Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Sơ lược ý nghĩa chữ "Không" trong Đạo Phật
Thích Nhật Từ

Vài lời dẫn nhập

Tánh "không" (S. 'Suunyataa, P. Su~n~nataa) là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo và cũng là học thuyết bị người khác đạo hiểu sai lầm nhiều nhất. Các tác giả chống Phật giáo thường không hiểu rõ hay ngộ nhận ý nghĩa của hai chữ sắc và không trong đạo Phật. Họ lẫn lộn hoặc lợi dụng vào hiện tượng đồng âm dị tự trong tiếng Việt và Hán Việt, đánh đồng hai khái niệm hoàn toàn khác nội dung làm một, để bôi bác giáo lý của đạo Phật. Hai khái niệm đó là (i) phủ định từ "không [có] (natthitaa) đối lập với có (atthitaa), và (ii) [tính] "không" ('suunyataa) tức tính không thực thể của mọi sự vật hiện tượng. Ngoài ra, một số tác giả cũng vận dụng lối chơi chữ ngụy biện để đánh đồng hai khái niệm "khác nhau" khác có liên hệ mật thiết với hai khái niệm trên là "có" (atthitaa) và "sắc" (ruupa). Có (atthitaa) là trợ động từ xác định, đối lập với "không có" (natthitaa), trạng từ phủ định. Sắc (ruupa) là thuật ngữ Phật giáo chỉ cho "vật thể, xác thân hay bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa." Hai khái niệm này mang 2 nội dung khác nhau hoàn toàn, ấy thế nhiều tác giả có ác kiến với đạo Phật thường cố giải thích sai lệch cho chúng đồng nhau để xuyên tạc Phật giáo. Sau đây là vài giải thích sơ bộ về ý nghĩa chữ không trong đạo Phật.

1. "Không" và thiền định

Trong kinh điển Nikaaya và Aagama, thuật ngữ "không" (S. 'suunyataa, P. su~n~nataa) thường được mô tả gắn liền với sự thực hành thiền định. Chẳng hạn như ở S. V. 311, từ "không" với ý nghĩa "trống rỗng, cô tịch, tỉnh lặng, vắng vẻ" được gắn liền với "phương pháp tu chánh niệm tỉnh thức qua hơi thở ra vào" (aanaapaanasati):

"Này các tỳ-kheo, hãy đi đến rừng (ara~n~naagato) hay đi đến gốc cây (rukkha-muulagato) hay đi đến một nơi trống rỗng (su~n~naagaara-gato), ngồi xếp bằng, giữ thân ngay thẳng, đặt chánh niệm trước mặt, thở ra vào một cách tỉnh thức." Cũng cần nói thêm rằng "nơi trống rỗng" (su~n~naagaara-gato) có nghĩa là nơi không có cư dân, nơi hoang vắng, nơi cô tịch, chỉ chung cho các khu đồi núi (pabbata), hang động (kandara), rừng rậm (vanapattha) hay các khoảng trống (abbhokaasa). (Xem A. IV. 436-7; A. V. 207; M. III. 115-6; S. I. 180-1, 106-7; M. I. 56; D. II. 291; A. V. 111).

Từ đó, mệnh đề cầu khiến "hãy đi đến một nơi trống rỗng" (su~n~naagaara-gato) đã mặc nhiên trở thành thành ngữ diễn tả sự thực hành thiền chánh niệm trong từng hơi thở ra vào, hay nói chung, tu tập thiền định Phật giáo. Trạng thái thiền định này thường được gọi là "an trú vào tánh không" (su~n~nataa-vihaara). Đức Phật thường tán thán rằng:

"vị thánh nào sống an trú ở nơi trống rỗng hay tánh không (su~n~na-gehaani) thì thật là siêu tuyệt. Đó là cái rỗng không của ngã (atta-su~n~nato) . . . Vị thánh sống ở nơi trống rỗng (su~n~naagaara) sẽ trở nên bất động cho đến ngay cả một sợi lông cũng không lay động" (S. I. 106-7; T. 2. 285b, 382a-b).

Phương pháp thiền quán về tánh không như vậy được gọi là "không tam-muội" ('suunyataa-samaadhi, concentrative meditation of emptiness), tức thiền quán về tính không thực thể của ngã và các sự vật. Đức Phật cũng khẳng định rằng an trú vào tính không (su~n~nataa-vihaara) chính là nơi an trú của các bậc vĩ nhân về tu tập (mahaapurisa-vihaara). (xem M. III. 293-7; T. 2. 773b-c).

2. Tánh không tức vô ngã

Vì tánh không ('suunyataa // su~n~nataa) là tính không thực thể của ngã và các sự vật, nên tánh không còn được hiểu là "vô ngã" (anatta). Điểm quan trọng này được đức Phật dạy trong Kinh Tập qua đoạn trích sau đây:

"Này Mogharaja, hãy nên luôn luôn chánh niệm và tỉnh thức để từ bỏ quan niệm về ngã (attaanudi.t.thi"m uubacca) và hãy nhìn thế giới rỗng không, không có thực thể (su~n~nato loka"m avekkhassu)" (Sn. v. 1119).

Điều này cho thấy rằng có mối liên hệ vô cùng chặt chẽ về "sự từ bỏ một quan niệm ngã" và "nhận ra được thế giới không có thực thể." Nói cách khác thấy được tính không của thế giới được lập cước trên thấy được vô ngã. Được Aananda hỏi "thế nào gọi là thế giới không có thực thể (su~n~no-loko)?" đức Phật trả lời rằng:

Này Aananda, gọi thế giới là không có thực thể là vì thế giới không có ngã và những gì thuộc về ngã (su~n~na"m attena vaa attaniyena vaa). . . Này Aananda, con mắt không có/phải ngã, không có những gì thuộc về ngã (cakkhu su~n~na"m attena vaa attaniyena vaa). Sắc thể (ruupa) không có ngã và những gì thuộc về ngã. Nhận thức của con mắt (cakkhu-vi~n~na.na"m) không có ngã và những gì thuộc về ngã. Sự tiếp xúc của con mắt cũng không có ngã và những gì thuộc về ngã. Tương tự, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng không có ngã, những gì thuộc về ngã. Các cảm giác (vedayita"m) đau khổ, hạnh phúc hay trung tính phát sanh từ sự tiếp xúc của ý (manosamphassa-paccayaa) cũng không có ngã và những gì thuộc về ngã (S. IV. 54).

Cũng cần nói thêm rằng trong triết học Phật giáo, khái niệm thế giới (loka) chỉ cho 6 giác quan, 6 đối tượng của giác quan, 6 nhận thức của giác quan, 6 tiếp xúc và 6 cảm giác từ sự tiếp xúc của 6 giác quan với 6 đối tượng tương ứng của chúng. Do đó, "thế giới không có thực thể (vô ngã) và không có những gì thuộc về ngã" có nghĩa là "6 giác quan, 6 đối tượng của giác quan, 6 nhận thức của giác quan, 6 tiếp xúc và 6 cảm giác từ sự tiếp xúc của 6 giác quan với 6 đối tượng tương ứng của chúng" đều không phải ngã, không có ngã và những gì thuộc về ngã. Nói cách khác "tính không" của thế giới hay các sự vật cũng chính là "tính vô ngã, tính không thực thể của ngã hay những gì thuộc về ngã."

3. Tánh không tức duyên khởi, vô thường, vô ngã

Điểm quan trọng mà những người xuyên tạc Phật giáo không biết đến đó là tánh không ('suunyataa // su~n~nataa) cũng chính là duyên khởi (pa.ticca-samuppaada), và ngược lại, cái gì duyên khởi cái đó không thực thể. Theo Phật giáo, tính duyên khởi của mọi sự vật hiện tượng cũng chính là đặc tính của sự vật (S. dharma-sthititaa, P. dhamma.t.thitataa). Vì duyên khởi cũng chính là tính "không" cho nên tính "không" chính là đặc tính của sự vật. Nói cách khác, đặc tính của sự vật là không thực thể (không, 'suunyataa) hay duyên khởi hay vô ngã. Chính vì thế đức Phật đã xác định rằng "những lời dạy của đức Như Lai sâu sắc, thâm áo, siêu tuyệt (lokuttaraa) đều có liên hệ đến tính không (su~n~nata-pa.tisa"myuttaa)" (S. II. 267; T. 2. 345b). Ở một đoạn kinh khác, sự liên hệ giữa tính không và duyên khởi được xem là đặc điểm của giáo pháp của đức Phật, khác hẳn với giáo pháp của Bà-la-môn và triết thuyết ngoại đạo:

"Ta [Phật Thích-ca] dạy cho các tỳ-kheo giáo pháp này, thánh thiện, siêu việt, có liên hệ đến tính không và phù hợp với luật duyên khởi" (S. II. 25, 267; T. 2. 84b, 345b).

Theo lời Phật dạy, cái gì duyên khởi (pa.ticcasamuppanna) cái đó là vô thường (anicca) và vô ngã (anatta). Nhận thức này được diễn tả qua mối quan hệ không gian và thời gian của các sự vật. Về phương diện không gian, tất cả các sự vật là không thực thể hay vô ngã (sabbe dhammaa anattaa), trong khi về phương diện thời gian, tất cả các sự vật duyên khởi đều là vô thường" (sabbe sa"nkhaaraa aniccaa). Phương diện đôi "vô thường và vô ngã" của sự vật sẽ dẫn đến sự không thỏa mãn "(sabbe sa"nkhaaraa dukkhaa)" (xem Dhp. 277-9. Cf. S. II. 26f; A. I. 286; GS. I. 264 ). Triết lý này được xem là đặc điểm duy nhất của giáo pháp của Phật Thích-ca (M. I. 380: buddhaana"m saamukka"msikaa desanaa), so với các học thuyết của các tôn giáo khác. Nói tóm lại, cái gì duyên khởi cái đó là tính "không," và cái gì duyên khởi cái đó vô thường và vô ngã. Cho nên, cái gì tính không cái đó là vô thường và vô ngã, và ngược lại, cái gì vô thường, vô ngã, cái đó là duyên khởi và tính không. Chính vì thế, kinh Tăng Nhất A-hàm đã định nghĩa: "Tính không là ‘cái này không phải bản ngã của tôi, cái này không phải là tôi, và cái này không phải thuộc về tôi" (T. 2. 715b-c)

4. Tánh không và trung đạo

Theo đức Phật, phương pháp thiền quán về tính không và duyên khởi của các sự vật hiện tượng là một trong các cách trừ diệt các chấp thủ, tham ái và dẫn đến sự an tịnh các hành một cách có hiệu quả. Sự an tịnh hành, chấm dứt tham ái, hướng đến ly tham và diệt khổ là con đường dẫn đến niết-bàn (sabbasa"nkhaara-samatho sabbupadhi-pa.tinissaggo ta"nha-kkhayo viraago nirodho: nibbaana"m, xem S. I. 136; M. I. 167; T. 2. 593a). Quá trình nhận thức này được diễn ra qua hai giai đoạn, trước là nhận thức được tính chất của các pháp và sau là nhận chân được niết-bàn (pubbe kho Susiima dhamma.t.thiti~n~naa.na"m pacchaa nibbaane ~naa.nanti, xem S. II. 124; T. 2. 97b). Nhận thức được tính chất của sự vật (dhamma-.thiti-~naa.na) tức là nhận thức được các sự vật là duyên khởi hay tính không (xem S. II. 25; T. 2. 84b). Kinh điển Phật giáo gọi người có được trí tuệ về tính chất duyên khởi và tính không của các pháp là người giải thoát bằng trí tuệ (P. pa~n~naa-vimutta, S. praj~naa-vimukta), hay người thể nhập được "trung đạo" (P. majjhimaa pa.tipadaa, S. madhyamaa pratipadaa). Nói cách khác, thấy được tính duyên khởi và tánh không là thấy được "trung đạo."

Đức Phật gọi duyên khởi là con đường trung đạo (majjhimaa pa.tipadaa) vì nó tránh được hai cực đoan quan niệm (dvaya-nissito) của hiện hữu (atthitaa) và phi hiện hữu (natthitaa). Cho rằng mọi sự vật hiện hữu (sabba"m atthiiti) là một cực đoan (eko anto) dẫn đến chủ trương thường kiến (sassatadi.t.thi). Cho rằng mọi sự vật không hiện hữu (sabba"m natthiiti) là một cực đoan đối lập (dutiyo anto) dẫn đến chủ trương đoạn diệt luận (ucchedadi.t.thi). Từ bỏ hai cực đoan (ubho ante anupagamma) này, đức Phật giảng trung đạo hay duyên khởi: "cái này có nên cái kia có, cái này sanh nên các kia sanh, tức do vô minh nên hành hiện hữu; do hành nên thức hiện hữu; do thức nên tổ hợp tâm vật lý hiện hữu . . . đây là toàn bộ khối đau khổ." Tương tự, do cái này không có nên cái kia không có và do cái này hoại diệt nên cái kia hoại diệt, tức do vô minh diệt nên hành diệt, do hành diệt nên thức diệt . . . đó là sự chấm dứt toàn bộ khối đau khổ" (S. II. 17, 75).

5. Phương pháp quán "không, giả và trung"

Chính vì tánh không ('suunyataa // su~n~nataa) là duyên khởi (S. pratiityasamutpanna), là vô ngã, là không thực thể, là khái niệm mặc ước (giả danh, S. praj~naptir upaadaaya), và là con đường trung đạo (S. madhyamaa pratipat) để thoát khỏi các cực đoan quan niệm, phương pháp quán của Trung Quán Luận (Madhyamaka-Kaarikaa 'Saastra) và các tông phái lập cước trên Trung Quán Luận có tên gọi là "không, giả, trung." Khái niệm "giả" trong "giả danh" ở đây không có nghĩa là "giả" đối lập với "thật" mà là "tính mặc ước" tức "tính không thực thể" của các sự vật hiện tượng. Bồ-tát Long Thọ phát biểu trong Trung Quán Luận của mình về mối quan hệ ba này như sau:

Ya.h pratiiyasamupaada.h 'suunyataa"m taa"m pracak.smahe/ saa praj~naptir upaadaaya pratipat saiva madhyamaa// Apratiitya samutpanno dharma.h ka'scinna vidyate/ yasmaat tasmaad a'suunyo hi dharma.h ka'scin na vidyate// [kệ 18-9, chương xxiv].

Ngài Cưu-ma-la-thập dịch sát ra Hán văn:

Chúng nhân duyên sanh pháp, ngã thuyết tức thị "không," diệc vi thị "giả danh," diệc thị "trung đạo" nghĩa. Vị tằng hữu nhất pháp, bất tùng nhân duyên sanh, thị cố nhất thiết pháp, vô bất thị "không" giả."

Tạm dịch ra tiếng Việt:

Tất cả các sự vật hiện tượng đều do duyên mà hình thành, do đó, tôi gọi đó là không (tức không thực thể) hay cũng còn gọi là giả danh hay trung đạo. Vì chưa từng có một sự vật hiện tượng nào mà không sanh ra từ duyên khởi, cho nên tất cả các sự vật hiện tượng đều là không."

Quán tánh không của con người và các sự vật hiện tượng cũng chính là quán tính không thực thể hay mặc ước (giả danh) của chúng hay cũng chính là hướng đến con đường duyên khởi trung đạo.

6. Ý nghĩa chữ "Sắc" trong "Sắc tức thị Không"

Chữ "không" như vừa nói không có nghĩa là "không có" (natthitaa) đối lập với "có" (atthitaa) mà là "tính không thực thể, duyên khởi, vô thường và vô ngã" của các sự vật hiện tượng trong thế giới. Chữ "sắc" (ruupa) trong các mệnh đề "sắc tức thị không, không tức thị sắc" trong Bát-Nhã Tâm Kinh hoàn toàn không có nghĩa là "có" (atthitaa) như nhiều tác giả chống đạo Phật đã ngộ nhận và xuyên tạc. Sắc là thuật ngữ Phật giáo chỉ cho các hình thái hay tổ hợp vật chất (P. ruupakkhandha, S. ruupaskandha, material form / aggregate) nói chung. Sắc hay sắc uẩn (P. ruupakkhandha, S. ruupaskandha) có thể dịch nôm na là "hình thể" hay "vật chất," hay "hình hài con người" trong ngữ cảnh "sắc uẩn trong ngũ uẩn." Sắc bao gồm 4 yếu tố căn bản (tứ đại, P=S mahaabhuuta-ruupa) là đất (pa.thavi//p.rthivii), nước (aapa//aap), lửa (teja//tejas) và gió (vaaya//vaayu). Bốn chất này cung ứng nguyên tử tạo thành các đặc tính (S. lak.sa.na) hay hoạt động (S. v.rtti) của cơ thể con người, chẳng hạn như chất rắn (S. khakkha.tatva), chất lỏng (S. dravatva), nhiệt lượng (S. u.s.nataa) và không khí hay sự vận động (S. iira.nakarman/ laghusamudiira.natva). Từ 4 yếu tố vật chất này có các yếu tố phát sanh (upaadaaya-ruupa) như 5 cơ quan nhận thức (indriya), đó là mắt (cakkhu//cak.sur), tai (sota//'srotra), mũi (ghaana//ghraa.na), lưỡi (jivhaa//jihvaa), thân (P=S kaaya), và 5 đối tượng của chúng là hình thể (P=S ruupa), âm thanh (sadda//'sabda), mùi (P=S gandha), vị (P=S rasa), vật xúc chạm (pho.t.thabba//spra.s.tavya), và các bộ phận của thân thể.

Theo đức Phật, nhóm tổ hợp vật chất (sắc uẩn) trong 5 nhóm nhân tính (năm uẩn) được hình thành từ các yếu tố vật lý, được tinh cha trứng mẹ tạo ra, được thức ăn nuôi sống, luôn trong tình trạng thay đổi liên tục. Khi phân tích về sắc hay sắc uẩn, đức Phật không thừa nhận có một thực thể (substantial entity) độc lập mà trái lại ngài khẳng định tổ hợp vật chất (sắc uẩn) này chỉ đóng vai trò chức năng và tùy thuộc vào mối quan hệ tương duyên và nhân quả với các hoạt động của tinh thần (naama-kkhandha) đó là cảm thọ (thọ), ý niệm hóa (tưởng), sự vận hành (hành) và nhận thức (thức). Chính vì sắc là tùy thuộc, duyên khởi nên chúng không có thực thể (không): sắc tức thị không. Nói dễ hiểu hơn, tất cả các hình thái vật chất (sắc) đều là duyên khởi, vô ngã, và không có thực thể (không). Chân lý này cũng đúng với quy trình ngược lại là "không tức thị sắc" có nghĩa là "các sự vật duyên khởi, không thực thể (không) cũng chính là các hình thái tổ hợp vật chất (sắc) mà thôi. Nói đến vật chất (sắc) là nói đến tính vô ngã, vô thường và duyên khởi (không) của chúng, cho nên nói rằng: "sắc bất dị không." Tương tự theo chiều ngược lại, đề cập đến tính vô ngã, vô thường và duyên khởi của các sự vật (không) cũng chính là nói đến bản chất của vật chất (sắc) không có thực thể, cho nên nói là "không bất dị sắc."

Nói tóm lại, trong Phật giáo, khái niệm "sắc" (ruupa) không thể bị đồng hóa với "có" (atthitaa), và tánh "không" ('s'uunyataa) không thể bị đồng hóa với "không có" (natthitaa). Hai cặp từ này có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Do đó các giải thích mang tính cách lạc dẫn cũng như xuyên tạc Phật giáo của người khác đạo về ý nghĩa chữ "không" như "ngoan không" hay "không có gì" không chỉ là các giải thích sai lầm mà còn thiếu hẳn cơ sở để tồn tại.


Viết tắt
A. = A"nguttara-Nikaaya, I-V, ed. R. Morris, E. Hardy, C. A. F. Rhys Davids. (London: PTS, 1885-1900)
D. = Diighanikaaya, I-III, ed. T. W. Rhys David and J. E. Carpenter, (London: PTS, 1889-1910)
M. = Majjhimanikaaya, I-IV, ed. V. Trenckner, R. Chalmers, Mrs. Rhys Davids. (London: PTS, 1888-1902)
S. = Sa"myuttanikaaya, I-V, ed. L. Féer and Mrs. Rhys Davids. (London: PTS, 1884-1898)
T. = Taishoo Shinshuu Daizookyoo, ed. J. Takakusu. (Japan: 1924-32)
Trích từ "Vạch Trần Âm Mưu Phá Ngầm Phật Giáo"
(Thích Nhật Từ và Trần Chung Ngọc, do Giao Điểm xuất bản năm 2000).

 


Cập nhật: 24-8-2000

Trở về thư mục "Triết học Phật giáo"

Đầu trang