- Vấn Đề Nhân Vị
trong Đạo Phật
- Thạc Đức
Nói "nhân vị"
tức là chìu theo một danh từ của thời đại. Đáng lẽ ra, phải nói
"vấn đề địa vị con người" trong đạo Phật.
Bởi vì, "nhân vị" là gì?
Chúng tôi tưởng không cần định nghĩa một cách rắc rối lôi thôi; cứ
theo cái hiểu của đa số hiện thời thì nhân vị tức là "con người",
hoặc đầy đủ hơn nữa thì là "phẩm vị của con người", hay là
"địa vị của con người".
Ai cũng công nhận rằng trong các
loài sinh vật trên mặt trái đất, con người là một sinh vật tương đối
hoàn hảo hơn cả về phương diện tổ chức cơ thể cũng như về phương
diện khả năng tinh thần.
Sinh hoạt tâm linh của con người
phong phú hơn mọi vật. Khả năng ý thức, khả năng tự chủ và khả năng
phán đoán của con người đã nâng con người cao hơn mọi vật, và vì thế,
con người có một phẩm vị đặt biệt, một địa vị độc tôn. Con người
có nhiều điều kiện hơn hết để tiến hoá, tự do tiến hóa, tự do
phát triển đến tận cùng những khả năng tốt đẹp của chính mình. Nếu
con người thiếu những điều kiện ấy thì con người không còn là con người
nữa, mà con người sẽ chẳng hơn gì mọi loài khác. Vì thế, nếu con người
bị cản trở trên bước đường tiến hóa, nếu con người bị tước mất
quyền tự do phán đoán, tự do suy tưởng, tự do quyết trạch, tóm lại, bị
tước mất quyền tự do tiến hóa, tức là nhân vị của con người bị
khinh thị, chà đạp, vì con người bây giờ chẳng còn có gì để mà tự
bảo rằng mình là "tối linh ư vạn vật" nữa.
Vậy, vấn đề nhân vị chẳng qua
chỉ là vấn đề địa vị của con người, vấn đề tự do.Về vấn đề
nầy, đạo Phật quan niệm như thế nào?
Đạo Phật chủ trương rằng tất
cả muôn loài đều có Phật tính, nghĩa là đều có khả năng thành Phật.
Bởi vì chúng sinh tuy lượng số vô lượng, nhưng loài nào cũng mang nơi mình
yếu tố tròn đầy sáng suốt của bản thể. Một ngày mai, vô minh diệt hết,
bản tính thanh tịnh sáng suốt hiển hiện, chúng sinh có thể thành Phật.
Đứng về phương diện nầy, nghĩa là đứng trước vấn đề Phật tính,
tất cả mọi loài đều bình đẳng, tuyệt đối bình đẳng, không có
loài nào hơn, không có loài nào kém. Luận Đại Thừa Khởi Tín có câu:
"Đứng về phương diện bản thể, tất cả các pháp từ xưa đến
nay, lìa các tướng nơi lời nói, nơi chữ nghĩa, nơi tưởng tượng, tuyệt
đối bình đẳng, không có thay đổi, không có hư hoại, cùng chung một bản
thể sáng suốt của nhất tâm, nên gọi là chân như" (nhất thiết
chư Pháp, tùng bản dĩ lai, ly ngôn thuyết tướng, ly danh tự tướng, ly tâm
duyên tướng, tất cánh bình đẳng, vô hữu biến dị, bất khả phá hoại,
duy thị nhất tâm, cố danh chân như).
Tuy nhiên đứng về phương diện
nghiệp quả, mọi chúng sinh đều có một căn thân sinh hoạt trong một
hoàn cảnh khác nhau. Tùy theo nghiệp nhân mà mỗi loài chúng sinh cảm thọ
một thân ngũ uẩn thô phù hay tinh tế. Ở các hạ đẳng động vật, tổ
chức cơ thể không được tinh vi bằng tổ chức cơ thể của các thượng
đẳng động vật. Các tác dụng tâm lý (thọ, tưởng, hành, thức) vì căn
cứ trên tổ chức cơ thể ít tinh vi ấy nên phát hiện một cách yếu ớt,
hoặc nói cho đúng hơn, một cách thô sơ.
Khả năng tinh thần cũng có thể tỷ
dụ như điện vậy. Máy nhỏ và yếu thì chỉ có thể phát ra điện yếu.
Bóng đèn nhỏ thì ánh sáng mờ nhạt, nếu bóng đèn lớn, ánh sáng sẽ rực
rỡ hơn. Thân căn của một chúng sinh vốn là một trong những tăng thượng
duyên (điều kiện) cho sự phát hiện tác dụng tâm lý vậy.
Ở địa hạt con người, ta cũng có
thể thấy được sự thực ấy: một tinh thần sảng khoái chỉ có thể
phát hiện trong một thân thể khỏe mạnh (nhưng không phải một thân thể
khỏe mạnh bao giờ cũng có thể làm phát hiện một tinh thần sảng khoái:
định lý đảo nhiều lúc không đúng). Một tâm hồn bạc nhược lắm khi
chỉ do một thân xác yếu đau.
Vậy nhờ một tổ chức thân căn
tinh tế, một khả năng tinh thần dồi dào mạnh mẽ hơn mọi loài, mà con
người có nhiều điều kiện hơn hết để tiến hóa, để mà hoạt động
tự giải phóng mình. Địa vị độc tôn của con người trên trái đất nầy
chính là do nghiệp nhân của con người đã gây từ trưóc, chứ không phải
do ân sủng của một đấng thiêng liêng nào, lại càng không phải vì con
người là "hình ảnh" của đấng thiêng liêng ấy.
Nói rằng con người có thể thành
Phật, thì được. Nhưng nếu nói rằng chỉ có con người mới có thể
thành Phật thì sai. Bởi vì không phải chỉ có con người mới có Phật
tính. Mọi loài đều có Phật tính cả, cho nên mọi loài đều sẽ thành
Phật. Con người vì có nhiều điều kiện thuận lợi nên có thể thành Phật
mau hơn mà thôi. Chứ không phải chỉ con người mới có "ân sủng"
của Phật. Lại càng không phải chỉ có con ngưới mới có tác dụng tinh
thần, mới có "linh hồn".
Tại sao khi thấy mọi loài khác, với
tổ chức cơ thể ít tinh vi hơn, với tác dụng tinh thần ít sắc bén hơn,
người ta vội cho chúng là không có "linh hồn" nhỉ? (Ở đây,
chúng tôi dùng chữ linh hồn với nghĩa: những tác dụng tinh thần có biến
chuyển).
Tại sao cho rằng chỉ có con người
mới có "lý trí" thôi, còn bao nhiêu loại khác thì chỉ sống với
bản năng? Ai lại chẳng thấy có những người đặc óc, ngu si, sống với
"bản năng" còn hơn một vài loài vật, và có những con vật lanh lẹ
khôn ngoan sống với "ý thức" còn hơn một vài hạng người?
Cho nên đạo Phật chỉ nhận rằng
con người hơn mọi loài nhờ có nhiều điều kiện sinh lý và tâm lý thuận
lợi cho sự tiến hóa chứ không phải chỉ loài người mới có thể tiến
hóa thành Phật. Xác nhận địa vị thuận lợi của con người, đức Phật
đã từng nói trong kinh Hoa Nghiêm:
"Nhân thị tối thắng"
(Con người là hơn cả). Trong nhiều kinh điển, ngài luôn luôn lặp lại
câu này để khuyên các đệ tử nên lợi dụng những điều kiện thuận
tiện mà con người sẵn có để tiến bước mau lẹ trên đường giải thoát:
"Nhất thất nhân thân, vạn kiếp nan phục" (Một phen mất
thân người, muôn kiếp khó trở lại).
Và:
"Nhân thân nan đắc, Phật pháp
nan văn". (Làm được thân người là khó, và được nghe Phật pháp
cũng khó).
Trong bộ Dị Bộ Tôn Luân Luận có
câu: "Tất cả những kết quả tốt đẹp giác ngộ đều thực hiện
bởi con người". Như thế, con người có năng lực nhiều hơn cả
trong mọi loài. Lại trong kinh Ưu Bà Tắc cũng có một câu ca ngợi hoàn cảnh
thuận lợi của con người: "Trong mọi loài, con người đủ diều kiện
hơn, như về trí khôn ngoan chẳng hạn. Hơn nữa, hoàn cảnh con người không
quá khổ như địa ngục, không quá vui như thiên đường và không ngu si như
thú vật".
Tuy nhiên tất cả mọi sự tán
dương ấy chỉ là để cho con người ý thức được khả năng mình, giá
trị mình, chứ không phải để cho con người tự hào tự thị, rằng mình
là hơn hết. Không! nếu con người không biết sử dụng khả năng sẵn có
để tiến hóa đến Chân Mỹ Thiện, nếu con người cứ chạy theo dục
vọng kém hèn làm cho thân thể và tinh thần mình mỗi ngày một tiều tụy,
ngu si, phá sản, ấy chính là con người tự kéo mình xuống ngang hàng với
loài cầm thú. Chẳng những thế, một mai kia nghiệp nhân xấu xa sẽ lại
đưa con người đến địa vị thực của loài cầm thú nữa. Vậy thì dù
con người có còn sinh hoạt với xác thân người đi nữa thì cũng không
còn đáng gọi là người, vì con người đã giết chết nhân vị mình, đã
không muốn ngồi ở "địa vị" của mình nữa.
Với địa vị tối thắng của mình,
con người phải:
1. Đừng làm phá sản những khả năng
tốt đẹp sẵn có;
2. Phát triển những khả năng tốt đẹp ấy;
3. Tin tưởng vào những khả năng của chính mình và đừng trông cậy vào
những thế lực vu vơ bên ngoài;
4. Sử dụng những khả năng tốt đẹp ấy để tiến mạnh trên bước
đường giải phóng;
1.- Đừng làm phá sản những
khả năng tốt đẹp sẳn có.-- Những khả năng nầy mà phát hiện
được là do nghiệp nhân tốt đẹp của con người từ quá khứ. Đó là
những phương tiện quý báu để con người có thể tiến bộ. Chúng cần
thiết cho sự giải thoát của con người cũng như vốn liếng cần thiết
cho nhà buôn, dầu xăng cần thiết cho máy móc, và mầu sắc cần thiết cho
nhà họa sĩ. Mất chúng là mất tất cả. Mất chúng tức là trở về ngang
hàng với mọi loài thú vật khác, là mất địa vị con người, mất tất
cả những gì mà con người có thể tự hào là "tối linh ư vạn vật".
Điều kiện để giữ gìn nó là phải giữ mãi thân người. Mà giữ mãi
thân người (với tất cả ý nghĩa của tiếng nầy) thì không có phương
tiện nào hơn là giữ mãi nhân phẩm. Con người không được phóng túng,
buông lung theo ngũ dục (tiền tài, sắc dục, hư danh, ham ăn và ham ngủ). Năm
thứ ấy hạ thấp con người xuống, lôi kéo con người xuống ngang hàng với
mọi loài và có khi tệ hơn mọi loài là khác nữa. Năm thứ ấy là nguyên
nhân độc hại làm cho con người phá sản. Thân xác ta, vì rượu chè, vì
sắc dục, vì bôn ba danh lợi, vì ham ăn ham ngủ sẻ trở nên bệ rạc, đần
độn, tối tăm, nặng nề. Tinh thần ta cũng vì những thứ ấy mà trở
nên đê hèn, thấp kém, si mê, cuồng loạn. Muốn cho con người của ta không
phá sản, ta phải xa lánh dục vọng. Trong kinh điển, đức Phật có dạy
"Muốn giữ được thân người, cần phải tu tập pháp ngũ giới và thập
thiện nghiệp". Vậy ngũ giới và thập thiện nghiệp là gì?
Ngũ giới là năm điều răn cấm:
Không sát hại sinh mạng.
Không trộm cướp của kẻ khác.
Không tà dâm, đa dục.
Không uống rượu say sưa.
Không nói dối, xảo trá, nói hai lưỡi, nói thêu dệt.
Thập thiện nghiệp là gì? Là mười
nghiệp lành, gồm trong ba loại: hành vi, ngôn ngữ, tư tưởng:
Về hành vi có ba nghiệp thiện:
Không sát hại.
Không trộm cướp.
Không tà dâm.
Về ngôn ngữ, có bốn nghiệp thiện:
Không nói dối.
Không nói thêu dệt.
Không nói hai lưỡi.
Không nói hung dữ.
Về tư tưởng, có ba nghiệp thiện:
Không có tư tưởng tật đố, hiềm
khích.
Không có tư tưởng sân hận, oán thù.
Không có tư tưởng hắc ám, si mê.
Đó là những sợi dây chắc chắn
nhất để ràng buộc con người không cho rơi xuống ngang hàng thú loại, địa
ngục và ngạ quỷ. Giữ được thân người thì có thể bảo tồn mãi những
khả năng tốt đẹp của con người, những khả năng có thể đưa con người
lên các nấc thang giải thoát, tiến bộ. Nêu cao giá trị con người, đức
Phật chỉ muốn con người thấy được những khả năng quí giá đó và đừng
làm phá sản những khả năng ấy mà thôi.
2.- Phát triển những khả năng
tốt đẹp ấy.-- Đã không làm phá sản chúng, con người lại còn
phải làm cho chúng phát triển nữa. Với những phương pháp tập luyện thể
xác và bồi đắp tinh thần, con người có thể phát triển chúng đến một
mức thật tốt đẹp. Nhờ đó, những khả năng kia có thể giúp con người
tiến hóa mau lẹ, dễ dàng. Một đời sống tự do mới có thể cho con người
một hoàn cảnh tốt đẹp để tự đào luyện. Trong một cuộc sống mà
con người phải hoạt động như một cái máy mà suy tưởng theo một chìu
hướng nhất định, thì những khả năng tốt đẹp của con người rất dễ
bị ngăn cản và có thể bị tiêu hoại. Sống trong một xã hội thiếu tự
do, con người sẽ bị cằn cỗi. Bởi vì một xã hội độc tài bao giờ cũng
bắt buộc con người nói và làm theo một hướng nhất định. Những hành
vi nào, những ngôn ngữ nào trái với đường lối hiện tại sẽ bị cấm
chỉ, và con người chủ động của các hành vi và ngôn ngữ ấy sẽ bị
trừng phạt, tiêu hủy. Đã đành không được nói, không được làm, nhưng
con người vẫn có quyền suy tưởng. Nhưng suy tưởng mà không thể nói và
làm theo sự suy tưởng của mình là một điều đau khổ cho con người. Vì
thế, con người sẽ rất sợ đời sống suy tưởng, đời sống nội hướng,
và phải đi tìm sự khuây lãng, trong chỗ đông người, ở một quán cà
phê, nơi một cuộc hội họp chẳng hạn. Con người sẽ không chịu nổi
đời sống tâm linh nội hướng và dần dần đâm ra sợ hãi sự cô độc
lẻ loi. Con người tìm đến giữa xã hội và biến mình thành một bánh xe
vô tri trong cái toàn thể máy móc vô tri vô giác ấy. Và vì thế, những khả
năng tốt đẹp của con người bị kìm hãm, bị tiêu diệt.
Vậy con người cần phải sống tự
do. Tự do đây không có nghĩa là tự do trốn tránh bổn phận, tự do chạy
theo ngũ dục, mà là tự do suy tưởng, hành động theo hướng chân thiện mỹ,
tự do phát triển và nâng cao hơn nữa giá trị chân thật mà con người có
thể đạt đến được.
3.- Tin tưởng ở khả năng tốt
đẹp của chính mình và đừng trông cậy vào những thế lực vu vơ bên
ngoài.-- Đức Phật đã từng dạy: "Hãy tự thắp đuốc lên
mà đi". Như thế, đạo Phật xác nhận rằng con người đã có đủ
khả năng tiến đến giải thoát, không cần nương nhờ vào đâu nữa. Phải
tin tưởng mạnh mẽ vào những khả năng tốt đẹp sẵn có của mình; nếu
còn nương cậy vào những thế lực bên ngoài tức là phủ nhận những khả
năng ấy, tức là tự mình không nhìn nhận địa vị con người (nhân vị)
của mình vậy.
Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật có kể
câu chuyện "cùng tử lý bảo châu" như sau:
Một người kia mất đi, để lại
trong chiếc áo rách của đứa con một viên ngọc quý. Đứa con không biết,
cứ đi lần hồi nhờ vả bà con quen thuộc, nhưng rồi chẳng ai giúp đỡ.
Sau nhờ biết được mình có viên ngọc trong áo, đứa con ấy trở nên
giàu có sung sướng, không cần nhờ vả ai nữa.
Ví dụ đó cho ta thấy rằng con người
phải tự khai thác những khả năng sẵn có chứ không thể đi tìm giải
pháp bên ngoài. Phật dạy rằng con người vốn là đấng tạo hóa đã tạo
ra mình, mình gây nghiệp nhân, mình lãnh thọ nghiệp quả, quyền năng sáng
tạo và thay đổi hoàn toàn nơi mình. Quan niệm ấy xác nhận giá trị tuyệt
đối của muôn loài và nhất là của con người: vì ở con người, khả
năng sáng tạo và chuyển dịch biến cải có phần mạnh mẽ hơn.
Con người phải hoàn toàn căn cứ
vào tự lực để tự giải thoát. Tự mình, con người phải hoạt động
để biến đổi "biệt nghiệp" và cùng với bao nhiêu "con người"
khác, con người phải hoạt động cọng đồng để biến đổi "cọng
nghiệp". Nên, hư, thành, bại đều do ở con người. Thành Phật hay lui
về địa vị cầm thú cũng do ở con người. Xã hội tốt đẹp hay xấu xa
đều do con người. Vận mạng con người và vận mạng xã hội con người
đều do những "con người" nắm giữ.
Con người phải tự tin rằng chính
ý nghĩ, hành động và ngôn ngữ của mình mới có thể xây dựng được hạnh
phúc và giải thoát.
Đừng tin tưởng ở những danh từ
tốt đẹp thường hay lừa gạt con người. Độc lập, tự do, hòa bình,
nâng đỡ nhược tiểu, cứu vớt nhân loại! những danh từ ấy có giá trị
là bao, đừng vội tin tưởng ở chúng, con người chỉ cần tin tưởng ở
hành động của chính mình.
Đừng tin tưởng ở khoa học. Khoa
học là một lưỡi dao quá sắc bén mà hiện giờ con người không đủ sức
sử dụng. Con người đừng tưởng rằng khoa học sẽ giải phóng cho mình.
Không, con người phải tự giải phóng lấy mình bằng cách cầm vững được
hướng đi của khoa học, lợi dụng được khoa học.
Đừng tin tưởng ở chủ nghĩa và
đảng phái, là những thứ con người đặt ra rồi bị mắc kẹt vào tất
khó gỡ. Chủ nghĩa và đảng phái không giải phóng được cho con người,
nếu con người không hoạt động xứng đáng cho sự giải phóng của chính
mình.
Đừng tin tưởng ở những nguyên tắc
tổ chức tốt đẹp. Nguyên tắc tổ chức tốt đẹp không thể thực hiện
được nếu không có sự cố gắng của con người. Một bản hiến pháp, một
chánh thể dân chủ không bảo đảm được hạnh phúc của một dân tộc.
Chính sự cố gắng của toàn dân để thực hiện hiến pháp ấy, thực hiện
chính thể ấy mới đem lại sự lợi ích thiết thật cho mọi người.
Và cuối cùng, đừng tin tưởng ở
những lực lượng siêu nhiên. Theo luật nhân quả xác thực, con người tự
tác tự thọ. Lực lượng siêu nhiên chỉ có thể là một thứ thuốc để
an ủi con người. Không có một vị thần linh nào giữ quyền thưởng phạt
cả. Có nhân thì có quả. Con người không thể trông cậy một lực lượng
siêu nhiên nào giải thoát cho mình. Con người không phải là bọt bèo, là
vô năng, là thụ động. Con người có trách nhiệm tự giải phóng; trốn
tránh trách nhiệm đó, quy trách nhiệm đó về cho một lực lượng siêu
nhiên, tức là con người đã phủ nhận giá trị và năng lực mình, và như
thế là đã phủ nhận "nhân vị" của mình vậy.
Tóm lại con người phải tin ở mình
mới có thể không làm tổn thương đến nhân vị.
4.- Sử dụng những khả năng
tốt đẹp ấy để tiến mạnh trên bước đường giải phóng.-- Tin
tưởng là để hành động. Con người tuy đã tin tưởng ở khả năng của
mình rồi, nhưng còn phải sử dụng những khả năng ấy để tiến trên
đường giải phóng cho mình và cho nhân loại. Hành động mới là động lực
đưa con người đi tới.
Tóm lại, địa vị con người trong đạo Phật nâng
cao. Và hơn ai hết, người Phật tử ý thức được vai trò, khả năng và
nhiệm vụ của mình. Không mê tín vu vơ ở những lực lượng bên ngoài, cũng
không tự mãn với những điều kiện ít ỏi, người Phật tử luôn luôn
tìm cách bảo vệ và phát triển những khả năng tốt đẹp của con người
và cố quyết đi tới, bằng tin tưởng và bằng hành động.
http://www.buddhismtoday.com/viet/triet/045-nhanvi.htm