị cứu rỗi nầy,
chư Phật và chư Bồ Tát với nhiều danh hiệu và nguồn gốc mới lạ, trở
thành đối tượng cho việc tôn thờ, sùng bái và cầu nguyện, và từ đó
gia tăng tính hấp dẫn, thu hút quần chúng, giúp thành công cho việc truyền
bá phong trào Đại thừa.
Đầu tiên, phong trào mới nầy được gọi là Bồ Tát Thừa
(Bodhisatva-yana). Tên gọi đó để phân biệt với Thanh Văn Thừa
(Sravaka-yana) của những người hành trì các lời dạy nguyên thủy của Đức
Phật và nhắm đến quả vị A-la-hán (Arahat), không phải quả vị Chánh Đẳng
Giác (Samma-sambuddho). Tên gọi đó cũng để phân biệt với Độc Giác Thừa
(Pratyeka-Buddha-yana), dùng để chỉ các vị tu sĩ sống đơn độc, trong các
thời xa xưa, tự giác ngộ nhưng không truyền dạy cho người khác. Dần dần,
khi bị nhiều chỉ trích và phê bình của những người không tán đồng các
tư tưởng mới, phong trào nầy phản ứng lại bằng cách gia tăng ca ngợi
tầm mức quan trọng của hạnh Bồ Tát và đưa ra một danh xưng mới:
Mahayana (Đại thừa). Các "thừa" khác giờ đây bị khinh chê là thấp
kém, và bị gán cho một tên gọi khác là Hinayana (Tiểu thừa). Lý do biện
minh cho cái "lớn" của Đại thừa ở trong 3 lãnh vực: ý nguyện từ
bi muốn cứu vớt muôn loài, tuệ giác thâm sâu mà họ cổ võ, và mục
tiêu nhắm đến quả vị tối thượng của Phật.
Vào khoảng năm 200 CN, một bộ kinh mới có tên "Hoa sen
của Chân Pháp" (Diệu Pháp Liên Hoa, Saddharmapundarika) được viết ra với
một cái nhìn mới: mặc dù vẫn còn chống báng "Tiểu thừa", bộ
kinh cho rằng Tiểu thừa được bao gồm trong và hoàn mãn bởi Đại thừa.
Phẩm 2 của bộ kinh nầy, trong việc dung nạp Tiểu thừa, đưa ra một quan
niệm về sau trở nên rất phổ thông trong Đại thừa: quan niệm về cách
dùng "phương tiện thiện xảo". Họ dựa vào một quan niệm vốn
đã có sẵn từ trước cho rằng Đức Phật đã khéo léo giảng dạy tùy
theo trình độ và căn duyên của người nghe -- việc nầy được thực hiện
bằng cách chọn lựa các bài giảng của Ngài trong tạng kinh luật đã có
sẵn. Tuy nhiên giờ đây, Ngài được xem như đã giảng dạy với nhiều cấp
độ khác nhau và có vẻ như mâu thuẩn. Những người có trình độ cao cần
phải tháo bỏ các lời giảng giản dị dành cho những người căn cơ thấp.
Mặc dù mọi người đều có khả năng thành Phật, không thể nào giảng
các bài pháp cao siêu cho những hạng căn cơ thấp vì họ sẽ bị rối loạn.
Vì vậy, cho những người "vô minh, căn cơ thấp", Đức Phật dạy
về Tứ Diệu Đế, tạo mục đích đạt Niết Bàn qua quả vị A-la-hán. Vị
A-la-hán giờ đây được xem như vẫn còn ngã mạn và không đủ lòng từ
bi vì chỉ muốn thoát khổ một mình, không chịu giúp các chúng sinh khác.
Cho những ai muốn nghe thêm nữa, Đức Phật giảng về Niết Bàn thật sự
của quả vị Phật, và tất cả chúng sinh đều có thể đạt được quả
vị nầy, kể cả hàng A-la-hán, dù rằng những vị A-la-hán vẫn tưởng rằng
họ đã đạt được mục đích tối hậu. Đức Phật chỉ có một cỗ xe,
Nhất Thừa (eka-yana), cỗ xe của Phật, nhưng Ngài dùng "phương tiện
thiện xảo" để tạo ra 3 cỗ xe khác: Thanh văn thừa, Độc giác thừa,
và Bồ tát thừa. Ngài truyền cỗ xe nào thích hợp với căn cơ của từng
người, nhưng khi họ đã phát triễn tới một cấp độ nào đó thì Ngài
sẽ truyền cho cỗ xe Phật tối thượng. Dù vậy, vì kinh đề cao Bồ tát
đạo là con đường đưa đến Phật quả, thật khó mà phân biệt được
giữa Bồ tát thừa và Phật thừa. Cuối cùng, kinh nầy vẫn hàm chứa ý
nghĩa đề cao các hàng Bồ Tát theo định nghĩa của phong trào mới. Thật
ra, không phải các kinh điển Mahayana đều theo quan niệm Nhất Thừa nầy.
Có vài bộ kinh cho rằng trong ba thừa đó, quả vị A-la-hán không thể tiến
xa hơn nữa, và Niết Bàn của A-la-hán có tầm mức thấp kém hơn Phật quả.
Tuy nhiên, theo các tiêu chuẩn của quả vị A-la-hán qua kinh
điển nguyên thủy của nhiều tông phái, chẳng hạn như tông phái Theravada
ngày nay, thì quan niệm trên -- về sự thấp kém của A-la-hán -- là một
điều khó hiểu và vô lý. Không thể nào cho rằng A-la-hán là một người
còn chấp ngã và ích kỷ. Theo định nghĩa trong kinh điển nguyên thủy, vị
A-la-hán là người đã hoàn toàn tận diệt các tư tưởng về "tự ngã,
cái tôi", vốn là nguồn gốc của chấp ngã và ích kỷ. Vị ấy cũng
thường được kinh điển nguyên thủy mô tả như một người có lòng từ
bi vô lượng, và hết lòng giảng dạy truyền bá đạo pháp, đem lại nhiều
lợi lạc, hạnh phúc cho người khác. Niết Bàn và Giác ngộ chỉ có một,
không có phân chia cấp độ. A-la-hán là những người đã đi theo con đường
Phật dạy, phát triển tuệ giác, hoàn toàn tận diệt mọi lậu hoặc, và
không còn tạo nghiệp để vướng mắc trong luân hồi sinh tử. Sự khác biệt
giữa Phật và A-la-hán chỉ là khác biệt giữa vị Thầy khai sáng Chánh
Pháp và các vị đệ tử hành trì thành công Chánh Pháp đó. Cũng cần ghi
nhận ở đây là các vị tu sĩ Thanh Văn Thừa đã đóng góp tích cực cho
công trình quảng bá đạo Phật trong toàn xứ Ấn Độ và các nước lân
bang trong một thời gian dài hơn 500 năm, từ khi Đức Phật hoằng khai Chánh
Pháp cho đến khi có mặt phong trào Đại thừa. Thêm vào đó, truyền thống
Theravada vẫn công nhận rằng con đường lâu dài đưa đến quả vị Phật,
trải qua rất nhiều kiếp sống, là con đường cao thượng nhất, bới vì
sẽ cứu giúp được vô lượng chúng sinh. Con đường Bồ Tát nầy vẫn
được một số các Phật tử Theravada hành trì, và xem như là một con đường
đáng ngưỡng phục. Tuy nhiên, không phải người nào cũng đạt đến quả
vị Phật vì chỉ có một vị Phật trong mỗi thời kỳ, và vị Phật trong
thời kỳ tới là Bồ Tát Di Lặc. Vì vậy, đa số Phật tử Theravada đi
theo con đường A-la-hán, họ hành trì theo các lời giảng dạy đã có sẵn
của Đức Phật Cồ Đàm, ngày nay vẫn còn được lưu truyền rộng rãi, với
mục đích có thể chứng đắc được một trong bốn quả thánh (Dự Lưu,
Nhất Lai, Bất Lai, và A-la-hán) đưa đến giác ngộ, giải thoát ngay trong
đời nầy hoặc đời sau.
Trong giai đoạn đầu khi mới thành hình, phong trào Đại thừa
khuyến khích các cư sĩ đi theo Bồ Tát Đạo, thoát khỏi ràng buộc gia đình
và lập ý nguyện xuất gia, trở thành tu sĩ, hành trì để đạt đến một
trình độ tâm linh cao thượng. Về sau, vai trò của cư sĩ tại gia lại
được đề cao hơn, chẳng hạn như trong kinh Duy Ma Cật (Vimalakirti-nirdesa).
Từ quan niệm nguyên thủy Bồ Tát là người sắp thành Phật và thường dùng
để chỉ các tiền thân của Phật Cồ Đàm, quan niệm về Bồ Tát trong Đại
thừa được triển khai với ý nghĩa mới, trở thành một người cao thượng,
giàu lòng hy sinh và từ bi để cứu nhân độ thế, làm việc từ thiện,
chia xẻ công đức, đáp ứng các lời cầu nguyện, khuyến khích lễ lạc,
phúng tụng, xây tháp v.v. Quan niệm nầy càng ngày càng trở nên phổ
thông, nhất là khi Đại thừa được truyền sang Trung Hoa và một số kinh
điển đã được trước tác thêm tại đó.
Qua nhiều thế kỷ, các tu sĩ Phật Giáo tại Ấn Độ học
tập và hành trì theo cả hai truyền thống Thanh Văn Thừa và Đại Thừa, có
khi họ cùng ở chung một tự viện. Ngay cả các nhà hành hương Trung Hoa
cũng không phân biệt được Đại thừa như là một phong trào riêng rẻ trước
thế kỷ 4 Công Nguyên. Về sau nầy, danh từ Tiểu thừa (Hinayana) đã bị
nhiều người đồng hóa với ý nghĩa hạ tiện, thấp kém, và do đó cần
phải tiến lên một mức độ cao hơn của Đại thừa (Mahayana).Trong ý nghĩa
lịch sử, danh từ Hinayana khởi nguyên do các kinh điển Mahayana đặt ra để
chỉ những truyền thống và bộ phái nguyên thủy vốn không công nhận
các kinh điển mới của phong trào Đại thừa.
Các nhà Phật học ngày nay thường dùng danh từ Phật Giáo
Kinh Bộ (Nikaya Buddhism) hoặc Phật Giáo Nguyên Khởi (Original Buddhism) để
chỉ các tông phái sử dụng kinh điển nguyên thủy trước thời kỳ phát
triển kinh điển đại thừa. Để chỉ các truyền thống Phật Giáo hiện
tại, họ dùng danh từ Phật Giáo Bắc Phương (Northern Buddhism) để chỉ Phật
Giáo Tây Tạng (Mật tông), Phật Giáo Đông Phương (Eastern Buddhism) để chỉ
Phật Giáo tại Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn và Việt Nam, và Phật Giáo
Nam Phương (Southern Buddhism) để chỉ Phật Giáo tại Tích Lan, Miến Điện,
Thái Lan, Lào và Căm Bốt.