- Lý do Phân phái và
tình hình Phân phái trong đạo Phật
- GS. Minh Chi
A- Tình hình chung
Sự phân phái đã từng xảy ra hai
lần trong thời kỳ Phật còn tại thế. Lần phân phái thứ nhất ở
Kausambi được giải quyết nhanh chóng. Lần phân phái thứ hai, do Devadatta
chủ xướng, dẫn tới thành lập một bộ phái riêng rẽ, mà đến thế kỷ
thứ VII, khi Huyền Trang qua Ấn Độ vẫn còn ghi tiếng vang. Dưới thời
vua Asoka (300 trước CN), Phật giáo tuy đại thịnh, nhưng nội bộ Phật giáo
đã có sự chia rẽ nghiêm trọng, mà Asoka có nói tới trong các trụ đá
ở Kosambi, Sanchi và Sarnath. Trong các trụ đá, Asoka đe dọa sẽ tẩn xuất
khỏi Tăng chúng tất cả những ai chủ xướng chia rẽ và phân phái. Nhưng
cũng dưới thời Asoka đã xảy ra lần phân phái nghiêm trọng và lớn nhất,
khiến tách ra bộ phái Đại chúng bộ (Mahasanghika) chiếm số đông, tán
thành 5 điểm của Mahadeva (Đại Thiên), đối lập với Thượng tọa bộ,
thiểu số và có tư tưởng bảo thủ. Ngay ở Sri Lanka, nơi truyền giáo của
Mahinda cũng không tránh được sự phân phái. Các Tăng sĩ của tu viện lớn
Mahavihara, dưới triều vua Dutthagamani tách khỏi bạn đồng tu mà lập ra
ở Abhayagira một đồ chúng mới, cắt đứt mọi quan hệ với Tăng chúng
ngày trước do chính Mahinda thành lập.
Thời ấy, người ta phân biệt rõ
hai khái niệm: phân phái (samghabheda) và chia rẽ (samgharaji). Sự phân phái xảy
ra khi có ít nhất là 9 Tỷ kheo, sinh hoạt trong một hội chúng tại cùng một
địa phương, nhưng có một số quan điểm khác biệt về Luật hay Pháp, so
với quan điểm truyền thống của hội chúng, và sau một cuộc bỏ phiếu
tổ chức theo đúng Luật, bèn tách khỏi hội chúng đó và tiến hành
riêng rẽ lễ bố tát và một số Phật sự khác. Nếu số Tỷ kheo không
đến 9 người, thì không phải là phân phái mà là chia rẽ.
Chính thể theo một cuộc bầu phiếu
đúng luật mà Đại chúng bộ hình thành và tách khỏi Thượng tọa bộ. Và
sau một thời gian, cả hai bộ phái chính nói trên lại tách ra nhiều bộ
phái khác với những quan điểm khác nhau về một hay một vài điểm trong
Luật và Pháp. Không bao lâu, con số bộ phái lên đến 20, kể cả hai bộ
phái chính Đại chúng bộ và Thượng tọa bộ. Quá trình phân phái nhiều
khi xảy ra một cách tự phát, do địa bàn Phật giáo mở rộng ra khắp đất
nước Ấn Độ, rồi vượt biên giới Ấn Độ, lan rộng nhiều vùng khác
nhau trên thế giới.
Có thể nói, phân phái là hệ quả
không thể tránh của sự phát triển của đạo Phật trong không gian và thời
gian. Không gian mới, thời gian mới khiến nảy sinh ra những nhu cầu mới về
tâm linh, về tri thức trong dân chúng nói chung cũng như trong Phật giáo đồ
nói riêng. Sự phân phái thể hiện yêu cầu cập nhật hóa và bản địa hóa
của Phật giáo. Để khỏi bị lạc hậu so với thời thế, đạo Phật phải
cập nhật hóa, hiện đại hóa. Để tránh khỏi mâu thuẫn, xung đột với
truyền thống văn hóa, tập tục và tín ngưỡng địa phương, Phật giáo bắt
buộc phải bản địa hóa. Hoàn cảnh địa lý, chính trị xã hội, kinh tế
rất đa dạng của các vùng mà Phật giáo mới du nhập vào đặt ra cho những
người lãnh đạo Tăng chúng ở các vùng khác nhau hàng loạt vấn đề mới
phải giải quyết. Thí dụ có những vùng điều kiện sinh hoạt dễ dàng.
Tăng chúng có thể rất đông đảo và sống dựa một chiều vào sự cúng
dường của thập phương; nhưng cũng có những vùng điều kiện sinh hoạt
rất khó khăn, Tăng chúng phải tự tăng gia và nuôi sống mình, hoặc một
phần hoặc toàn bộ. Có những vùng và quốc gia, trong đó chính quyền ủng
hộ Phật giáo. Nhưng có những vùng chính quyền công khai chống đối Phật
giáo. Cũng có những vùng chính quyền giữ thái độ trung lập đối với các
tôn giáo và hệ tín ngưỡng khác nhau. Có những nước, những vùng vốn
là cái nôi của một nền văn minh và văn hóa lâu đời, có tiếng tăm,
như Trung Quốc, v.v... Nhưng cũng có những vùng, dân chúng sống rất lạc hậu,
mù chữ, có thể nói là trong tình trạng dã man, hay bán khai. Có những
vùng có khí hậu rất khắc nghiệt, quanh năm chỉ là băng tuyết, hay là
có địa hình hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn, hay chỉ là sa mạc
cát nóng v.v... Đạo Phật muốn du nhập và tồn tại, phát triển tại những
vùng khác nhau như thế, chắc chắn là không thể giữ nguyên tình trạng
và tổ chức như khi còn ở vùng trù phú của trung châu sông Hằng.
Ở Ấn Độ, thời bấy giờ, tuy có
tình trạng phân phái, thế nhưng giữa các bộ phái, quan hệ vẫn là quan hệ
giữa những người đồng đạo, những người con Phật. Khi Huyền Trang qua
Ấn Độ vào thế kỷ VII Tây lịch, ông có nhận xét là các Tăng sĩ Tiểu
thừa giáo và Đại thừa giáo có thể ở cùng trong một chùa, một tu viện
mà không xảy ra xích mích gì. Chỉ có điều khác là Tăng sĩ Tiểu thừa
thì tụng các kinh sách Tiểu thừa, còn các Tăng sĩ Đại thừa giáo thì tụng
các kinh Đại thừa. Tăng sĩ bất cứ thuộc bộ phái nào, đều được các
chùa và tu viện Phật giáo tiếp đón tử tế lịch sự, theo đúng nghi thức
của Tăng đoàn.
Ngày nay, chúng ta có thể biết các
tình hình bộ phái Phật giáo ở Ấn Độ vào đầu Tây lịch qua các tác
phẩm lịch sử Phật giáo, đặc biệt là cuốn "Samayabhado
paracanacakra" (Dị bộ tôn luận) của Vasumitra, hay là cuốn Kathavathu,
đối với một thời kỳ phân phái sớm hơn.
- B- Về những lý do đặt
tên các bộ phái
- 1. Dựa vào nội dung của quan
điểm giáo lý
như Sthaviravada - Thượng tọa
bộ - tức là bộ phái của các vị Trưởng lão, Thượng tọa. Lokottaravada
- Thuyết xuất thế bộ - là bộ phái thuyết minh những pháp siêu thế,
Ekavya vaharika - Nhất thuyết bộ, Prajnaptivadin - Thuyết giả bộ - phân biệt
giữa thực giáo và giả danh, Sautrantika - Kinh lượng bộ - chỉ thừa nhận
giáo lý chính thống ghi trong kinh tạng.
2. Dựa vào cơ
cấu của Hội chúng thành lập bộ phái
Mahasanghika - Đại chúng bộ khẳng
định tính đại chúng của hội chúng thành lập. Bahusratva (Đa văn) là bộ
phái mà hội chúng thành lập gồm toàn những bậc học rộng đa văn.
Dharmottarya - (Pháp thượng bộ) là bộ phái của những người đề cao giáo
pháp. Bhadrayaniya - Hiền vị bộ, bộ phái của các bậc trí giả v.v...
3. Dựa vào địa
bàn hoạt động của bộ phái
Haimavata (Tuyết sơn bộ) địa bàn
hoạt động là vùng núi Tuyết Sơn (Himalaya), Caityasaila (Chế đa sơn bộ) có
địa bàn hoạt động tại vùng núi Kaitya (ở xứ Andhra) Aparasaila - Tây sơn
trụ bộ, có địa bàn hoạt động ở phía Tây dãy núi (xứ Andhra).
4. Dựa vào
tên vị cao tăng sáng lập ra bộ pháI
Vatsiputrya - (Độc tử bộ), dựa vào
tên vị A la hán có tên như vậy. Mahisasaka (Hóa địa bộ), tên một người
Bà la môn sáng lập có tên như vậy. Dharmaguptaka (Pháp tạng bộ) được sáng
lập bởi một đệ tử của Maudgalyayana, tên là Dharmapupta. Và Sammatiya
(Chánh lượng bộ) do Sammita sáng lập v.v...
C- Số bộ
phái thật sự có bao nhiêu?
Lịch sử hình thành các bộ phái
đã trải qua nhiều năm, thì các sử gia Ấn Độ cũng như Trung Hoa mới bắt
đầu công việc thu thập tài liệu để viết về lịch sử truyền thừa các
bộ phái, cũng như nội dung chủ thuyết của các bộ phái. Vì thiếu tài
liệu, cho nên cái gọi là sử liệu các bộ phái, do các sử gia Ấn và
Trung Hoa viết không tránh khỏi có những phần hư cấu. Các sử gia chú trọng
nhiều tới lịch sử truyền thừa của các bộ phái, lịch sử đó do
chính người của các bộ phái viết, do đó mà tùy theo bộ phái, lịch sử
truyền thừa có điểm khác nhau. Vì ai cũng muốn nói tốt cho bộ phái
mình.
a/ Bảng hai bộ
phái chính của sử gia Tây Tạng Taranatha
Trong cuốn lịch sử Phật giáo
Ấn Độ, xuất bản 1968, Taranatha công bố bảng hai bộ phái chính, mà
ông cho là do Thượng tọa bộ soạn:
A- Mahasanghika: phân thành 8 bộ:
1. Nulamahasanghika;
2. Ekavyavaharika;
3. Lokottaravadin (Thuyết xuất thế bộ).
4. Bahusrutya (Đa văn bộ);
5. Prajnativadin (Thuyết giả bộ);
6. Caitika (Chế đa sơn bộ);
7. Purvasaila (Đông sơn trụ bộ);
8. Aparasaila (Tây sơn trụ bộ).
B- Sthavira: phân thành 10 bộ:
1. Mulasthavira;
2. Sarvastivada (Nhất thiết hữu bộ);
3. Vatsiputrya (Độc tử bộ);
4. Dharmottarya (Pháp thượng bộ);
5. Bhadrayaniya (Hiền vị bộ);
6. Sammatiya (Chánh lượng bộ);
7. Mahisasaka (Hóa địa bộ);
8. Dharmaguptaka (Pháp tạng bộ);
9. Suvarsaka (Ấm quang bộ);
10. Uttariya (Mật lâm bộ).
Bảng phân phái trên đây mà
Taranatha cho là thuộc bộ phái Sthavira (hay Theravada), trùng hợp với các bảng
của Vasumitra được La Thập và Chân Đế (Paramartha) dịch ra chữ Hán, với
đầu đề Dị bộ tôn luận. Bộ luận của Vasumitra cũng được Huyền
Trang dịch. Bản Hán dịch của Huyền Trang được Masuda dịch ra tiếng Anh:
Origin and Doctrines of Buddhist Schools (Asia Major II 1925, p.I-78, cũng được
A.Barreau dịch ra tiếng Pháp Trois traités sur les sectes bouddhiques. J.A 1954
P.235-266).
Đệ tử của Huyền Trang là Khuy Cơ
có viết cuốn "Dị bộ tôn luận thuật ký" là bản sớ giải về
bản dịch của Huyền Trang, được viết theo những chỉ dẫn của Huyền
Trang. Theo bản dịch của Huyền Trang thì Vadumitra phân chia các bộ phái như
sau:
b. Bảng
Vadumitra
A- Mahasanghika:
1. Ehavyavaharika (Nhất thuyết bộ),
2. Lokottaravadin (Thuyết xuất thế bộ),
3. Kaukutika (Kê dẫn bộ),
4. Bahusrutya (Đa văn bộ),
5. Prajnativa (Thuyết giả bộ),
6. Caityasala (Chế đa sơn bộ),
7. Aparasaila (Tây sơn trụ bộ),
8. Uttarasaila (Đông sơn trụ bộ).
B- Sthaviravada:
1. Sarvastivada hay là Hetuvada, phân phái thành,
2. Vataiputrya (độc tử bộ),
3. Dharmottariya (Pháp thượng bộ),
4. Bhadrayaniya (Hiền vị bộ),
5.Channagarika (hay Sannagarika) (Mật lâm bộ),
6. Mahisasaka (Hóa địa bộ),
7. Dharmaguptaka (Pháp tạng bộ),
8. Kasyapiya hay Sauvaraika (Ấm quang bộ),
9. Sautrantika hay Samkrantivadin (Kinh lượng bộ),
10. Mulasanrvastivada hay Haimavata (Tuyết sơn bộ).
Cũng theo Vasumitra, chính thuyết năm
điểm do Mahadeva (Đại thiên) đề xuất vào năm 116 sau Niết bàn đã dẫn
tới sự phân phái giữa Thượng tọa bộ (Sthavira) và Đại chúng bộ
(Mahasanghika). Đại chúng bộ rút về phía Bắc thành Vương xá (Rajagrha),
và đến thế kỷ II sau Niết bàn thì chia thành 4 bộ phái: Ekavyavaharika (Nhất
thuyết bộ), Lokottaravadin (Thuyết xuất thế bộ), Kaukuttika (Kê dẫn bộ)
và Bahusrutya (Đa văn bộ). Bốn bộ phái này đều tôn luận chủ Yajnava kya
làm thầy. Đến thế kỷ III sau Niết bàn, một cuộc chia rẽ mới dẫn tới
thành lập tại vùng núi Andhra bộ phái Caityasaila (Chế đa sơn bộ), và bộ
phái này lại chia làm hai Tây sơn trụ bộ và Đông sơn trụ bộ.
Trong thời gian hai thế kỷ sau Niết
bàn, Thượng tọa bộ vẫn giữ được sự thống nhất nội bộ dưới sự
hướng dẫn của các vị Thượng thủ tiếng tăm như các Ngài Kasyapa (Ca Diếp)
Ananda (Anan), Madhyantika, Sanavasin, Upagupta, Purna, Mecaka và Katyayaniputra. Sau khi
Ngài Katyayaniputra tịch, vào đầu thế kỷ III sau Niết bàn, thì Thượng tọa
bộ phân làm hai nhánh:
1). Nhánh các vị trưởng lão, trung
thành với truyền thống Kinh tạng, rút về vùng dãy núi Tuyết Sơn và lấy
tên là Tuyết Sơn bộ (Haimavata) và
2). là nhóm theo luận chủ
Katyayaniputra, chủ trương phát triển Luận tạng Abhidharma, và có những đổi
mới được phái Thượng tọa bộ chính thống xem là nguy hiểm. Nhóm này
mang tên Sarvastivadin (Nhất thiết hữu bộ).
Trong thế kỷ III và vào đầu thế
kỷ IV sau Niết bàn, thì Hữu bộ Sarvastivada sinh ra bốn bộ phái mới là
Vatsiputrya (Độc tử bộ) Mahisasaka (Hóa địa bộ), Kasyapiya (Ấm quang bộ)
và Sautrantika (Kinh lượng bộ). Thành lập bộ phái Độc tử bộ là một
Bà la môn tên là Vataiputrya, học trò của Rabula. Chính Rahula đã truyền bộ
luận A Tỳ Đàm của Xá lợi Phất (Sariputra abhdharma Vatsiputrya. Sau đó, từ
Độc tử bộ lại nảy sinh ra bốn bộ phái mới là Dharmottarya (Pháp thượng
bộ), Bhadrayaniya (Hiền vị bộ), Sammatiya (Chánh lượng bộ) và Channagirika
(Mật Lâm bộ).
Bộ phái Mahisasaka được thành lập
bởi một Bà la môn, trước khi xuất gia có làm quan chức về địa bạ, địa
chính, sau đó xuất gia, chứng quả A la hán. Một bộ phái mới,
Dharmaguptaka (Pháp tạng bộ) sinh ra từ bộ phái Mahisasaka (Hóa địa bộ).
Còn bộ phái Kasyapiya hay Sauvarsaka (Ấm
quang bộ) là do A la hán Suvarsaka Kasyapiya thành lập.
Bộ phái Kinh lượng bộ
(Sautrantika) theo tên gọi của nó cho biết, chỉ công nhận tính chính thống
của Kinh tạng, do Phật đích thân thuyết giảng mà thôi.
c. Bảng phân
phái của Đại chúng bộ
Bảng này thuộc Đại chúng bộ, nhưng
không rõ tác giả là ai. Bản này được dịch ra chữ Hán, giữa các năm
317 và 420.
I. Đại chúng bộ:
1.Ekavyavahara (Nhất thuyết bộ)
2. Lokottara (Thuyết xuất thế bộ)
3. Kukukklika (Kê dẫn bộ)
4. Bahusrutaka (Đa văn bộ)
5. Prajnativadin (Thuyết giả bộ)
6. Mahadeva - thế kỷ III sau Niết bàn.
7. Caitika (Caitra) (Chế đa sơn bộ)
8. Matara (Uttarasaila)
II. Thượng tọa bộ:
1. Sarvastivada (Hữu bộ)
2. Mahisasaka (Hóa địa)
3. Dharmaguptaka (Pháp tạng)
4. Suvarsa (Ấm quang)
5. Vatsiputrya (Độc tử)
6. Dharmottarika (Pháp thượng)
7. Shadrayanya (Hiền vị)
8. Sammatiya (Chánh lượng)
9. Sannagarika (lâm sơn bộ)
10. Kasyapiya
11. Sutravadin
12. Samkrantika (Kinh lượng bộ)
d/ Bảng phân
phái, lập ra từ các kinh sách chữ Pàli
Trong tư liệu dẫn chứng, có thể
kể: Dipavamsa (đảo sử), Mahavamsa, cuốn Kathavattu v.v...
I. Mahasanghikas:
1. Cokulika
2. Pannati
3. Bahussutaka hay Bahulika
4. Cetya
5. Bkavyoharika
II. Theravada:
1. Mahimsasaka
2. Sabbatthivada
3. Kassapiya
4. Samhantika
5. Suttavada
6. Dhammaguttika.
7. Vajjiputtaka
8. Dhammuttarya
9. Bhadrayanika
10. Chandagarika
11. Sammitya
Về thời điểm phân phái, các tài
liệu Tích Lan cho biết:
1. Trong thế kỷ đầu tiên sau Niết
bàn (486-386), hiện tượng phân phái chưa xảy ra.
2. Trong thế kỷ II, tức là giữa
Đại hội kiết tập lần thứ hai, (386 trước CN hay là 100 sau NB), và Đại
hội Kiết tập lần thứ ba (256 trước CN hay 236 sau NB) có 18 bộ phái xuất
hiện.
3. Trong thế kỷ III sau NB, tức từ
286 đến 186 trước CN, có 6 bộ phái mới xuất hiện và phát triển ở Ấn
Độ: Hemavata, Rajagirya, Siddhatika, Pubbaseliya Aparaseliya và Vajiriya.
Có thể đây là sáu bộ phái
nhánh, tách khỏi Đại chúng bộ năm 255 sau NB (236 trước CN), rồi sau đó
tạo thành ba bộ phái mới là: Vetulya, Andhaka và Anya-Mahasamghika.
4. Năm 236 sau NB, tức 250 trước CN,
Thượng tọa bộ du nhập vào Xây Lan, dưới sự chỉ đạo của Mahinda. Đại
biểu của Thượng tọa bộ ở Xây Lan là các du sĩ thuộc tu viện Mahavira,
kể cả tu viện mới Mahameghavana, do vua Devanampiyatissa tặng họ. Trong khuôn
viên của tu viện mới này có bảo tháp Thuparama, do vua Devanampiyatissa xây,
và cây bồ đề lớn lên từ một nhánh của cây bồ đề ở Caya, do em gái
của Mahinda là Sanghamitta đem sang. Có phòng làm lễ bố tát (Uposatha) do vua
Dutthagamani xây cũng như bảo tháp nổi tiếng Mahathupa hay là Dagoba Ruvanveli
cũng do vua này tạo dựng. Hiện nay các tu sĩ thuộc tu viện Mahavira cũng tự
xem mình là đại biểu uy quyền nhất của Kinh và Luật tạng Phật giáo
nguyên thủy.
Thế nhưng, ngay ở Xây Lan, sự thống
nhất của Thượng tọa bộ cũng không giữ vững được.
Dưới triều vua Vattagamani, tức
năm 454 sau NB hay năm 32 trước CN, một số tu sĩ tách khỏi bạn đồng tu của
mình ở tu viện Mahavira và đến tu viện Abhayagira, phía Bắc thủ đô
Anuradhapura, lập ra bộ phái Dhammarucika.
Dưới triều vua Vcharikatissa, 746-768
sau NB, tức 260-262 TL, một nhánh Đại thừa gọi là Vetullavada xuất hiện
ở Xây Lan, gặp sự chống đối của Kapila, một Thượng thư trong triều,
nhánh Đại thừa này vẫn còn một số Tăng sĩ trung thành trong bộ phái
Dhammarucika.
Dưới triều vua Gothakabhaaya (785-798
sau NB, tức 299-317 TL) một số Tăng sĩ thuộc bộ phái Dhamamrucika tách ra
sang ở chùa Dakhinavihara, lập ra bộ phái mới gọi là Sangaliya. Sự phân
phái này do Thượng tọa Sagala chủ xướng xảy ra vào năm 795 sau Niết bàn.
Dưới triều vua Mahasena (322-349 TL)
bộ phái mới này chiếm tu viện mới Jevatana ở Anuradhapura. Từ đó, bộ
phái đổi tên là Jetavaniya.
e/ Bảng của
Manjusripariprcchha
Bảng phân phái này được dịch ra
chữ Hán bởi Sanghabhara, năm 518.
I. Mahasanghika:
- Ekavyavaharika
- Lokottaravada
- Kaukulika
- Bahusrutya
- Caitika
- Purvasaila (Tây sơn trụ)
- Uttarasaila
II. Sthavira:
- Sarvastivada
- Haimavata
- Vatsiputrya
- Dharmottariya
- Bhadrayarmya
- Sammatiya
- Sangdagatika
- Mahisasaka
- Dharmaguptaka
- Kasyapiya
- Sautrantika
g/ Bảng phân
phái của Bhavya
Shavya có thể là tu sĩ kiêm nhà văn
lớn Bhavaviveka, sống vào hậu bán thế kỷ VI, là người sáng lập ra
nhánh Svatantrika - Sautrantika của trường phái Trung quán. Bảng này mở đầu
bằng lời ghi nhận cuộc phân phái lớn thứ nhất xảy ra dưới triều vua
Asoka, khoảng 160 năm sau Niết bàn, dẫn tới thành lập hai bộ phái chính
là Sthavira và Mahasanghika.
I. Mahasanghika:
- Malamahasanghika
- Ekavyavaharika
- Lokottaravadin
- Bahusrutya
- Prajnaptivadin
- Caitika
- Prvasaila
- Aparasaila
II. Sthavira:
- Mulasthavira hay là Haimavata
- Sarvastivada hay là Vibhajyavadin, Hetuvadin, Muruntaka.
- Vatsiputrya
- Dharmottariya
- Bhadrayaniya
- Sammatiya cũng gọi là Avantaka hay Kurukulla
- Mahisasaka
- Dharmaguptaka hay Kasyapiya
- Uttariya hay Samkrantivadin.
h/ Bảng của
bộ phái Sammatiya
I. Mahasanghika
- Ekavyavaharika
- Gokulika
- Bahusrutya
- Prajnaptivadin
- Caitika
II. Sthavira
- Malasthavira
- Sarvastivadin
- Vibhajyavadin
- Mahasisaka
- Dharmaguptaka
- Tamrasatiya
- Kasyapiya
- Samkrantivadin
- Vassiputrya
- Mahagirya
- Dharmattariya
- Bhadrayaniya
- Sannagarika
- Sammatiya
- Haimavata.
i/ Bảng phân
phái của Đại chúng bộ, theo sử gia Tây Tạng Taranatha
I. Sthavira
- Sarvastivadin
- Mulasarvastivadin
- Sautrantika
- Vatsiputriya
- Sammatiya
- Dharmottariya
- Bhadrayaniya
- Sannagarika.
II. Mahasanghika:
- Mulamahassanghika
- Purvasaila
- Aparasaila
- Pajagirika
- Haimavata
- Siddharthika
- Cokulika
III. Vibhajyavadin:
- Mahisasaka
- Kasyakiya
- Dharmaguptaka
- Tamrasatiya.
Bảng phân phái này chắc là ra đời
muộn, cho nên có ghi thêm nhiều bộ phái mới. Thí dụ, bộ phái
Tamrasatiya, còn gọi là Tamrasarniya chính là các tu sĩ ở vùng Xây Lan
Taprobane, bao gồm nhiều luậạn sư nổi tiếng với các chủ thuyết từng
được các luận sư Vasubandhu và Asanga bàn tới.
k/ Bảng năm bộ
phái
Không rõ tác giả lập ra bảng 5 bộ
phái. Nhưng hình như năm bộ phái này là nổi tiếng nhất và còn tồn tại
khi Huyền Trang tới Ấn Độ vào thế kỷ VII. Năm 630, khi Huyền Trang tới
Uddiyana, thì có được năm bộ Luật, thuộc năm bộ phái: Dharmaguptaka,
Mahisasaka, Kasyapiya, Sarvastivada và Mahasanghika. Ở Trung Quốc vào năm 587, có
bản dịch Hán văn của 5 tiểu sử Phật Thích Ca, nhưng khác biệt nhau và
thuộc về năm bộ phái khác nhau: Mahasanghika, Sarvastivada, Kasyapiya,
Dharmaguptaka và Mahisasaka.
Sau đây là bảng năm bộ phái
chính cùng với những bộ phái nhánh:
I. - Sarvastivada
- Vatsiputriya
- Dharmottariya
- Bhadrayaniya
- Sannagarika.
II. - Mahisasaka
III. - Kasyapiya
- Samkrantika
- Sammatiya
IV. - Mahasanghika
- Ekavyavaharika
- Bahusrutya
- Prajnaptinvada
- Caitika
- Aparasaila
- Uttarasaila
V. - Dharmaguptaka.
l- Nhận xét của
Huyền Trang về tình trạng các bộ phái
Trong cuốn Tây du ký, Huyền
Trang mô tả ở Ấn Độ vào thời ông đến, có các loại Tỷ kheo như sau:
1. Số Tỷ kheo không thuộc bộ
phái nào nhất định. Họ sống thành những nhóm nhỏ.
2. Tỷ kheo theo Tiểu thừa giáo, nhưng
thuộc bộ phái nào không rõ.
3. Các Tỷ kheo thuộc Đại chúng bộ
và Thuyết xuất thế bộ (Lokottavaradin).
4. Các Tỷ kheo thuộc Hữu bộ
(Sarvastivadin).
5. Các Tỷ kheo Thượng tọa bộ và
những Tỷ kheo Trưởng lão, chịu ảnh hưởng của tư tưởng Đại thừa.
6. Tỷ kheo thuộc bộ phái Sammitiya.
7. Những Tỷ kheo thuộc Đại thừa
giáo, sống tập trung đông đảo ở các vùng Uddhiyana, Gharni, Magadha và miền
Nam Kosala.
8. Số Tỷ kheo Đại thừa giáo, nhưng
sống trong những tu viện trước đây thuộc Tiểu thừa, do đó, họ cũng
nghiên cứu Kinh và Luật thuộc Tiểu thừa.
Theo các số liệu của Huyền Trang,
thì ở Ấn Độ cũng như ở Trung Á, số Tỷ kheo theo Đại thừa và Tiểu
thừa xấp xỉ nhau, không chênh lệch mấy: khoảng 134.000 Tỷ kheo Tiểu thừa
đối lại với 119.430 Tỷ kheo Đại thừa giáo.
m/ Bảng bốn
bộ phái chính của Nghĩa Tịnh
Một thế kỷ sau Huyền Trang, Pháp
sư Nghĩa Tịnh đi thăm Ấn Độ và các đảo vùng Nam Hải. Ông cho biết
thêm những chi tiết sau về tình hình các bộ phái:
Nói chung chỉ còn lại bốn bộ
phái chính:
1- Bộ phái Đại chúng bộ phân
thành năm bộ phái nhỏ. Mỗi tạng của ba tạng của bộ phái này, gồm
100.000 câu kệ. Tổng cộng ba tạng có 300.000 câu kệ.
2- Bộ phái Sthavira phân thành ba bộ
phái nhánh.
3- Bộ phái Hữu bộ phân thành bốn
bộ phái nhánh: Dharmaguptaka, Mahisasaka, Kasyapiya...
4- Bộ phái Sammitya chia thành bốn bộ
phái nhánh.
n/ Bảng của Vinitadeva thuộc Hữu bộ:
I. Mahasanghika:
- Purvasaila
- Aparasaila
- Haimavaita
- Lokottaravadin
- Prajnajtivadin.
II. Sarvastivadin:
- Mulasarvastivada
- Kasyapiya
- Mahisasaka
- Dharmaguptaka
- Bahusrutya
- Tamrasatiya
- Vibhagyavadin.
III. Sthavira:
- Jevataniya
- Abhayagirivasin
- Mahaviharavasin.
IV. Sammitiya:
- Kaurukullaka
- Avantaka
- Vatsiputrya.
Trên đây là tình hình phân phái
qua các thời kỳ. Trong một bài sau (*) chúng ta sẽ nghiên cứu chủ thuyết
khác biệt của các bộ phái./.
(*) "Bàn
về chủ thuyết các bộ phái." Minh Chi
http://www.buddhismtoday.com/viet/triet/028-lydo.htm