- Mười huyền môn: trật
tự của thế giới
- trong tương quan vô tận
- Tuệ Sỹ
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi
lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên
đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác
thành và hủy diệt. Trời đất như đã thay loài người nói lên ý nghĩa của
sự sống, nói bằng một thứ tiếng riêng biệt: tiếng nói thầm lặng hay
tiếng nói của sự im lặng. Sức mạnh của con người không nằm trong
chính nó. Ước vọng thâm thiết nhất của con người cũng không nằm trong
chính nó. Mùa xuân, mùa của một sức sống xanh tươi, không động lên
trên đôi mắt. Qua đôi mắt, người ta tìm thấy khát vọng của mùa xuân,
vì nơi đó phản chiếu hình ảnh của những bụi phấn liễi, phản chiếu
hình ảnh của một dòng nước lượn quanh. Những sáo ngữ mà chúng ta thường
nghe và thường chấp nhận một cách gần như mặc nhiên: con người không
là gì cả, vì nó là tất cả. Rốt cuộc, cuộc đời của người ta giống
như cái gì? Cũng nên nghĩ là giống như một cánh nhạn bay qua dòng sông,
bóng nhạn in vào lòng nước. Bóng, nhạn và dòng sông trong bước tao ngộ
tình cờ:
- Nhạn quá trường giang
- ảnh trầm hàn thủy
- Nhạn vô di tích chi ý
- Thủy vô lưu ảnh chi tâm
Một thiền sư Việt Nam trước đây
đã nói như vậy.
Tao ngộ tình cờ rồi tan rã và biến
mất. cũng nên nghĩ là biến mất trong cơn nắng chiều mòn mỏi, hay biến
mất trong lớp sa mù buổi sáng.
Người gặp người không ở trong
gang tấc mặt đối mặt. Gặp nhau trong những hẹn ước thiên thu của đỉnh
đá trên núi này và một hạt cát trong lòng biển xa xôi kia.
Và đây cũng là đạo lý tự
nhiên: đôi mắt của chúng ta, chỉ có thể mở ra để nhìn theo một chiều
hướng duy nhất. Muốn thay đổi chiều hướng thì phải thay đổi cả tư
thái và vị thế. Quả thật chúng ta muốn vượt qua những giới hạn cá
biệt, để thấy rằng thân thể của mình cũng bao la vô hạn như hư không;
thấy cả vũ trụ như thấy quả xoài đang nằm trong tay. Nếu chưa vượt
qua khỏi giới hạn cá biệt: cái ước mong này cũng chỉ là một thứ ước
mong cá biệt, giới hạn cá biệt càng lúc càng khép kín; người ta bỗng cảm
khái mình như một hạt cát lăn lóc trong sa mâc. Những gì cần thấu hiểu
phải được phân phối trật tự theo qui ước của thế giới cộng đồng.
Chúng ta có trật tự của ngôn ngữ, trật tự của tâm hành và trật tự
của thế giới. Tùy thuận theo qui ước đã định sẵn, chúng phản chiếu
lẫn nhau trong thế tương giao vô tận, một động một tĩnh. Giống như ba
hào của kinh Dịch: hai, được phân phối trong ba để thành tám; tám được
phân phối trong hai để thành sáu mươi bốn, thành thiên hình vạn trạng,
tất cả văn vẻ của trời đất. Tính cách phân phối các hào và các quẻ
này được Hoa Nghiêm tông vận dụng triệt để, thành lập một thế giới
trùng trùng vô tận: hai trong mười và mười trong mười. Hai trong muời: dị
thể và đồng thể trong thập huyền. Con số đạt được là một trăm, tính
theo phép phân phối và tập hợp của tóan học. Trật tư của thế giới
được phối trí bằng số. Nguyên tắc kinh Dịch: Phương dĩ loại tụ, vật
dĩ quần phân.
Thế là vì muốn thấy vì hiểu
nên cần có phân tích và phối trí, nhưng cũng muốn sống bằng tất cả tâm
tình ẩn khuất của mình, nên ước ao nói bằng những lời không nói của
vạn hữu. Tất ca những ước muốn đó được kết tụ lại như ngưng thần
chú mục để phóng tầm mắt vào một thế giới tuyệt đối.
H M. I. ĐỒNG
THỜI CỤ TÚC TƯƠNG ƯNG
Trong vô số tập quán của kiến thức,
chúng ta có thể kể đến một tập quán rất phổ biến, và có ảnh hưởng
quyết định. Hãy gọi đó là tập quán nhận định và xác định vấn đề.
Không nhận định thì không có một
cái nhìn sáng suốt; không xác định thì không tránh nổi thái độ hàm hồ.
Không sáng suốt và hàm hồ là những tật xấu. Người ta cố tránh khỏi
những tật xấu ấy. Mọi vật hình như đã được an bài trong một trật
tự cố định ở đấy. Mỗi sự vật khi được gọi là có đó, được
coi là có một vị trí cá biệt. Muốn nhận định và xác định vị trí
ấy, người ta đã phải phân tích sự có đó thành ra hai chiều. Trong chiều
ngang, nó được đặt ở vị trí tĩnh. Trong chiều dọc, nó được đặt
ở vị trí động. Sau khi đã qui chiếu tất cả tính cách động vào tĩnh,
và tạo nên sự thúc đẩy để tĩnh biến chuyển bằng tính cáhc động,
người ta đã xác định được bản tính của hiện hữu; căn cứ vào đó
mà thiết lập mọi chiều hướng tác động của chúng.
Đó là nhận định sơ khởi, chuẩn
bị cho giải thích nghĩa của "đồng thời cụ túc tương ưng".
Thiết lập các chiều hướng tác
động của hiện hữu, với mục đích chính là vì sự sinh tồn của riêng
ta trong thế giới sinh hoạt cộng đồng; mục đích phụ là khai triển những
gì ẩn khuất trong lòng sự sống.
Tác động thì diễn ra trong tính
cáhc gián đoạn. Thành quả mà chúng ta chờ đơị phải được coi là cái
xuấⴠhiện trong một lãnh vực vĩnh cửu; nếu không, ta có thể duy trì
hình ảnh của một thành quả tiên liệu và cũng không thể duy trì được
thành quả đã đạt. Để đạt đến một viễn tượng như vậy, người
ta phải nỗ lực phát hiện toàn thể tính của một sự thể. Toàn thể
ấy vừa được thâu hẹp trong một giới hạn cá biệt, vừa được phóng
đại thành một thế giới vô tận. Như vậy, khi thâu hẹp, thế giới vô
tận thành cá biệt trong ta, và khi phóng đaị, cá biệt trở nên vô hạn.
Đó là xác định ý nghĩa tương ưng; theo đó, người ta có thể phân biệt
tương ưng thành tương tại và tương thị. Sau khi thực hiện xong sự phân
biệt này, chúng ta đã làm xong công việc xác định tiên quyết. Về sau,
nhận định và xác định không còn cần thiết nữa. Những cái mà ta muốn
giải thích và muốn thực hiện trở thành những sự thể đương nhiên.
Thế nào là tương lai? Đó là sự
phản chiếu lẫn nhau của các sự thể, trong thế giới cộng đồng. Nói một
cách giản lược, đó là sự phản chiếu của cá biệt và toàn thể, giống
như hình ảnh của một biển lớn được phản chiếu trọn vẹn trong một
làn sóng và ngược lại. Theo nghĩa đó, cái lớn ở trong cái nhỏ và cái
nhỏ ở trong cái lớn. Bởi vì, trong tức là phản chiếu toàn diện, do đó
nói rằng cái này ở trong cái kia có nghĩa rằng cái này chính là cái kia:
tương tại tức là tương thị.
Trên tương quan lập nghĩa và lập
thuyết, căn cứ tương tại và tương thị, người ta có quyền nói lên trực
tiếp hay gián tiếp một ý nghĩa nào đó. Thí dụ, bằng gián tiếp, người
ta chỉ cần nêu lên một góc, lập tức biết ngay ba góc còn lại. Như vậy
cá biệt ở ngay trong toàn thể, vì phản chiếu toàn diện; và chính nó là
toàn thể, cho nên chỉ cần nhắc đến một góc là đã nhắc đến ba góc
còn lại.
Trong khi lập thuyết, người ta phải
tuân theo một trật tự cố định. Nhưng ý nghĩa đạt được thì luôn
luôn vượt ngoài trật tự này. Thí dụ, khi diễn tả bằng văn tự, người
ta phải tuân theo một qui ước: hoặc viết theo hàng ngang hoặc viết theo
hàng dọc, và trong đó các chữ phải được sắp theo một thứ tự nào đó.
Nhưng ở lãnh hội, tất cả những qui ước và hình thức diễn tả của văn
tự đều biến mất. Chúng biến mất bởi vì cái ý nghĩa mà chúng ta đạt
được nó xuất hiện trong tác dụng đồng thời của tất cả các phương
tiện diễn đạt. Dù vậy, mọi sự thể vẫn giữ nguyên vị trí của nó
trong trật tự cọng đồng.
Tính cách đồng thời vừa nói
chính là nhân quả đồng thời, nhưng không xét theo tự thể mà chỉ xét
theo tác động. Không xét theo tự thể, tức là không nói sự thể này đã
sinh ra sự thể kia như thế nào. Nói tác động là nói sự phản chiếu,
và là phản chiếu torng toàn diện. Trong cái chủ động, phản chiếu toàn
diện cái bị tác động, và ngược lại. Sự phản chiếu ấy lập nên
nhân quả đồng thời.
Từ lý luận trên, người ta nói,
khi một sự thể tự biểu lộ toàn diện của nó, đồng thời biểu lộ
toàn diện tất cả sự thể khác. Đến lượt mỗi sự thể trong cũng tự
biểu lộ và biểu lộ tất cả. Như vậy mọi sự thể xuất hiện trong
tương quan, và vì tương quan ấy là tương tại và tương thị nên trở
thành tương quan vô tận; trật tự nhân quả vẫn không rối loạn.
Bây giờ thế giới đã có đó, có
trong những phản chiếu trùng trùng vô tận, rồi người ta sẽ làm gì ở
đó? Không khởi lên được tác dụng thì không phát hiện được tự thể
và tự thể cùng tương ưng – tương tại và tương thị – trong đồng thời
nhưng sai biệt; nhưng mỗi tự thể đều như một toàn thể vô tận và vô
hạn. Vô số cái một cùng ở trong cái một duy nhất, có khắp trong vô số
cái một. Nói rộng hơn, chúng ta có bốn trường hợp:
- Cái một ở trong cái một
- Cái một ở trong tất cả
- Tất cả ở trong tất cả
- Tất cả ở trong cái một
Thế giới vô hạn là cái một duy
nhất, tức là một toàn thể. Cái một toàn thể được chứa đựng, không
dư hay thiếu, trong cái một sai biệt. Đây chỉ là luận ly, thuần túy lý
luận. Bởi vì người ta cần có một thế giới vô tận và vô tận như vậy
để thiết lập mọi tác dụng của mình trong sự sống, và vận dụng
chúng cho một cứu cánh độc nhất.
Trước một thế giới vô hạn và
vô tận ấy, người ta cản thấy khỏi cần vượt qua ngoài vị trí cá biệt
của mình mà vẫn có thể thực hiện vô biên tác dụng. Kinh Hoa Nghiêm
nói: "Tất cả các Pháp môn như một biển cả vô tận điều tụ hội
ở một pháp trong đạo tràng". Đó là kinh nói về phương tiện vô
biên của Phật. Tất cả những điều Phật nói phát ra từ Hải ấn tam muội.
Cũng như tất cả mặt trời, mặt trăng, tinh tú, vân vân. Đều in bóng
trong lòng biển –hải ấn, vừa như là một – vì có vị trí cố định
– và như là tất cả – vì khắp mọi nơi trong lòng biển. Cũng vậy, từ
Hải ấn tam muội, thân của Phật như một biển cả, trong mỗi lỗ chân
lông xuất hiện vô biên thế giới.
Nói tóm lại, mỗi sự thể phản
chiếu tất cả mọi sự thể, và trong tất cả đó, mỗi sự thể này
cùng phản chiếu tất cả mọi sự thể. Thế gọi là cụ túc – có đủ.
Chúng đồng thời phản chiếu lẫn nhau tạo thành thế giới trùng vô tận.
H M. II. NHÂN
ĐÀ LA VÕNGCẢNH GIỚI
Đây là một thí dụ, dùng để điển
hình cho sự phản chiếu vô tận. Chúng ta hãy nói về thể tính và khả năng
thí dụ trước.
Tạo ra một thí dụ, người ta chỉ
cần biết thế nào là những cái tương đồng, theo cách loại suy. Sau đó,
phải làm thế nào mà xóa được thí dụ một cách dễ dàng, thì sự diễn
đạt mới được thấu đáo. Như vậy, giữa cái được ám chỉ bằng thí
dụ và bản thân của thí dụ cần có một khoảng trống. Tiên khởi, vì
có khoảng trống nên mới có thể bỏ qua thí dụ để nhân ra cái được
thí dụ. Cũng như khi đặt một ngón tay lên môi mà nói: "giống cái
này"; nói thế, khó phân biệt cái này là cái nào, là ngón tay hay môi
miệng. Cũng vậy, sự thí dụ phải diễn tiến từ chỗ tạp loạn, cái
này cũng giống cái kia, rồi đi đến chỗ phân biệt nghiêm xác. Giống
nhau tức là đồng loại, đồng hành. Nghĩa là, trên tổng quát thì người
ta nói: "cái này cũng vậy", chúng đồng loại, vì cũng xuất hiện
trong một môi trường. Chúng đồng hành,vì cùng vận chyển trong môi trường
đó. Cùng xuất hiện và vận chuyển trong một môi trường chung, nhưng mỗi
cái có một vị trí riêng biệt; vì thế, cái này đối với cái kia chỉ
giống như chứ không thực sự như vậy.
Người ta thường nói, thí dụ chỉ
có giá trị rất ước lệ. Bởi vì những cái mà người ta dùng để thí
dụ phải giới hạn trong phạm vi thông tục của kinh nghiệm thường thức.
Lấy cái đẽ biết để đẫn khởi cái chưa biết. Nếu cái chưa biết
vĩnh viễn không xuất hiện thì thí dụ sẽ bao hàm tính chất độc đoán.
Bằng lối suy luận chậm chạp, nhưng
vững chắc, ta có thể ước lượng được mức độ diễn tả của thí dụ.
Đoạn sau đây tóm tắt trình bày của Hiền Thủ Quốc Sư trong Kim sư tử
chương, thuyết cho Hoàng đế Võ Tắc Thiên về các đặc điểm của Hoa
Nghiêm Tông. Sau phần tóm tắt này chúng ta sẽ cố để thấy những điều
muốn thấy, đối với khả tính và khả năng của thí dụ.
1. Minh duyên khởi.
"Quyết đoán: "vạn tượng
bản không giả duyên phương hữu". Bản tính của vạn hữu trống rỗng
như hư không, do tương quan mà trở thành hiện hữu.
Thí dụ, vàng ròng không có bản
tính cố định; do thợ nắn nót nên thành hình một con sư tử bằng vàng.
2. Biện sắc không.
Quyết đoán: huyễn pháp phân
nhiên, chân không bất động. Các sự thể như huyễn xuất hiện đều sẵn
ra đó; Chân Không bất động. Thí dụ: chỉ có vàng ròng, tức chân không,
mới có thật tánh; sư tử, tức huyễn sắc không có thật.
3. Ước tam tánh
Quyết đoán: mê chi danh tướng, ngộ
chi tức chân. Do mê mà có danh tướng; là những cái hư huyễn, mặt ngoài.
Khi ngộ, chính đấy là chân.
Tam tánh là ba hình thái hoạt động
của tâm trong tương quan với bản tánh của hiện hữu: a) Biến thế: phân
biệt những cá biệt giữa cái này và cái khác bằng danh và tướng; b) y
tha: mọi tác dụng hiện khởi đều nương tựa vào nhau; c) viên thành thật:
bản tính tồn tại chân thật của hiện hữu.
Thí dụ: a) biến kế: thấy sư tử
như có một bản ngã thực hữu; b) y tha: thực hữu, nhưng lại là hữu tương
tợ; nghĩa là không tự hữu; c) viên thành thật: chất vàng ròng sau khi đã
thành hình sư tử vẫn không có gì biến cải.
4. Hiển vô tướng.
Quyết đoán: tướng tức vô tướng,
phi tướng tức tướng.
Thí dụ: sư tử bằng vàng; nếu
nói đó là vàng thì tất cả chúng là vàng ròng, không thấy hình dáng sư
tử đâu trong đó cả. Bởi vì, vàng là vàng, không phải là gì hết; sư tử
lại càng không phải.
5. Thuyết vô sanh.
Quyết đoán: vô sanh tức chi sanh,
sanh tức vô sanh
Thí dụ: khi nói"Sư tử hiện
ra", thì sự thực, đó chỉ là vàng. Hình dáng sư tử có hiện ra, có
biến mất; thể chất của nó là vàng ròng không thêm không bớt.
6. Luận ngũ giáo.
Quyết đoán: Căn khí bất đồng,
thiết giáo hữu dị. Vì căn cơ, trình độ bất đồng, nên có nhiều cách
nói khác nhau.
Có năm trình độ: a) Thanh văn, căn
cứ vào lý duyên khởi thấy rằng không có bản ngã thật hữu nhưng thấy
thật sự có các yếu tố tạo nên bản ngã bất thực ấy. b) Thỉ giáo, hạng
Đại thừa sơ cơ, do lý duyên khởi, hiểu rõ mọi lẽ Chân Không. c) Chung
giáo: hiểu lẽ Chân Không, lại còn biết rằng vì không cho nên có, trình
độ cao nhất của Đại thừa. d) Đốn giáo, vượt ngoài ngôn ngữ, tức
là trên cả Đại thừa. e) Viên giáo, đạt tới cõi vô ngôn, nhưng từ đó
có thể nói lên cái vô ngốn mà không trái ngược, vì là chỗ cùng đích
của phương tiện và thật huệ.
Thí dụ: a) Thanh văn: sư tử không
có thật, nó xuất hiện do duyên khởi. b) Thỉ giáo: bản tính của sư tử
là Chân Không. c) Chung giáo: Sư tử không có thật, vì chỉ là vàng ròng,
nhưng chính từ vàng ròng mà có sư tử. Tức là vì không cho nên có. d) Đốn
giáo: không cần đến ngôn ngữ hay suy tưởng; chỉ nhìn là biết ngay sư tử
hay vàng. Bởi vì, cái đó gọi là sư tử thì không phải; gọi là vàng cũng
không phải. 2) Viên giáo: Biết rõ vàng là gì và sư tử là gì; chúng tương
quan hiện khởi như thế nào; và biết cả phương tiện làm chúng thành
không, thành có, tùy sở nguyện.
7. Lặc thập huyền.
Quyết đoán: duyên khởi giáo ánh,
pháp giới trùng trùng.
Thí dụ:
(1) Vàng và sư tử xuất hiện một
cách trọn vẹn trong cùng một lúc: đồng thời cụ túc tương ưng.
(2) Nhìn vào cặp mắt, biết đó
là cặp mắt của sư tử; tức đã nhận ra toàn thân sư tử. Nói cách
khác, cặp mắt sư tử bao hàm toàn thân của nó. Các bộ phận khác cũng vậy.
Như thế, các bộ phận sư tử vừa thuần, vì bao hàm toàn thân; vừa tạp,
vì riêng biệt. Đó là nghĩa: chư tạng thuần tạp cụ đức.
(3) Vàng và sư tử bao dung lẫn nhau
thành ra vừa một vừa nhiều: nhất đa tương dung an lập.
(4) Mỗi chi tiết của sư tử đều
là vàng, và vàng có khắp trong từng chi tiết của sư tử: chư pháp tương
tức tự tại.
(5) Thấy đó là sư tử, thì đó
không phải là vàng; thấy đó là vàng, bất giờ đó không phải là sư tử:
bí mật ẩn hiện câu thành.
(6) Vàng và sư tử được phân biệt
bằng cách bao dung lẫn nhau trong từng chi tiết nhỏ nhặt: vi tế tương an
lập.
(7) Sư tử và vàng là một. Mỗi sợi
lông của sư tử đều bằng vàng, nên phản ảnh toàn thân sư tử. Trong toàn
thân phản ảnh này, mỗi lông cũng phản ảnh toán thân. Như vậy, vì tương
phản thành ra vô tận. Đó là nghĩa: nhân đà la võng cảnh giới.
(8) Sư tử biểu tượng cho vô minh;
vì khi thấy chỉ có sư tử thì chất vàng ròng bị che đậy mất. Nhưng
cũng từ nơi sư tử đó mà chỉ ra cho thấy cái thể chất chân thật của
nó là vàng ròng; thế là làm bộc lộ Lý tánh từ ở Sự: thác sự hiển
pháp sanh giải.
(9) Sư tử là phần có hiện ra và
biến mất, bị phân chia bởi các giới hạn của thời gian: quá khứ của
quá khứ, hiện tại của quá khứ, vị lai của quá khứ, quá khư của hiện
tại, hiện tại của hiện tại, vị lai của hiện tại, quá khứ của vị
lai, hiện tại của vị lai, vị lai của vị lai, và đồng thời: thập pháp
cách thế dị thành.
(10) Vàng và sư tử, hoặc một hoặc
nhiều, hoặc ẩn hoặc hiển, vân vân, không có bản tính cố định. Sự
thành tựu cứu cánh của chúng tùy theo các tác dụng của tâm: duy tâm hồi
chuyển thiện thành.
8. Quát lục tướng
Quyết đoán: pháp vô định tướng,
cử nhất tứ đa.
Thí dụ, a) Toàn thân sư tử, bao gồm
mọi bộ phận chi tiết: tổng tướng.
Mỗi chi tiết: b) biệt tướng, c) Tất
cả cũng biểu lộ trong một trường chung: đồng tướng. D) Cùng biểu lộ
thànhmột toàn thể, những bộ phận riêng biệt không tạp loạn: di tướng.
E) Các bộ phận tập hợp lại tạo thành hình dáng của sư tử: thành tướng.
F) Vì mỗi bộ phận cố thủ vị trí riêng biệt của chúng, nên mỗi cái
không phải là sư tử: hoại tướng.
9. Thành bồ đề.
Vạn hạnh ký viên, bản giác lộ
hiện.
Lãnh hội được tương quan hiện
khởi nhưng bất động giữa sư tử và vàng ròng, tức là hiểu rõ tất cả
những tương quan chân và vọng của sư tử và vàng ròng.
10. Nhập niết bàn
- Trí thể tức như, sanh đại niết
bàn
Bấy giờ thấy rỏ sư tử chưa từng
có, vàng ròng chưa từng không; chấm dứt tất cả tác dụng phân biệt của
tâm trí. Vàng Như sư tử và sư tử Như vàng. Đó là vĩnh cửu bất sinh bất
diệt.
Cả đoạn phụ chú dài dòng trên
đây được dùng để điển hình cho khả tính và khả năng của thí dụ.
Chính chúng ta là thí dụ. Thí dụ bao hàm và dẫn khởi thí dụ, vì hiện
hữu do tương quan, cái Như vậy là Như vậy. Vì Như vậy, nên thí dụ được
Như vậy. Nói cách khác, cái được nhìn thấy là Như vậy. Khi phản chiếu
thì cũng Như vậy. Sự phản chiếu lẫn nhau giữa những cái Như vậy và
Như vậy trở nên trùng trùng vô tận.
Tính cách phản chiếu này được
thí dụ bằng một tấm ảnh lưới của trời Indra (Hán âm: Nhân đà la). Mỗi
mắt lưới là một hạt ngọc. Mỗi hạt ngọc ấy không rời khỏi vị
trí của nó mà phản chiếu toàn diện tấm lưới. Trong mỗi tấm lưới phản
chiếu này, lại có vô số mắt lưới. Trong mỗi mắt lưới đó lại cũng
phản chiếu toàn diện yấm lưới. Chúng phản chiếu lẫn nhau thành vô tận,
nhưng vẫn cố thủ vị trí và bản sắc cá biệt của mình; do đó, không
tạp loạn, hỗn độn.
HM. III. BÍ MẬT
ẨN HIỂN CÂU THÀNH
Phản chiếu là tác dụng của định
luật duyên khởi. Từ trên dịnh luật này, người ta suy diễn được hai
khả năng thành tựu: sự thành tựu của cá thể và sự thành tựu của
toàn thể. Đối với cá thể, sự thành tựu đó có nghĩa sự xuất hiện
của nó trong một vị trí cố định. Người ta sẽ qui định mọi thể cách
tương quan hiện hữu bằng vị trí này. Định được một vị trí là định
được tất cả vị trí khác. Như vậy, khi khởi lên tác dụng trong một
thế giới cộng đồng, người ta thấy ngay đã có ở đó một trật tự
an bài. Bởi vì trật tự được đặt trên nền tảng duyên khởi, do đó sự
thiết lập là tác dụng của chính mỗi sự thể cá biệt. Khái niệm về
lý duyên khởi vẫn là: "Không có tác giả, không thọ giả, chỉ có
tác nghiệp". Không có một thế lực biên khởi, không có một tự thể
quyết định thúc đẩy mọi tác dụng. Tự thể được coi như xuất hiện
và tồn tại bằng tác dụng; nghĩa là, không có tự thể ờ đằng sau tác
dụng. Nói rằng cá thể cố thủ lấy vị trí cố định của nó, không phải
vì vậy mà cá thể ấy tự hữu như một tự thể tuyệt đối. Tuy nhiên,
đã nói là cố định trong một vị trí, thế thì bằng cách nào mà khởi
lên được tác dụng? Ở đây, chỉ có một tác dụng căn bản là sự phản
chiếu. Toàn thể được phản chiếu trong cá biệt; do phản chiếu như vậy,
sự thể cá biệt được coi như có vị trí cố định.
Thế nào là ý nghĩa của một lời
nói? Đó là khởi điểm của Hoa nghiêm tông. No khởi lên từ cái đống hỗn
mang mờ mịt của vạn hữu. Một khi lời nói đã thành hình, người ta muốn
cho ý nghĩa của nó phải kéo lôi mớ bòng bong của vạn hữu ra khỏi sự
tạp loạn của chúng để trở thành một trật tự có qui củ. Tiên khởi,
chắc chắn là người ta không thể tìm thấy trật tự này trong chính bản
thân của vạn hữu. Nhưng bản thân của vạn hữu lại chính là Pháp thân
của Phật. Như vậy, thay vì lần dò theo lời nói phát ra từ chính mình,
người ta phải bắt đầu bằng cách nghe lại từ lời nói của Phật.
Chính lời nói ấy nói rằng những gì được nói lên, đều nói theo sự
phản chiếu của vạn hữu. Vạn hữu phản chiếu lẫn nhau để trở thành
những biểu tượng danh ngôn như vậy. Đây là lời nói của kinh Hoa
Nghiêm: "Pháp như vậy là như vậy: không có tác giả, không có thành
giả. Như vậy, bậc Ứng cúng, Đẳng chánh giác cũng như vậy". Nơi khác
kinh nói: "Phật không có xuất hiện thế gian, cũng không có nhập niết
bàn. Vì sức mạnh của đại nguyện mà hiển hiện pháp tự tại".
Những lời ấy muốn nói gì? Nghe
được lời của Phật là nghe tiếng nói thầm lặng của vạn hữu. Nhưng
làm sao để nghe? Vậy trước hết, hiểu cách nói của Phật. Cách nói ấy
được coi như tùy tiện, và tùy thuận theo cơ cảm. Cách nói phản chiếu
từ cách nghe. Cách nghe phản chiếu lại cách nói. Nói và nghe ràng buộc với
nhau như trong thế giới cộng đồng của tác dụng. Sự ràng buộc ấy trở
nên chặt chẽ, giống như bóng tối ràng buộc lẫn nhau trong thầm kín sâu
xa. Đó là bên trong. Mặt ngoài chúng vẫn hiện ra trên một trật tự có
qui củ. Từ đó suy diễn ra, vạn hữu phản chiếu lẫn nhau sẽ được coi
như có hai phần, điển hình bằng thí dụ: sự phản chiếu của bóng tối
với bóng tối. Đó là phản chiếu trong một trật tự không có trật tự.
Kế đến, sự phản chiếu của ánh sáng với ánh sáng. Điển hình thứ ba
và thứ tư: phản chiếu giữa ánh sáng và bóng tối. Qui định và phân phối
tính cách phản chiếu này trong thế giới cộng đồng, ta sẽ tìm thấy vị
trí cố định của cá thể.
Lời nói sẽ được coi như là sự
phản chiếu củ aý nghĩa; và ngược lại. Ở đây, ý nghĩa cũng được
coi như là sự phản chiếu của vạn hữu; và ngược lại. Vậy trật tự
của vạn hữu sẽ được phối trí một cách tùy tiện, và tùy thuận với
lời nói. Chúng ta tự phối trí lấy trật tự lời nói của chính mình. Người
nói và người nghe là một. Bởi thế, chỉ có tác dụng của nghe và nói
mà không có tác giả. Khi được nói, ta đẩy lui những lời khác vào cõi
miền u tịch thầm lặng. Toàn thể được hiển hiện. Khi toàn thể hiển
hiện, cá biệt tự lẫn vào căn cơ thầm kín. Căn cơ này ở nơi chính nó
và ở trong cà toàn thể. Ta nói để riêng ta nghe. Tự nghe những lời tự
nói. Như thế, thế giới tự tác thành thế giới, bởi vì vạn hữu được
tác thành bởi chính ta. Ta là thế giới. Nhưng thế giới không tự hủy bản
sắc của nó để trở thành thế giới là ta. Ta và thế giới vừa có giới
hạn phân biệt, vừa bao dung lẫn nhau bằng phản chiếu vô tận. Bấy giờ,
tự thành lại có nghĩa là tương thành, cùng đồng với thành tựu.
Nếu nghe ra được những chiều hướng
tác động của lời nói từ ta nói lên, ta sẽ thâý niềm tương ứng,
trong đó cả thế giới loài người, loài vật, cây cỏ, cùng nói và cùng
nghe. Nghe một lời và nói lên trong sự hiển hiện của âm thanh và ánh
sáng, là cùng lúc nghe ra những lời thầm lặng không nói trong sự ẩn mật
tương ứng.
Chúng ta đi từ trật tự lý trí
phân biệt, ở đó phân biệt giới hạn nghiêm khốc của những cá biệt,
rồi tiến tới căn cơ của chúng, là niềm tương ứng được mệnh danh là
chân tánh hư không. Nghĩa là từ duyên khởi mà suy diễn ra Tánh Không. Bởi
vì, đó là niềm tương ứng nên chúng ta phát hiện được sự phản chiếu
vô tận. Sau đó là sự thành tựu của ngôn ngữ, thành tựu từ phân biệt
ở trong cái không phân biệt. Nói và không nói, chúng tự thành. A宠và hiển là tính cách tự thành và tương thành của vạn
hữu.
HM. IV. VI TẾ
TƯƠNG DUNG AN LẬP
Kinh nói: "Hết thảy thế giới
nhập vào một hạt bụi nhỏ. Dù vậy thế giới không bị thu hẹp lại, cũng
không bị tán vụn ra. Đó là cái nhỏ chứa đựng cái lớn. Nhưng không phải
nới rộng cái nhỏ để sức chứa, cũng thâu hẹp cái lớn lại cho vừa sức
chứa. Trật tự vạn hữu vẫn như vậy. Bao dung lẫn nhau mà không tạp loạn.
Phản chiếu vô tận; đấy là một
lối diễn tả gợi hình. Khả năng của thí dụ là gợi hình. Khả năng tự
thành và tương thành của vạn hữu lại là khả năng phản chiếu. Vì là
sự phản chiếu đồng thời; vì là sự tương ứng đồng khởi vừa ẩn
hiện; do đó, tất cả những cái rời rạc, vụn vặt, nhỏ nhiệm được
kết hợp bằng chính tác dụng cá biệt. Chúng ta vẫn có thể nhắc lại một
lần nữa, rằng: không có tác giả; chỉ có tác nghiệp. Không có tác giả,
như một chủ thể tuyệt đối, của sự kết hợp. Cũng không có thọ giả,
cái thừa hưởng hậu quả của sự kết hợp. Tác dụng kết hợp tự kết
họp lấy chính nó. Bằng một lối diễn tả tương tợ, người ta nói
không có tác giả của tác giả đời sống, không có cái thừa hưởng hậu
quả của đời sống. Đời sống tự tác thành bằng chính tác dụng của
nó. Như vậy, chúng ta phải nỗ lực để trực nhận bản tính hiện hữu
và tồn tại của vạn hữu bằng chính tác dụng kết hợp. Chúng ta hãy quảng
diễn về tác dụng kết hợp này. Nếu nói một cách giản lược, chúng ta
có thể có câu hỏi: những cái rời rạc và vụn vặt của vạn hữu đã
được ràng buộc với nhau như thế nào để thêu dệt thành mộ tthế giới?
Nói như thế tức là ám chỉ rằng mỗi sự thể là một nút thắt được
phân phối có trật tự trong một màng lưới không giới hạn của thế giới.
Khi một nút thắt được tháo ra, toàn thể màng lưới cũng tan rã theo. Và
khi một nút thắt di chuyển, toàn thể màng lưới cũng di chuyển theo. Lối
diễn tả như vậy là chỉ nói về sự kết hợp theo chiều ngang, và hàm
ý rằng chiều ngang là ngoại tại và chiều dọc sẽ là nội tại. Ngoại
tại là thế giới của cộng đồng tá cdụng; nội tại là thế giới của
tự hữu. Kết quả, sự phản chiếu chỉ là tác dụng liên khởi, và chỉ
diễn ra ở mặt ngoài. Cũng như tấm gương này phải ở ngoài tấm gương
kia mới phản chiếu lẫn nhau được. Kết quả này quả quyết rằng phản
chiếu không phải là tự chiếu. Thí dụ, nói đối diện tức là đối diện
với một hình bóng trong gương. Từ đây lại nảy ra một kết quả khác,
ngược với những gì mà ta mong muốn từ đầu, theo đó vạn hữu vừa tự
thành vừa tương thành. Bởi vì phản chiếu thì có mà tự chiếu thì
không, do đó có tương thành nhưng không có tự thành.
Thực sự, ngay từ khởi đầu, chúng
ta chỉ muốn rằng cái bản tính phân biệt của tâm thức và ngôn ngữ hằng
gây nên một ảnh hưởng quyết định trong đời sống của mình, để cho
đời sống ấy được mở rộng như hư không. Thế nhưng, luôn luôn chúng
ta lại phải khởi đầu bằng bản tính phân biệt. Để đối trị bản tính
đó mà chúng ta nỗ lực, bằng mọi phương tiện vốn có theo căn cơ, đẩy
cái bản tính phân biệt đi vào cõi vô phân biệt. Vì vậy, chúng ta đã nỗ
lực chiêm ngưỡng thế giới như là một thế giới của phản chiếu vô tận;
không phải chỉ phản chiếu trong chiều ngang mà còn là phản chiếu cả
trong chiều dọc, tức là tự chiếu.
Trước ý định ấy,ta phải thực
hiện như thế nào, bằng bản tính cố hữu là phân biệt? Chúng ta sẽ có
hai chiều hướng phân biệt: trong chiều ngang, phân biệt bằng mô tả;
trong chiều dọc, phân biệt bằng kết hợp.
Đối với phân biệt bằng mô tả
trong chiều ngang, chúng ta nói rằng thế giới xuất hiện như một trật tự
đã an bài ở đó. Với tư cách là một chủ thể di động, ta thực hiện
một lữ hành trên trật tự này. Những gì chúng ta bắt gặp, chúng phản
chiếu thành trật tự của tâm thức. Bởi vì trật tự của tâm thức
không trải dài thành chiều ngang, do đó khi thế giới được phản chiếu
trong tâm thức, bấy giờ trật tự của thế giới không an bài như bất động
mà liên tục biến động theo dòng thác đổ của tâm thức. Trật tự của
dòng vận chuyển này được qui định bằng tương quan nhân quả. Khởi
lên và biến mất một cách liên tục, đó là tương quan nhân quả, được
chứng thật bằng tác động của tâm thức. Có trật tự vận chuyển của
tâm thức cho nên có tương quan nhân quả, có tương quan nhân quả cho nên
ta nhận ra trật tự an bài của thế giới. Như vậy, khi nắm vững được
mối quan hệ nhân quả của vạn hữu, ta có thể mô tả bản sắc và bản
tính hiện hữu của toàn thể thế giới: ở nơi này hay ở nơi khác, vạn
hữu đã khởi lên như thế nào, tồn tại như thế nào và sẽ hủy diệt
như thế nào. Từ sự mô tả được coi như là trung thành ấy mà khởi
lên hoạt động thì có thể tiên liệu được chiều hướng và hậu quả
sẽ đạt được. Tuy nhiên, cái hậu quả đạt đựợc ấy trái với mong
muốn của ta. Thực vậy, chúng ta muốn gì? Nói một cách văn nghệ, chúng
ta muốn sống trong kinh nghiệm về sự chết và chết trong kinh nghiệm về
sự sống, sao cho sống và chết thêu dệt thành định mệnh lịch sử của
mình. Rồi lấy cái định mệnh lịch sử ấy làm cõi miền tương ứng.
Như thế là ta sẽ sống và chết với loài người, loài vật, với cả trời
đất trong một cảnh giới an nhiên vĩnh viễn. Cho tới lúc ta cảm giác một
cách sâu xa là đạt đến chỗ đó, rồi qua trung gian của ngôn ngữ trong
thế giới sinh hoạt cộng đồng, bất chợt thấy ra rằng đấy không phải
là tương ứng, mà là tương nhượng. Vì tương nhượng, ta chỉ có thể
hé mở một nửa cái tàng ẩn, che kín lại một nửa cái biểu lộ, ẩn
và hiển vĩnh viễn ly xa cách, không bao giờ tương ứng.
Chúng ta thử xoay sang một chiều hướng
khác. Trong chiều này, chúng ta không mong mô tả một thế giới tương ứng;
mà tiên khởi, cho rằng cái trật tự an bài của thế giới chẳng khác
nào trật tự của hoa đốm giữa hư không. Như vậy, mở đầu trong chiều
dọc phân biệt bằng kết hợp, chúng ta khai triển khả năng phủ định; tức
là mở đầu bằng công tác hủy diệt. Hủy diệt thế giới thành hư
kh6ng; hủy diệt hư không thành hư vô hoảng hốt. Làm thế để từ chối
trách nhiệm về những cái ta nói ra, tức là qui chiếu trách nhiệm ấy
vào hư vô: chính hư vô đã nói vậy, đã làm như vậy; vân vân. Từ chối
trách nhiệm, chúng ta cố tình không nhận bất cứ một hậu quả sẽ đến
nào cả. Tuy nhiên, chính hư vô đã làm nảy ra một ý tưởng phi lý như vậy;
không phải do ta.
Thực hiện sự hủy diệt kể trên
như thế nào? Trong tiết II, ở đoạn nói về khả tính và khả năng của
thí dụ, chúng ta đả dẫn dụng thí dụ của Hiền Thủ quốc sư, toát yếu
mười chủ điểm của Hoa Nghiêm tông. Nơi đây, có thể bắt đầu lại từ
điểm một đến điểm nười. Nghĩa là bắt đầu từ điểm một bằng cách
phân biệt duyên khởi để qui chiếu tất cả trách nhiệm về tác thành
và hủy diệt thế giới cho hư không. Đến điểm thứ mười, ta qui định
rằng thể tánh của trí tuệlà Như, là Đại Niết Bàn: Ngôn ngử đạo
đoạn, tâm hành diệc ngật, bất sinh bất diệt, Pháp như Niết bàn. Phân
tán vạn hữu thành muôn mảnh vụn vặt là do tánh không; và kết hợp
chúng cũng do tánh không. Nói một cách tượng hình, tánh không tức là hư
không: chư Pháp vô biến dịch, tánh không vô tác cố, ly cấu vô nhiệm ô,
kỳ tánh như hư không. Như thế, chân tánh của vạn hữu là chân không,
chân không không có giới hạn, không có phần vị sai biệt. Vạn hữu là
muôn mảnh vụn vặt. Bởi tánh không tán vụn chúng ra như vậy. Chúng ta
tìm thấy tánh không ngay ở từng mảnh vụn sai biệt này. Mỗi mảnh vụn,
dù nhỏ nhặt vẫn dung chứa toàn vẹn cái tánh không vô hạn. Tánh không
là một. Các mảnh vụn thì nhiều vô số. Cái Một thì vô hạn nên Lớn.
Cái vô số thì hữu hạn nên Nhỏ. Như thế, cái thật Lơn được chứa đựng
không dư không thiếu trong cái thật Nhỏ.
Chúng ta suy luận tiếp. Tánh không
là Lý tánh tuyệt đối; vạn hữu là những Sự thể cụ thể. Lý tánh
không ở ngoài sự thể. Bởi vì đó là Lý của Sự. Giới từ "của"
không phát biểu một ý niệm sở hữu, mà được hiểu theo nghĩa "bao
dung lẫn nhau"; như nói: "mây" của trời, hay nói rõ hơn:
"màu xanh của trời"; vì màu của trời là màu xanh. Vậy "của"
diễn tả sự bao dung theo nghĩa tương tại và tương thị. Từ chỗ tương
dung của Lý và Sự, của cái Lớn vô hạn và cái Nhỏ hữu hạn, bởi vì
Lý Tức Sự và Sự tức Lý, do đó chúng ta tiến đến chỗ tương dung của
vạn hữu. Nhìn theo chiều ngang, sự tương dung ấy được diễn tả như là
tương thị: cái này đích thị là cái kia vì phản chiếu nội tại. Như vậy,
tánh không phân tán vạn hữu thành từng mảnh vụn nhỏ nhặt, vì trong sự
phân tán đó nó làm bộc lộ tánh cách vừa tự nhiên vừa phản chiếu lẫn
nhau của vạn hữu. Chúng ta gặp ý tưởng được nêu lên từ đầu: không
có tác giả, không có thọ giả, chỉ có tác nghiệp.
Thế là chúng ta được đạt viễn
thượng tương dung của vạn hữu. Chính vạn hữu tự kết hợp thành niềm
tương ứng. Ta lấy đó làm lý tưởng cứu cánh của mình và qui chiếu tất
cả mọi hoạt động vào chiều hướng duy nhất đó. Như vậy chỉ có một
con đường độc nhất phải đi. Kinh Pháp Hoa nói: "Tất cả các bậc
giác ngộ trong mười phương thế giới, suốt từ quá khứ, hiện tại đến
vị lai, công bố chỉ có một con đường duy nhất. Nhưng ta – Phật Thích
ca – lại nói với các ngươi là có ba con đường. Vậy ta có lừa dối
các ngươi không? Thưa không. Vì sao? " Trả lời gián tiếp bằng trích
dẫn từ đoạn khác: "Các đấng Giác ngộ, đã thành tựu trọn vẹn
trí tuệ và công hạnh tối thượng, biết rằng bản tính của vạn hữu
là vô tính; hât giống Giác ngộ được nảy mầm do tương quan. Bởi vậy,
các ngài công bố chỉ có con đường độc nhất."
Nói tóm lại, vì tác dụng thực tế
của định luật duyên khởi là tự tại và vô ngại, do đó vì cái tướng
vi tiểu của một hạt bụi vẫn hàm chứa trọn vẹn vô lượng thế giới,
trong cộng đồng – đồng thời và đồng xứ. Ý nghĩa ấy được gọi là
"vi tế tương dung an lập."
HM. V. THẬP
THẾ CÁCH PHÁP DỊ THÀNH
Cái gì đã gieo trong lòng người cái
cảm giác về thời gian? Sự trưởng thành và thôi thức. Từ cảm giác ấy
người ta nhận ra vạn hữu vận chuyển liên tục, và tất cả ý nghĩa của
sinh thành và hủy diệt. Bằng vào thời gian, người khám phá ra chiều sâu
thẳm của vạn hữu. Vạn hữu được kết hợp theo chiều ngang, trong thế
giới ngoại tại, trong một trật tự đã được an bài ở đó. Đồng nhất
tính và dị biệt tính của vạn hữu mà chúng ta thể hiện được ở chiều
ngang không bộc lộ một căn cơ mà chúng ta muốn thấy. Cái căn cơ ấy phải
tìm ở chiều dọc; đấy gọi soi thấu vào bản tính hiện hữu và tồn tại
của vạn hữu. Nơi đây, đồng nhất và dị biệt tính mới nói lên chiều
hướng và ý nghĩa của thế giới; chúng mới cho ta quyết định mệnh lịch
sử nội tại của thế giới. Đồng nhất với chính nó và dị biệt với
chính nó; có thấy được như vậy, ta mới thấy hiện hữu xuất hiện
như thế nào trong một vị trí xen chừng như cố định. Từ sự thấy biết
ấy, chúng ta thiết lập trật tự cho thế giới một cách tự tại.
Sự phản chiếu của vạn hữu có
vẻ như là tạp loạn, nếu sự kết hợp của chúng chỉ diễn ra torng chiều
ngang của thế giới ngoại tại. Như vậy, phân tích thể cách hiện hữu của
vạn hữu qua sự tướng của thời gian là phương pháp tiến vào tận căn
cơ sâu thẳm của chúng, ở đó người ta tìm thấy căn cơ của tác dụng
chính là tác dụng. Giống như dòng trôi chảy liên tục của nước, tự nó
vạch ra một lòng sông cho chính nó. Nghĩa là nó tự chứa đựng lấy nó,bằng
căn cơ nội tại của chính nó. Tự bao hàm, tự phản chiếu, đồng thời
bao hàm và phản chiếu tất cả những cái khác, trật tự của thế giới
là một qui củ bất động của biến động.
Sau đây là phân tích điển hình của
luận thuyết A tì đàm về nhân quả tính trong trình tự của thời gian. Người
ta nói, sự liên hệ của nhân quả sẽ cho phép phân chia các giai đoạn tồn
tại: tồn tại trong thể cách quá khứ, vì tác dụng đã chấm dứt; tồn
tại trong thể cách hiện tại vì tác dụng đang diễn ra; và tồn tại
trong vị lai, vì căn nhân đã thâý có ở hiện tại. Trong trình tự diễn
tiến này, thời gian được quan niệm như một thế lực nội tại, nó
thôi là các sụ thể khởi lên và biến mất. Thế lực đó lại được hiểu
như là chính năng lực tác dụng của nhân quả. Một vật được ném lên
không trung, tức thì rơi trởxuống; thí dụ này ám chỉ cho thế lực nhân
quả, gây ảnh hưởng tác dụng trên thể cách tồn tại của sự vật.
Trong nhân có hai thế lực mênh danh nội tại và ngoại tại, chúng thúc đẩy
sự thành hình của một kết quả. Tất cả sự xuất hiện trong hiện tại
được quan niệm như là hiệu quả của một thế lực đã đi vào quá khứ,
và chính nó đang là thế lực, gây hiệu quả vị lai. Nếu là thế lực
ngoại tại, chúng ta biết rằng đó là mối quan hệ tương thành và tương
hoại của các sự thể hiện hữu bằng tính cách tương tục và tương tợ.
Tương thành và tương hoại là quan hệ giữa cái này và những cái khác
theo chiều ngang. Tương tục và tương tợ là mối quan hệ của một sự thể
với chính nó, theo chiều dọc.
Từ trên, chúng ta tạo ra được một
quan niệm về thời gian do tương tục và tương tợ, ta nhận ra tính cách vận
chuyển tiếp nối của một sự thể. Rồi do tương thành và tương hoại,
ta lại nhận ra rằng mỗi khi nói sự thể xuất hiện ở đó tức là xuất
hiện trong một vị trí cố định. Nói cách khác, chính tác dụng vừa nội
tại vừa ngoại tại của một sự thể mà ta nhận ra thời gian tính của
nó.
Tuy nhiên, phân tích điển hình về
thời gian tính của sự vật như vừa nói đã tạo ra một giới hạn quá
chặt chẽ, cho nên cái đã qua là qua luôn, vĩnh viễn ly cách với cái đang
có đó và sắp có đó. Trong phạm vi thông tục, giới hạn phân biệt ấy
chẳng có gì gọi là quá đáng; nó lại còn tiện lợi cho các hoạt động
theo mục đích thế gian. Nhưng trên lãnh vực tuyệt đối, ở đó người
ta muốn chiêm ngưỡng thế giới trùng trùng vô tận, giới hạn phân biệt
như thế trở thành những chướng ngại. Thứ nhất là chướng ngại vì khả
năng truyền thông của ngôn ngữ. Chướng ngại thứ hai là không thể qui
chiếu tất cả các hoạt động thường nhật vào một chiều hướng duy nhất.
Cả hai chướng ngại có thể được diễn tả bằng một thí dụ, viết,
đọc và lãnh hội. Những cái được viết và đọc tất nhiên phải diễn
tiến trong một trật tự mà các vị trí đều được qui định minh bạch.
Nhưng nếu trật tự này không biến mất, thì sự lãnh hội không thể có.
Vì vậy, người ta phải qui định rằng, chỉ có thể nói được phần nhân,
còn phần quả thì không thể. Nghĩa là, chúng ta có đủ các tiêu chuẩn,
các nguyến tắc để thiết lập thế giới vô tận, nhưng kết quả của sự
thiết lập đó thì không thể diễn tả được.
Nơi đây, ta có thể diễn tả bằng
một thí dụ khác. Giả sử ta muốn truyền thông một thế giới quan nào
đó trong kiến giải cá biệt của riêng ta. Tiên khởi, chúng ta nhận định,
bằng một nhãn quan như vậy, phải đối trị như thế nào, và cũng tiên
liệu luôn cả ảnh hưởng của sự đối trị đó. Hiệu lực của ảnh hưởng
này sẽ gợi lên một nhãn quan khác mà ta thấy còn trong phạm vi cần phải
đối trị. Cứ theo trật tự diễn tiến, chúng ta hoạch định được tất
cả chiều hướng của diễn tiến , và biết cách phân phối thế nào để
cuối cùng đạt được kết quả trong chủ đích của mình; tức là, cái
thế giới quan cá biệt của ta phải được lãnh hội như thế nào mới đáng
gọi là triệt để. Chúng ta thấy rõ, sự lãnh hội chỉ diễn ra trong tri
kiến trực khởi, trong đó, mọi giới hạn phân biệt của thời gian đều
ngưng tụ thành một điểm đồng thời. Điểm đó gọi là Thập thế cách
pháp dị thành. Thập thế là mười giới hạn phân biệt của thời gian:
1. Quá khứ của quá khứ; 2. Hiện tại của quá khứ; 3. Vị lai của quá
khứ; 4. Quá khứ của hiện tại; 5. Hiện tại của hiện tại; 6. Vị lai của
hiện tại; 7. Quá khứ của vị lai; 8. Hiện tại của vị lai; 9. Vị lai của
vị lai; 10. Đồng thời của chín thời trên.
Vạn hữu vừa tự chiếu và phản
chiếu lẫn nhau, nhưng trật tự của chúng trong các giới hạn thời gian vẫn
không trở thành rối loạn, do đó, chúng có thể thành tựu cá thể dị biệt
lẫn nhau.
Thời gian là khái niệm trừu tượng,
nếu không muốn nói là giả tưởng, mà vẫn tự chiếu và phản chiếu của
các sụ thể được gọi là cụ thể, như tác dụng tự chiếu của các sự
thể này. Như vậy, thế giới vô tận vừa như một hình ảnh để chiêm
ngưỡng, vừa chính là thực tại sống động ngay trong đời sống cá biệt
của mỗi người.
HM. VI. CHƯ TẠNG
THUẦN TẠP CỤ ĐỨC
Nơi đây là chỗ diễn tả rằng bản
tính của vạn hữu là gì mà ta có thể qui tụ tất cả các hoạt động
thường nhật của mình vào mỗi chiều hướng duy nhất. Bởi vì, khi nói rằng,
ta đã có một chiều hướng duy nhất của hoạt động, vậy có nghĩa là tất
cả các hoạt động ấy diễn ra theo tính cách một chiều. Chúng ta hiểu
ngay rằng đó là hoạt động theo thiên kiên cực đoan. Làm thế nào để có
thể tương ứng với lý tưởng bao dung mà ta gán cho hình ảnh của thế giới
vô tận?
Theo kiến giải thông tục, kết quả
của hoạt động thường có tính cách tương phản: một bên là sự hủy
diệt và một bên là sự thành tựu. Người ta giải thích, và cố giải
thích một cách thông thiết, như sau. Sự sống và trưởng thành là những
giai đoạn kinh dinh vừa thảm đạm vừa huy hoàng, vì phải nỗ lực tự hủy
ở nơi này để thành tựu ở nơi khác; rồi sau sự thanh tựu ấy, lại phải
tự hủy để thành tựu. Bởi vì đây là một tình cảm vừa thống thiết
vừa nồng nàn đối với sự sống; do đó người ta phải đố kỵ với tất
cả những kiến giải chống lại luật tương phản. Tương phản là hữu
lý hay vô lý không được đặt thành vấn đề. Điều quan yếu là phải
thừa nhận nó, vì ý thức sinh tồn.
Trong mọi trường hợp, sự hình
thành của một kiến giải chỉ là do hậu quả của phân biệt, hay phân
tích. Để thực hiện điều này, ngưòi ta cần có những khái niệm thật
phân minh. Còn ở cái cảm giác nửa đen nửa trắng về đời sống, thì những
sự thật phân minh như vậy hình như có rất nhiều tai hại. Dù sao, nơi đây
cúng ta không loại bỏ thái độ biện minh, biện giải. Để được thong
dong trong môi trường của kiến giải này chúng ta phải tiên liệu các hậu
quả tác hại của nó. Trên kia, chúng ta đã từng nói, sự thật không xảy
ra như là hậu quả hay hiệu quả của trật tự – trật tự của kiến giải.
Bằng một thái độ quả quyết vừa
kể, chúng ta khởi sự phân tích ý nghĩa của tương phản.
Thoạt tiên ta căn cứ vào vân động
tính mà nói tương phản. Vận động tính bộc lộ hai khái niệm là tương
tục và tương tợ. Nơi đây, chúng ta sẽ có các qui cũ để diễn đạt về
sự thể, theo đó, sự thể như là thực tại của vận động tính.
Các qui cũ đựơc thiết lập như
sau:
1.Hữu vi và vô vi.
Trên tác dụng của vận động tính,
các sự thể tất yếu bị chi phối bởi định luật sinh thành và hủy diệt.
Như vậy sự thể và thực tại được thiết lập theo điều kiện, tức là
theo một trật tự cố định của thời gian trong chiều dọc, và trật tự
của các vị tương giao trong chiều ngang. Nói cách khác, điều kiện căn bản
là tương tục và tương tợ. Thực tại được phối trí theo qui cũ này gọi
là hữu vi.
Trong tự thể của vận động tính,
cứu cánh của tất cả các tác dụng của nó là tịch diệt. Hình ảnh cuối
cùng của thực tại mà ta có thể có, tất yếu là một hình ảnh vĩnh cửu;
vĩnh cửu của đồng nhất, hiểu theo nghĩa, luôn luôn là đồng thời và
nhất như với chính nó. Thực tại được nhìn thấy trong khía cạnh này gọi
là vô vi, cái không bị tạo tác, không bị chi phối bởi các điều kiện
tạo tác. Bởi vì sự thể tiếp nối chính nó, vĩnh viễn đồng thời với
chính nó; kế đến, sự thể tương tợ với chính nó, nó như là nó, vĩnh
viễn nhất như với chính nó.
Khởi lên để tồn tại và biến mất;
và biến mất để sự thể tự đồng nhất với chính nó. Trên nguyên tắc,
đây là hình ảnh tương phản của cặp đồng và dị. Nguyên tắc này được
diễn dịch thảnh hình ảnh tương phản là sinh thành trong hủy diệt; hủy
diệt trong sinh thành.
2. Phân tán và tụ tập.
Sinh thành và hủy diệt diễn ra
trong một quá trình có trật tự tiếp nối, gọi là phân tán. Sự thể,
vì tác dụng, tự nó phân tán thành nhiều mảnh vụn, tạo thành hình ảnh
của một thực tại luôn luôn sai biệt. Quá trình này diễn tiến theo một
qui cũ ứơc định sẵn, được tìm thấy ngay trong bản tính hiện hữu. Thực
tại sai biệt ở quá trình diễn tiến, từ sinh thành đến hủy diệt, hủy
diệt để sinh thành, là biểu lộ của bản tính hiện hữu trên mặt tác
dụng. Sự biểu lộ như vậy chính là khả năng tụ tập. Toàn thể quá
trình vận chuyển vừa phân tán sự thể thành một thực tại sai biệt vừa
tụ tập thành một thực tại đồng nhất. Ý nghĩa của tương phản không
phải chỉ áp dụng trên mặt tác dụng, mà còn định bản tính hiện hữu
của tự thể: tự thể vừa tự hủy; tự thành để được thấy nó như
là nó; tự hủy để được thấy nó không phải là nó.
3. Hữu hạn và vô cùng.
Xóa bỏ tác dụng, chúng ta có giới
hạn khép kín của thực tại. Thực tại trong tác dụng của vận động tính,
vì luôn luôn sai biệt và sai biệt nên vô cùng, và như vậy gây ra một
hình ảnh tạp loạn.
Hữu hạn và vô cùng, ở đây, chỉ
được coi như hai nguyên tắc lập luận. Chúng cho thấy trong một giới hạn
nào thì những cặp tương phản mà ta thấy có, chỉ là có do suy luận và
phân tích; và trong một giới hạn nào ta tin được đó chính là khả năng
mà ta có thể vận dụng để sinh hoạt trong một thế giới cộng đồng, vừa
tương ứng vừa tương nhượng.
Giới hạn thứ nhất, vì ta phải vận
dụng nguyên tắc suy luận là đồng và dị để thiết lập một hình ảnh
vừa sai biệt vừa vô sai biệt của thực tại. Làm như thế, tức là ta đã
phân phối tất cả những gì mình gặp trong một trật tự cố định; ta
chia cắt chúng thành những biệt lập, tạo cho mỗi cái một giới hạn của
thời và xứ. Sau đó mới đặt ra mối liên hệ của chúng. Nếu không thực
hiện như vậy, vạn hữu ở trong tình trạng tạp loạn, tức là vô cùng.
Giữa sự tương phản như vậy, ta không chọn một trong hai, nhưng nói rằng
vừa hữu hạn và vừa vô cùng.
Chúng ta thấy rõ, những phân tích
cặp đôi như hữu vi và vô vi, phân tán và tụ tập, hữu hạn và vô
cùng, chỉ đáng được coi như là hậu quả của khái niệm tương phản,
trong văn mạch ở đây. Những nơi khác có thể là không: vì tính cách đa
dâng và hàm hồ của ngôn ngữ; chúng tùy thuộc phương thức vận dụng của
ta, không tùy thuộc vào bản tính hiện hữu của thực tại. Nếu thế làm
thế nào để trả lời cho vấn đề đặt ra, theo đó, bản tính của vạn
hữu là gì mà ta có thể qui tụ tất cả các hoạt động thường nhật vào
mỗi chiều hướng duy nhất?
Để thỏa mãn cái ước mong đó,
chúng ta tạo ra hình ảnh phản chiếu của vạn hữu. Trong phạm vi diễn dịch
của suy luận chúng ta mô tả như sau.
Khi ta khởi lên mộthoạt động, thì
trong đó phản ảnh tất cả các hoạt động khác. Bởi vì, chúng ta biết
rằng cứu cánh mà mình muốn đạt đến, không thể đến bằng hoạt động
một chiều. Chúng ta cũng biết thêm rằng, trong một thời và xứ chỉ có
thể khởi lên một hoạt động duy nhất. Như vậy, mọi hoạt động diễn
ra có vẻ rời rạc, vụn vặt, làm thế nào mà đạt được cứu cánh như
lòng mong muốn? Vì lý do đó, chúng ta chủ trì quan điểm cho rằng bản tính
của vạn hữu là tương ứng và thích ứng; tác dụng của vạn hữu là phản
chiếu và tự chiếu. Bởi là bản tính tương ứng, nên ta có thế giới cộng
đồng của tác dụng; và bởi thích ứng, nên ta có thể hoạt động trong
thế giới đó; tùy thuận và tùy tiện mà hoạt động. Sau đó, vì phản
chiếu, các hoạt động của ta đều được hướng dẫn bởi một cứu cánh
mà mình mong muốn, và cũng vì tự chiếu, nên mỗi hoạt động tự vạch
ra chiều hướng của riêng nó trong một cứu cánh duy nhất.
Diễn tả bằng một đường lối
khác, ta nói, một hoạt động khởi lên thì tất cả các hoạt động khác,
rời rạc và vụn vặt, đều được chỉ định theo một chiều hướng
chung của hoạt động này. Như vậy gọi là Thuần. Dù vậy, mỗi hoạt động
tự nó diễn tiến theo trật tự của chiều hướng cá biệt; như vậy gọi
là tạp.
Phương tiện được qui định bởi
cứu cánh và cứu cánh được bộc lộ ngay ở phương tiện.
HM. VII. NHẤT ĐA
TƯƠNG DUNG BẤT ĐỒNG
Thế giới đã được thiết lập
ở đó, và đã trở thành một đối tượng cho ta chiêm ngưỡng. Chúng ta
muốn nó là một thực tại sống động, đa dạng và phong phú. Ước muốn
đó hình như đã thực hiện được, ngay cả trong các hoạt động bình thường.
Những hình ảnh, những điều không như ý, những phiền muộn, những xung
đột, tương tranh, vân vân, kể tất cả những gì đã xảy ra cho ta và
đang chờ đợi điều kiện để xảy ra nữa; chúng ta thâu thập tất cả,
như thâu thập một mớ hoa hỗn độn. Rồi bằng khả năng phân tích của
trí tuệ, ta đặt cho mỗi sự kiện một danh nghĩa và một phận sự. Sau
đó, thế giới trở thành môi trường để ta chứng thực khả năng và
tác dụng không giới hạn của chính mình. Nghĩa là chúng ta ước lượng
khả năng sáng tạo của mình trong một thế giới được coi như là mộng
ảo từ đầu đến cuối. Nói rằng thế giới của ta, tức là nói rằng
thế giới chính là ta. Muốn vậy, ta khởi sự bằng cách dồn tất cả thế
giới vào một mảnh vụn rời rạc; mảnh vụn đó chính là ta, và tất cả
sự sống của ta. Điều quan yếu ở đây vẫn là không đảo lộn trật tự
đã an bài của thế giới. Như vậy, chúng ta khởi đầu thực hiện ước
vọng về khả năng sáng tạo vô biên của mình bằng một chủ kiến. Chủ
kiến này được gọi là "Nhất đa tương dung bất đồng". Giải
thích một cách vắn tắt: cái Một và cái Nhiều chứa đựng lẫn nhau, mà
vẫn giữ nguyên sắc thái bất đồng; cái Một vẫn là cái Nhỏ vụn vặt,
cái Nhiều vẫn là cái Lớn có trật tự.
Chúng ta giải thích chủ kiến bằng
thể tài của tư biện: Nhất thể và Phức thể. Đầu tiên, ta gợi ý từ
cách đếm. Số mười là con số thành mà ta bắt đầu từ một. Theo chiều
hướng thượng, từ một đến mười, ta nói Nhất thể qui chiếu vào toàn
thể, trong đó Phức thể được an bài. Theo chiều hướng hạ, toàn thể
phân tán thành Phức thể, từ đó thiết lập Nhất thể Lý luận sẽ được
quảng diễn theo hai chiều hướng thượng và hướng hạ như vừa kể.
1. Hướng thượng.
Trong chiều này, ta có hai khái niệm
tăng và thuận chúng gợi ra hình
ảnh của một quá trình vận chuyển.
Đó là một quá trình đi tới. Nơi đây người ta sẽ phác họa được sự
diễn tiến của tác dụng dị biệt, khởi điểm cho đến cứu cánh. Bởi
vì trong dòng vận chuyển, mỗi giai đoạn là sự xuất hiện của một cái
gì mới. Nhất thể luôn luôn đổi mới; dù vậy, sự đổi mới chỉ diễn
ra trên mặt tác dụng. Như vậy, vì có tác dụng nên nhất thể trở thành
cá biệt và sai biệt, nhưng vì tăng tiến theo chiều thuận, thực tại của
sai biệt và sai biệt được gọi là Phức thể. Khi Phức thể xuất hiện
theo tính cách đồng thời, ta có hình ảnh về một toàn thể. Đó là con
đường từ Nhất thể cá biệt tiến lên hàng toàn thể ngang qua Phức thể.
Diễn tiến này ta cũng có thể gọi là theo chiều dọc. Bởi vì tiến tới,
nên gọi là tăng. Tiến thời theo chiều dọc nên gọi là thuận.
2. Hướng hạ.
Trong chiều này, ta cũng có hai khái
niệm then chốt, nhưng tương phản với trên: giảm và nghịch. Thoạt tiên,
chúng ta có cảm tưởng rằng, vì khi toàn thể là cái Lớn mà trở thành
Nhất thể là cái Nhỏ, tất nhiên sự trở thành ấy diễn ra theo chiều
đi xuống, nên ta có giảm số và nghịch số. Cảm tưởng này không quan hệ
với lối diễn tả ở đây.
Toàn thể mà ta đạt đến, được
coi như là thể tính vô hạn vô phân biệt; tức là một nhất thể vô hạn
của vô số Nhất thể cá biệt. Theo ý nghĩa đó, Toàn thể là hình ảnh
trừu tượng của vĩnh cửu. Để đẩy nó vào môi trường hiện thực,
trong đó tất cả phải chịu sự chi phối của định luật vô thường.
Như thế, cần phải có một nỗ lực nào đó gợi lên trước hình ảnh sống
động của toàn thể; hình ảnh của một thực tại tuyệt đối và vĩnh cửu,
vô hạn, vô phân biệt, nhưng lại hàm chứa vận động tính để khởi lên
mọi tác dụng dưới thôi thúc của định luật vô thường. Nỗ lực đầu
tiên là phân tán Toàn thể thành vô số mảnh vụn. Kết quả là hình ảnh
của một thế giới hỗn độn, vô trật tự. Vậy, nỗ lực tiếp theo là
kết hợp vô số mảnh vụn ấy; nhưng không kết hợp chúng thành một khối
đồng nhất. Mỗi mảnh vụn được cố định trên từng vị trí cá biệt,
chúng kết hợp với nhau bằng phản chiếu. Sau khi phân phối xong trật tự,
ta sẽ có hình ảnh của Nhất thể cá biệt. Kết quả cuối mà ta mong đợi
là trật tự của thế giới hỗn độn được phối trí theo từng nhất thể
cá biệt.
Giảm và nghịch, trong chiều hướng
hạ này, chỉ là phương thức vận dụng, chúng không có ảnh hưởng gì đến
nội dung của diễn tiến.
Giữa Nhất thể và Toàn thể, hay
giữa Nhất thể cá biệt và Nhất thể vô phân biệt, có một môi trường
trung gian: môi trường hiện hữu của Phức thể. Từ môi trường này nhìn
lên Nhất thể vô hạn hay toàn thể, được coi như là Tổng thể của vô
số sai biệt. Cùng từ đó nhìn xuống, Nhất thể cá biệt là thành phần
của một Toàn thể vô phân biệt. Môi trường này được thiết lập bằng
giả tưởng. Nếu gạt bỏ nó đi, hoặc ta có hình ảnh về một thế giới
sống động, nhưng lại là hỗn độn vì vô số mảnh vụn rời rạc. Sau
khi qua môi trường trung gian, ta đạt được một thế giới Toàn diện nhưng
sống động. Từ đây, ta nói là thế giới mà ta muốn có để chiêm ngưỡng
thì đây là hình ảnh của một thế giới mà trong đó tất cả những
hình ảnh sai biệt cùng phản chiếu trong mỗi một sự vật vi tiểu.
Thực sự, chúng ta đã nói là một
thế giới để chiêm ngưỡng và hình của một thế giới như vậy làm thỏa
mãn khát vọng của chúng ta; vì thế, chúng ta chưa xét đến tác dụng thực
tế của nó. Vấn đề sẽ được diễn tả ở mục kế tiếp.
HM. VIII. CHƯ
PHÁP TƯƠNG TỨC TẠI.
Giới hạn cá biệt đã được phân
định, bấy giờ bằng vào danh phận cá biệt, ta có thể đẩy chúng vào
thế giới cộng đồng hợp tác. Chúng hợp tác để mang lại cho thế giới
một hình ảnh sống động, mà thoạt kỳ thủy, chỉ được dựng lên bằng
khái niệm giả tưởng. Tác dụng cộng đồng sẽ nói lên ý nghĩa cứu cánh
của thế giới. Người ta cố gắng đạt đến bản tính hiện hữu của
các sự thể bằng tương giao nội tại; tức là cố gắng đạt đến một
tri kiến, theo đó, thể tính của sự hữu được bộc lộ ngay ở tác dụng
của nó. Bởi vì không thể tìm thấy sự tương giao của vạn hữu trên một
bình diện duy nhất, ta phải tách mỗi một sự hữu ra làm đôi nên có đến
hai bình diện tương giao: tương giao nội tại và tương giao ngoại tại.
Cũng vậy, vì tác dụng thực tế được qui định bởi khả năng tương
giao, do đó chúng ta cũng có hai bình diện tác dụng: tác dụng nội tại
và tác dụng ngoại tại. Nói cách khác, khởi đi từ tri kiến thông tục,
chúng ta đối diện ngay với một thế giới hai mảnh như hai cánh cửa; thế
giới nội tại và thế giới ngoại tại.
Sự phân chia vừa kể xem ra chẳng
có giá trị gì hết, vì đó là một định kiến cần phải loại bỏ. Tuy
nhiên ở đây phải phân chia như vậy, vì đã có chủ định. Chủ định này
sẽ được thấy rõ ở sau.
1. Tương giao ngoại tại.
Qui định phần vị sai biệt của vạn
hữu để đạt đến sự kết hợp của chúng trong thế giới cộng đồng
hợp tác. Qui định tính cách tương tại và tương thị của vạn hữu để
đào sâu vào căn cơ của thế giới đó. Chúng ta đã y cứ vào khả năng
phân tích của trí tuệ mà thực hiện trình tự diễn tiến như vậy. Hình
ảnh của một thế giới mà chúng ta đã có là hình ảnh tương giao ngoại
tại của vạn hữu. Đó là khởi nguyên của tất cả ý niệm đối đãi;
nhưng không nói là đối đãi theo tính cách đối lập và song hành; chính yếu
là sự đối đãi giữa phần tối và phần sáng, phần ẩn và phần hiển,
vân vân. Những đối đãi như vậy khởi từ lãnh vực của tương giao ngoại
tại, đáng được coi là tiêu chuẩn ước lượng thế lực ảnh hưởng của
vận động tính. Bởi vì, trong lãnh vực này, ta chỉ thấy vận động tính
như đã gây ra thế lực phân tán. Vạn hữu được phân tán thành vô số
mảnh vụn, cố định trong từng vị trí sai biệt nhưng dư lực của phân
tán vẫn tiếp tục gây ảnh hưởng, do đó các mảnh vụn trong các vị
trí sai biệt được liên kết thành thế tương giao. Vận động tính vẫn
tiếp tục gây ảnh hưởng; dưới thế lực ảnh hưởng này, các mảnh vụn
sai biệt không ngừng biến thiên; chúng di chuyển theo trật tự đã định
sẵn. Chúng được liên kết với nhau, vì ta nói chúng hiện hữu trong một
thế giới tương ứng. Chúng di chuyển, vì ta nói đó là hiện hữu trong một
thế giới tương nhượng. Thế giới ấy là tương ứng, vì tác dụng của
vận động tính không diễn ra như là thực tại độc lập. Có tác dụng
vì có tương quan. Thế giới của tương ứng là thế giới của đồng khởi,
đồng hành và đồng diệt. Nơi đây, chúng ta bắt gặp lại hình ảnh phản
chiếu của vạn hữu. Nghĩa là, tiên khởi, chúng ta giả thiết một hình
ảnh phản chiếu như là căn cơ phân tích các tác dụng và thế lực của
tác dụng. Hình ảnh đó gợi lên khả năng liên kết của vạn hữu. Sau đó
là những khái niệm như tương ứng, tương nhượng, đồng khởi, đồng hành
và đồng diệt. Có thể nói khác. Tức là, trên một căn cơ mệnh danh là
thế giới của tưng ứng, vạn hữu gây ảnh hưởng tác dụng lẫn nhau bằng
tính cách tương nhượng. Do tương nhượng, chúng đồng khởi và đồng diệt.
Ta gọi những điều vừa nói là mô tả về tương giao ngoại tại. Gọi là
mô tả, vì nơi đây là đối tượng của chiếm ngưỡng. Vận động tính
như là thế lực tự hữu, và ngoại tại đối với ta, do đó, trật tự của
thế giới chưa phải là hình ảnh mong muốn. Điều ta mong muốn là vạn hữu
đồng khởi và đồng diệt trong ta, tức là chính ta. Mong muốn như vậy là
nỗ lực thiết lập qui tắc phản chiếu giữa ta và thế giới; cho đến
khi phóng nhãn quan vào đó, tức thì thấy được định mệnh lịch sử cá
biệt của ta. Bấy giờ, thế giới là hình ảnh của mộng ảo, và ta cũng
là một hình ảnh mộng ảo thực sự, nhưng thế lực tác dụng của ta và
của thế giới trong tương giao ngoại tại đã thiết lập được lý tắc
nhân quả; ta và thế giới đều vận dụng thế lực của mình theo một
qui cũ; qui cũ này là sự sáng tạo từ mộng ảo. Từ đó, dù thế giới
mà chúng ta đã gọi là hình ảnh của chiêm ngưỡng không có một nộ褐dung thực tế nào hết, nhưng vẫn hợp lý mọi mặt và
bất cứ bằng cách nào ta phải nỗ lực cho đến chỗ hợp lý của nó. Ta
nói như người nói trong chiêm bao. Vì đó là khả năng sáng tạo của mộng
ảo, của hư vô; không có tác giả.
2. Tương giao nội tại.
Chúng ta lại đảo lộn bình diện
lập ngôn, Gọi là đảo lộn, do bởi khái niệm tương phản giữa nội và
ngoại. Tác dụng trong thế giới tươnggiao ngoại tại là đồng khởi, đồng
hành. Nơi lãnh vực nội tại, tác dụng diễn ra như là tự hữu, cá biệt.
Thế lực của tác dụng không gây ảnh hưởng trên những cái khác ở
ngoài, mà qui chiếu ngay trên cái đang thực hiện thế lực của tác dụng.
Như vậy, sự thể phân tán nó thành những dị biệt, rải rác trong những
giới hạn phân biệt của thời gian. Điều này gợi lên ý niệm cho rằng
cái tự hữu cá biệt thì không hiện hữu. Tư hữu cá biệt trong các giới
hạn phân biệt của thời gian thì không vận động với tư cách là một tự
thể tự hữu. Bởi vì, nơi giới hạn phân biệt vá cá biệt này, tự thể
mà không tự phân tán thành nhiều mảnh vụn, thì sự vận chuyển của nó
trong các giới hạn của thời chỉ được coi như là sự di chuyển trên
các vị trí của xứ.
Đến đây, chúng ta vạch ra hai thế
giới thực sự. Trong các giới hạn của thời, sự thể được coi như hiện
hữu trong thế nội tại. Trong các vị trí của xứ, sự thể được coi
như xuất trong thế giới ngoại tại. Thế giới như một Toàn thể được
phân tán thành vô số cá biệt để phối trí trật tự của tương giao ngoại
tại. Tự thể cá biệt như một toàn thể cũng tự phân tán thành vô số
cá biệt để thiết lập trật tự của tương giao nội tại. Nơi đây, tương
giao nội tại chỉ mới được hiểu như là thế lực tác dụng của tự
thể gây ảnh hưởng tác dụng trên chính nó. Dù sao, chúngta cũng nói thêm
vài dòng nữa về tương giao khép kín này, cho đến khi nào cảm thấy có
thể mở được cánh cửa giao thông giữa trong và ngoài, sau đó mới nhìn
lại kết quả đạt được là gì.
Chúng ta sẽ khởi sự bằng phương
pháp tiệm tiến. Nghĩa là khởi đầu bằng một trật tự được phân phối
theo chiều dọc.
Đây là giới hạn phân biệt của
thời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Chúng ta đặt các tiêu chỉ cho ba giới
hạn, và thử hỏi: thế lực nào đã thúc đẩy sự thể hiện hữu ở đây?
Sự lôi kéo của quá khứ và sự thúc đẩy của vị lai. Nói theo một sáo
ngữ: đến để mà đi, và đi là đi mất. Ta có hình ảnh của một cái cố
định nhưng không ngớt biến chuyển. Ngay tại một vị trí cố định,
vĩnh viễn cố định, cái xuất hiện và biến mất và xuất hiện. Giống
như ánh sáng liên tục tự hủy để có tác dụng chiếu sáng. Nói đến tác
dụng thực tế là nói đến sự việc chẻ một tự thể cá biệt ra làm
hai. Nó tự tranh chấp với nó, tạo thành hai thế lực là lôi kéo và thúc
đẩy. Cái vừa khởi lên tức thì biến mất, vị trí xuất hiện trở
thành khoảng trống thu hút sự sinh khởi nữa; bởi vì cái quá khứ tức
là cái đi qua và vĩnh viễn đi qua. Nó không ngừng tạo ra khoảng trống
thu hút những cái đang chờ đợi để cũng đi qua nữa.
Vị lai là cái sắp đến, luôn
luôn sắp đến, vĩnh viễn chờ đợi để xuất hiện hiện tại. Ta gợi
ý thì đó nên nói cái đang xuất hiện nơi này – hiện tại – là do sự
thúc đẩy của cái luôn luôn chờ đợi để xuất hiện.
Nói tóm lại, tự thể tự hữu và
cá biệt tự phân tách thành hai thế lực đối chọi, vừa thu hút vừa
thúc đẩy; như vậy là nó tự tạo ra một hình ảnh bị phân tán thành ra
vô số mảnh vụn.
Dưới thế lực thúc đẩy, tự thể
tự phân tán thành vô số mảnh vụn: tự thể thực hiện thế lực của
nó trên căn cơ dị biệt tính Đằng khác, dưới thế lực thu hút,vô số
mảnh vụn này được tụ tập lại trong khoảng trống vô biên của quá khứ:
tự thể thực hiện thế lực trên căn cơ đồng nhất tính.
Chúng ta chưa bao giờ đạt được
một kết quả như đã từng mong muốn. Sau khi thực hiện được vài bước,
quay nhìn trở lại, tự thấy vẫn đứng nguyên vị, trên hai nguyên tắc của
phân biệt: đồng nhất tính và dị biệt tính. Chúng ta đã tự khép kín
nhãn quan của mình lại: phía trước là bức tường của dị biệt tính
và phía sau là đồng nhất tính. Không qui định nổi giới hạn cá biệt của
vạn hữu để tìm thâý các tương giao tác dụng của chúng; nội tại cũng
như ngoại tại; luôn luôn giới hạn mà ta tưởng là đã thiết lập được
để đặt vạn hữu vào đó, khi nhìn lại – vì là phản chiếu – chính
ta ở trong giới hạn đó, chứ không phải một sự thể nào khác. Nếu khởi
đi từ đó, thế giới vô tận quả thực chỉ là một hình ảnh phóng đại.
Dù vậy, chúng ta vẫn cố đeo đuổi
hình ảnh lý tưởng của một thế giới vô tận, và cố tạo cho chúng nội
dung sống động. Bởi vì, sau khi vận dụng phương thức tiệm tiến, chúng
ta nỗ lực trong phương thức đốn ngộ. Ta lại thêm một lần khởi sự từ
đầu. Tiệm tiến tức là không có diễn tiến.
Khởi sự lại từ đầu tức là quả
quyết rằng thế giới chính là ta, và ta chính là thế giới, không có giới
hạn phân biệt. Ta lại tiến tới quả quyết cực đoan hơn nữa, theo đó,
không có tương giao ngoại tại và nội tại gì hết. Một quả quyết cực
đoan như vậy muốn nói gì? Vì là cực đoan, nó không nói gì hết. Lời
nói diễn tả ý nghĩa, nhưng ý nghĩa không nằm trong lời nói. Căn cơ trên
đó ta là thế giới, là căn cơ tịch diệt, văng vẻ, vô thanh vô tức. Rồi
cũng từ nơi quả quyết cực đoan này – ta là thế giới – ta phát hiện
ra ý nghĩa của thế lực tương giao, cùng lúc, phát hiện tính cách phản
chiếu và tự chiếu của vạn hữu.
Chúng ta không còn giữa ý định
qui định tác dụng thực tế của các thế lực tương giao nữa. Cái mà ta
muốn qui định đã trở thành bất định. Vận động tính thực hiện thế
lực tác dụng của nó trong một thế giới không có căn cơ; thực hiện
trong một chiều hướng không có cứu cánh. Không căn cơ, không cứu cánh,
do đó không có tác giả. Những giới hạn được phân biệt trong tính
cách khép kín vẫn không có đường lối giao thông. Chính do thế lực tác
dụng của mỗi tự thể tạo thành thế giới của những tương giao. Qua thế
lực tác dụng này người ta thiết lập ý nghĩa tương tức tự tại: Một
tức là Một; Một tức là Tất cả; Tất cả tức là Tất cả và Tất cả
là một.
HM. IX. DUY
TÂM HỒI CHUYỂN THIỆN THÀNH
Hình ảnh của thế giới trùng
trùng vô tận bao giờ cũng dẫy đầy tính chất mộng tưởng, nếu từ
sinh hoạt thực tế thường nhật mà nhìn lên. Ngoài tác dụng của tâm,
không thấy đâu là khả năng sáng tạo nên một thế giới mộng tưởng
như vậy. Kinh nói: "Sự hư huyễn của thế gian do một tâm tạo tác
ra". Đâu là chiều hướng tác dụng của tâm. Và bằng khả năng nào
mà tâm tạo dựng một thế giới mộng tưởng? Và đâu là giới hạn mộng
tưởng của thế giới mộng tưởng đó?
1.- Tác dụng như là căn cơ sinh thành
và hủy diệt.
Chưa phải lúc chúng ta quả quyết
rằng tác dụng của tâm là thiết lập và hủy diệt thế giới. Dù vậy,
mọi biến động của thế giới được công nhận bằng cách qui chiếu
vào tác dụng của tâm. Thế giới trước mắt chúng ta chỉ là hình ảnh của
một trật tự được phối trí bằng tương giao ngoại tại. Sự vật này
liên tiếp sự vật khác diễn thành một trật tự an bài cố định. Chúng
khởi lên nơi này và biến mất chỗ khác; khởi và diệt không do thế lực
tác động từ trong lòng của chúng. Hình như ta phải quả quyết một thế
lực tuyệt đối đứng chủ trì tất cả hoạt động khởi và diệt của
vạn hữu. Qua quyết này muốn nói rằng, vạn hữu hoạt động trong các
chiều hướng khởi và diệt có nghĩa là vận chuyển qua các vị trí sai biệt
trong lòng của thế lực tuyệt đối. Những gì mệnh danh là hợp lý, và
ta nỗ lực cho sự hợp lý đó – sự hợp lý của trật tự vận chuyển;
chúng phải được qui chiếu vào thế lực tuyệt đối. Thế lực mà tuyệt
đối, tức là độc nhất, chỉ có moật căn cơ duy nhất và chân lý chỉ
có một, không hai.
Có một lúc, ta không nói đến vận
chuyển của các sự vật mà ta bắt gặp trong thế giới tương giao ngoại
tại. Nhưng ta biết rõ tính cách vận chuyển của tâm. Thực sụ, chúng ta
soi thấu bản tính vận chuyển của đó. Chỉ vì các hình ảnh ta thâu nhận
từ thế giới tương giao ngoại tại liên tục xuất hiện và biến mất
theo tác dụng của tâm; rồi căn cứ theo đó mà qui định tính cách vận
chuyển của tâm. Trong tác dụng này, một tự thể tự hữu và cá biệt vẫn
liên tục xuất hiện và biến mất; và do tác dụng của tâm mà liên tục
tính của sự thể đó được duy trì. Nơi đây ta nói thế giới không ngớt
biến động, bởi vì hình ảnh của thế giới trong tác dụng của tâm ta
không ngớt biến động. Tác dụng của tâm như là căn cơ hợp lý của tất
cả ý nghĩa sinh thành và hủy diệt.
2. Tác dụng như là căn cơ của nhân
quả.
Nhân quả chúng ta thấy được từ
thế giới tương giao ngoại tại không bộc lộ ý nghĩa tương sinh. Một sự
thể trên một vị trí tự phân tán thành hai bên hai vị trí; cái đó chỉ
đáng gọi là tương thành, không thể gọi là tương sinh. Tương thành lại
chỉ đáng coi là đối đãi, không thực sự là tác dụng nhân quả. Nguời
ta vẫn có thể hiểu rằng tác dụng nhân quả có hai chiều là tương thành
trong chiều ngang và tương sinh trong chiều dọc. Dù vậy, nếu không suy diễn
từ tính cách tương sinh, thì tương thành chẳng có ý nghĩa gì hết. Chúng
ta đạt được tác dụng của nhân quả bằng cách khám phá ra rằng sự thể
tự phân tán thành nhiều giới hạn sai biệt của thời gian. Do giới hạn
sai biệt này sự vật trở thành sai biệt với chính nó về tự thể, về
sự tướng và về tác dụng; nói cách khác, sai biệt toàn diện như vậy,
phải khám phá ra tính cách vận chuyển của sự vật trong chiều dọc của
nó mới qui định được tác dụng nhân quả. Thực sự, chiều dọc của
thế giới là hình ảnh phản chiếu từ tác dụng vận chuyển của tâm. Ta
tìm thấy hiệu lực của tác dụng nhân quả bằng tự tâm, trong tự tâm:
tác dụng của tâm như là căn cơ của nhân quả.
3. Khả năng sáng tạo thế giới mộng
tưởng từ hư vô.
Mặc dù căn cơ của mọi tác dụng
có hiệu lực, nhưng tâm không thực hiện các tác dụng với tư cách một
bản ngã tuyệt đối. Nó không có một nội dung nào hết. Hình ảnh của
nó là hình ảnh phản chiếu của thế giới. Trước hết là hình ảnh của
quá khứ. Hình ảnh của một thế giới đã biến mất được kết tụ thành
nội dung của tâm làm đối tượng cho các tri kiến phân tích và phân biệt.
Tiếp theo là hình ảnh vị lai. Hình ảnh của một thế giới sẽ xuất hiện
phản chiếu trong tác dụng của tâm tạo cho nó một nội dung trống rỗng;
đó là khả tính dung nạp của tâm. Sau hết hình ảnh của thế giới hiện
tại; đứng giữa nội dung đầy và rỗng của tâm; đó là khả tính của
vận chuyển.
Nội dung cụ thể của tâm là hình
ảnh phản chiếu của thế giới; nội dung sống thực của thế giới là
thế lực tác dụng của tâm. Ta nói thế giới đó là mộng tưởng, vì lấy
tác dụng của tâm làm nội dung sống thực. Ta lại nói tác dụng của tâm
khởi lên từ hư vô, vì nội dung đó chỉ là hình ảnh phản chiếu của
thế giới. Thêm nữa, ta nói, thế giới do tâm tạo tác tức là thế giới
tự tác và tự thành. Sau hết, chúng ta nói, thế lực tác dụng của tâm
là khả năng sáng tạo thế giới mộng tưởng từ hư vô.
Đâu là giới hạn thực tế và mộng
tưởng của thế giới tự tác và tự thành này?
HM. X. THÁC SỰ HIỂN
PHÁP SANH GIẢI
Tất cà những phân biệt của
chúng ta chỉ có tính cách tượng trưng. Trước một yêu sách tuyệt đối;
chúng ta phải nỗ lực đi cho tận cùng biên tế của ngôn ngữ, của tâm
hành và của thế giới. Càng lúc ta càng bị lôi cuốn vào một nơi đầy
những chi tiết vụn vặt. Dù không muốn sự phân tích trở thành tạp loạn
và rời rạc; tất cả những hình ảnh đạt được không biểu lộ cho một
ý nghĩa nào hết, ngoài sự biểu lộ một ước vọng, một chủ đích đã
được nêu lên từ trước. Chủ đích đó la muốn thấy và hiểu những
gì thầm kín nhất tàng ẩn trong ta. Gọi chúng là những năng lực tiềm tàng;
năng lực biến hư vô thành tựu sự hữu; thành tựu tất cả sự hữu từ
hư vô. A믠tưởng và sự thật không còn một
giới hạn phân biệt nào nữa. A믍 tưởng và
sự thật được phân phối có điều độ, và được sử dụng như là phương
tiện xảo diện: nỗ lực để thấy và hiểu ý nghĩa cứu cánh ngay trong
giới hạn thông tục của sự thật.
Từ lúc khởi đầu, những gì ta muốn
thấy và hiểu đều mang đầy tính chất dự tưởng, và nhất định là
ảo tưởng. Bởi vì không một sự thật nào trong tri kiến thông tục của
chúng ta khả dĩ minh chứng. Nói năng và suy nghĩ như đếm dấu chân của một
đàn chim vừa bay ngang qua hư không. Quả thật, chúng ta đã tạo ra một
hình ảnh của thế giới, rồi sau đó phân tích, phân loại, phân phối trật
tự, với cảm tưởng rằng thế giới đó như vậy, trong giới hạn thực
tê của nó. Về sau, lại kiểm chứng hiệu lực của những điều đã thực
hiện được. Tất cả mọi việc xảy ra đối với ta có vẻ sự thực hiển
nhiên là như vậy.
Dù vậy, ít ra chúng ta cũng hiểu từ
đâu thôi thúc. Đây là sự quyến rủ của mặt biển mênh mông vô hạn:
Làm thế nào để thấy trọn vẹn cái vô hạn này như thấy một trái
xoài trong tay? Đây là tiếng đổ ầm trong những đêm tối: nó mang ẩn nghĩa
nào của thế giới? Trên những ngàn cao, cọng cỏ non đang ra sức chống
trả nạn bão: đạu là giới hạn của sức mạnh?
Thấy và hiểu là bước khởi đầu
của khát vọng thầm kín trong ta. Những bước kế tiếp là thực hiện tất
cả sự thấy và hiểu đó; thực hiện trong nỗ lực thiết lập trật tự
của ngôn ngữ của tâm hành và của thế giới; thiết lập mối quan hệ mật
thiết giữa chúng. Ta hy vọng là tìm thấy khát vọng nào đó trong những
thiết lập như vậy. Tìm thấy để đối trị hoặc thỏa mãn. Như thế, tất
cả kinh nghiệm sống thực của chúng ta chỉ là những thí dụ điển hình:
không có sự thực và biên tế của sự thực nào ở trong đó cả. Mặt biển
là thí dụ điển hình của vô nạn. Ngọn thác từ trên cao đổ xuống là
thí dụ điển hình cho sự suy sụp của thế giới.
Như vậy, căn cứ trên dị thể và
đồng thể, tác dụng của tâm hành lấy thực tại kinh nghiệm làm nội
dung cụ thể, rồi từ đó thiết lập trật tự của ngôn ngữ. Trật tự
này phản chiếu trên các tác dụng của tâm hành. Trật tự của thế giới
được ghi nhận theo các tác dụng này. Đó là khả tính, khả năng của thí
dụ. Ta có thí dụ, sự diễn tả của ngôn ngữ càng có thế lực. Nơi đây
là chỗ thiết lập qui ước cho mọi tác dụng trong thế giới sinh hoạt cộng
đồng.
Sa môn Tịnh Nguyên, trong bản giải
thích Kim sư tử chương của Hiền Thủ quốc sư, mở đầu viết: "Chánh
pháp mà không có thí dụ thì không tỏ rõ. Thí dụ không y theo Chánh pháp
thì không thể có. Vì vậy bậc chí nhân thấy rạng bản tánh Nhất chân
không có chút nào sai khác; ngài đem con sư tử bằng vàng ra mà mô tả. Thấy
phẩm chất của quần sinh không đồng đều, ngài lập chương mục của chánh
pháp để hướng dẫn."
Kinh nói: "Hết thảy mọi pháp
giới trong vô số thế giới như hư không, thảy đều dùng đầu của một
sợi lông mà đo lường khắp. Mỗi một đầu của sợi lông ở ngay trong một
niệm, hóa ra vô số thân nhiều như vi trần bất khả thuyết bất khả
thuyết. . . "
Đoạn kinh này mô tả năng lực thiết
lập Chánh pháp của Phật. Chánh pháp được biểu lộ ngay nơi các sự vật
như trên đầu sợi lông, trong mỗi hạt bụi. Tùy theo căn tánh, sự tiếp
thu của chúng sanh trở nên bất đồng.
Hình ảnh của một thế giới như
đã mô tả chỉ có thể mô tả và bằng vào dự tưởng, được gợi hứng
từ khát vọng nào? Người ta phải trở lại thế giới thường nhật để
tìm thấy sự thúc đẩy của nó.
- Một cánh nhạn đang bay giữa bầu trời bát
ngát:
- Hứa đa cảnh giới hà lai khứ
- Vạn lý thiên biên nhất nhạn phi.
- Phật Quốc Thiền Sư
http://www.buddhismtoday.com/viet/triet/047-huyenmon.htm