- Quán không của Tam Luận
- Đại sư Ấn Thuận
- Thích Nguyên Chơn dịch
- (Trích từ Diệu Vân Tập)
Không là pháp quán chung của Phật
giáo, nhưng pháp quán của các nhà Trung Quán không giống với pháp quán của
các tông phái khác. Luận Đại Trí Độ 12 nêu ra 3 loại Không là Phân phá
không, Quán không và Thập bát không. "Phân phá không" tức là Tích
pháp không (Không, do phân tích) mà tông Thiên Thai đã nói. Như lấy bông
vải làm ví dụ, nếu phân tích sợi bông vải này đến cực vi, rồi phân
tích đến lúc không còn cái gì để phân tích được nữa, tức hiện ra
tướng Không, vì thế cực vi gọi là Lân hư. Đó là luận về mặt vật
chất chiếm hữu không gian; còn về thời gian thì phân tích đến sát-na, tức
một niệm ngắn nhất, không còn tướng trước sau, lại phân tích đến
khi không còn mang đặc tính của thời gian nữa, thì cũng hiện ra tướng
Không. Từ pháp Phân phá này mà phân tích đến "không" tất cả những
tồn tại trong thời gian và không gian. "Quán không" là nói từ tác
dụng của quán tâm. Như quán bông vải là xanh thì thành bông vải xanh, nếu
quán là màu vàng tức thành bông vàng ... Quán 10 biến xứ, chính là trình
bày cụ thể phương pháp này. Do phương pháp quán Không mà biết cảnh sở
quán là không. Ví dụ như chỉ một người nữ mà kẻ oán thù thấy thì
sân hận, tình nhân thấy thì yêu thích, con thấy thì kính mến, chim thú thấy
thì sợ hãi bỏ chạy. Vì thế, thương ghét, đẹp xấu đều tùy theo quán
tâm bất đồng mà thay đổi. Vì quán cảnh không thật thể nên gọi là
Quán không. Trong 18 Không thì Kinh Bát-nhã chú trọng đến Tự tánh không. Tự
tánh không là bản thể của bất cứ một pháp nào, bản thể này bất khả
đắc, mà đương thể tức không. Luận Đại Trí Độ tuy có nói đến 3 loại
Không quán, nhưng chưa phân biệt về triệt để và không triệt để. Căn
cứ theo các bộ luận của ngài Long Thọ thì 3 loại Không quán này đều
khiến cho người thấu đạt nghĩa Không. Vì thế Luận Đại Trí Độ gồm
thâu tất cả mà nói có 3 loại Không. Nếu khảo sát tỉ mỉ sự giải
thích của các pháp Đại Tiểu thừa, thì "Phân phá không" là phương
pháp thường dùng của các Luận sư A-tỳ-đạt-ma. Như Hữu bộ, dùng quán
huệ phân tích Sắc đến Lân hư, vượt khỏi Lân hư tức là Không. Nhưng
Hữu bộ không thừa nhận tất cả pháp đều Không, trái lại thừa nhận
cực vi có tự tánh. Nhờ phân tích mà biết những sự vật nào đó là giả
hợp có, những cái nào là nguyên tố (cực vi sau cùng) cho giả hữu
sở y. Đối với Tâm pháp thì cũng dùng phương pháp này để phân tích đến
một niệm sát-na. Phương pháp này đã không thể đạt đến tất cả đều
không, trái lại trở thành chỗ căn cứ cho tự tánh thật hữu. Như phân
tích cực vi đến chỗ cuối cùng là có ngôn thuyết, có phương pháp phân
tích, rồi đến có ngôn thuyết mà không thể phân tích, cũng có ngôn thuyết
có phương pháp mà không phân tích được. Nhưng thế nào đi nữa, cuối cùng
cũng là cực vi có tánh thật tại. Cổ nhân nói "Thanh gỗ 1 thước, mỗi
ngày cắt đi ãi mãi vẫn không bao giờ hết". Pháp Phân phá không, vốn
là "Tán không" nói trong Kinh A-hàm, tuy không được triệt để,
nhưng có thể làm phương tiện, vì thế ngài Long Thọ cũng có dẫn dụng.
Quán không chính là pháp quán mà
các nhà Duy Thức sử dụng. Phương pháp này các nhà Kinh bộ từ xưa đã
ứng dụng rất phổ biến. Họ nói 12 xứ (căn cảnh) không thật có,
tức thành lập cảnh Sở quán chẳng thật. Sau này các nhà Duy Thức Đại
thừa sử dụng pháp Quán không này một cách cực đoan. Như nói : "Quỷ,
bàng sanh, trời, người, mỗi mỗi tùy theo chỗ cảm ứng mà cảnh hiển hiện
sai khác, nghĩa này không chân thật". Như cá thấy nước là nhà, trời
thấy là lưu ly, quỷ thấy là máu mủ, người thấy là nước trong. Từ
điều này có thể thấy các cảnh, nhà hoặc nước v.v... chẳng thật, chỉ
là tùy theo nghiệp báo mỗi loài mà có sự nhận thức không giống nhau.
Kinh A-tỳ-đạt-ma Đại thừa, các sư Du-già đều căn cứ vào pháp này để
thuyết minh ngoại cảnh không thật có, thành lập Vô phân biệt trí, thể
chứng tự tánh ly ngôn. Điều này có thể tham khảo trong Luận Nhiếp Đại
Thừa thì rõ ràng hơn. "Quán không" và "Phân phá không" giống
nhau. Phân phá không nhờ phân tích giả thật mà thành lập giả danh không.
Quán không, trên quan điểm nhận thức luận thì nói đến tánh vô sở hữu
của cảnh sở quán. Quán không, cũng không thể đạt đến nhất thiết pháp
rốt ráo không, vì quán Không hạn định ở việc phải dùng tâm năng quán
quán xét ngoại cảnh bất khả đắc, bản thân của tâm năng quán lại
không thể dùng quán Không như thế để thành lập nó là không. Vì thế kết
quả việc ứng dụng quán Không, tất nhiên sẽ đạt đến trạng thái còn
tâm không còn cảnh. Cảnh không tâm có, chắc chắn cũng có thể làm phương
tiện để đạt đến nghĩa Không. Nhưng theo một ý nghĩa nào đó mà luận
thì không chỉ sở không (cảnh) không thể triệt để, mà còn không
cả cái chẳng nên không. Học giả "Phân phá không" thừa nhận cực
vi và tâm, tâm sở có tự tánh, nhưng các hiện tượng do cực vi hòa hợp,
hoặc ngã do 5 uẩn hòa hợp, thì đều cho là giả. Họ quên đi tánh duyên
khởi của giả pháp, tức họ không thừa nhận tất cả pháp là duyên khởi.
Do đó một mặt vừa không thể đạt đến rốt ráo không, mà thành Tăng
ích chấp; một mặt khác, pháp duyên khởi không nên phá hoại cũng quán
thành không, tức trở thành Tổn giảm chấp. Các học giả Duy Thức đặt
pháp duyên khởi vào pháp tâm và tâm sở (Y tha khởi tánh), nên không
thể đạt đến tâm Vô tự tánh. Đối với tánh duyên khởi của lục trần
(cảnh) thì không quan tâm đến, vì thế không thể khế hợp Trung đạo.
Bồ-tát Long Thọ phát huy nghĩa Không, là xác lập nơi Tự tánh không, chẳng
phải chỉ phần này là không, mà phần kia chẳng phải không; cũng chẳng
phải cảnh không mà tâm chẳng không.
Luận Đại Trí Độ 74 có nêu 3 loại
không là Tam-muội (Tâm) không, Sở duyên (cảnh) không và Tự
tánh không. Tam-muội không khác với quán Không trong ba loại Không nói ở
trước. Tức khi quán Không (3 Tam-muội) thì nơi tâm năng quán hiện tướng
không. Như Thập biến xứ quán, khi quán màu xanh thì tất cả pháp đều
xanh, khi quán vàng thì tất cả pháp đều vàng, xanh vàng đều là cảnh
quán từ quán tâm. Như thế Không cũng do quán tưởng từ Không quán mà
có. Trong Kinh thường nói các pháp "Không" chỉ nương theo quán huệ
năng quán mà quán đó là Không, vì không chấp trước ngoại cảnh và lìa
hý luận, nên gọi là Không, thật ra các pháp chẳng phải Không. Điều này
nên nói rằng Không là do tâm quán tưởng mà thành, chứ chẳng phải là bản
tướng của các pháp. Như thế, nếu chấp có cái bất không, thì không thể
đạt đến và cũng sẽ không thừa nhận giáo thuyết liễu nghĩa Nhất thiết
không.
"Sở duyên không", trái ngược
với Tam-muội không. Tức khi cảnh giới Sở duyên không, bấy giờ Tâm năng
quán mới gá vào cảnh sở duyên không mà quán đó là không. Sở duyên này
không, tất nhiên năng quán chẳng thể không. Loại này gần giống với
Quán Không trong ba loại Không nói trước. Nhưng Quán Không là luận theo cảnh
tùy quán tâm mà biến chuyển, còn Sở duyên không là nói theo cảnh sở
duyên không thật. Ngài Long Thọ từng bình luận : "Có người nói : Ba
Tam-muội, vô tướng, vô tác, tâm số pháp là không; vì không cho nên quán
các pháp là không. Có người nói : Các pháp sở duyên như sắc ... đều không.
Vì sở duyên không cho nên gọi là Không Tam-muội". Đối với việc này
Phật nói : "Chẳng phải do Không Tam-muội mà nói không, cũng chẳng vì
các pháp sở duyên như ngoại sắc ... mà không..., lìa hai bên này mà nói
Trung đạo, đó là nói các pháp do nhân duyên hòa hợp sanh. Các pháp hòa hợp
này không nhất định cho nên gọi là không". Ngài Long Thọ nói :
"Không có pháp nhất định cho nên không". Trong Kinh Bát-nhã nói tất
cả pháp do duyên hợp mà thành, duyên hợp tức không, không này, là Tất
cánh không vô tự tánh. Do đây có thể biết, nghĩa Không của Trung quán
là nếu theo nhân quả của pháp duyên khởi, thì từ duyên khởi mà biết
vô tự tánh, từ vô tự tánh mà biết tất cả pháp rốt ráo đều không.
Nếu thiên chấp hoặc Tam-muội không, hoặc Sở duyên không, thì chỉ trên
mặt nhận thức luận cũng không thể từ duyên khởi mà biết không, không
đạt đến kết quả tất cả pháp đều không.
Tự không và Tha không, là hai loại
Không quán bất đồng. Như quán kia là không, nếu luận theo Tự không thì
đương thể của hoa là không, theo Tha không thì hoa này không thật có, nên
nói là không. Nhưng chẳng phải bản thân của hoa là không. Phẩm Chân Thật
Nghĩa trong LUẬN DU-GIÀ ghi : "Do pháp kia cho nên không, pháp kia thật
là không. Từ đây mà kia không, nên đây thật là có; do đạo lý ấy, cho
nên nói là không". Nghĩa là do pháp này không mà bỏ pháp kia, không
có pháp kia nên nói là không, chỉ nói pháp này có. Các nhà Duy Thức nói
Không, cho dù giải thích khéo léo thế nào đi nữa, vĩnh viễn cũng không
thể ra khỏi vòng Tha không này. Tha không luận này, không phải do các nhà
Duy Thức sáng lập, mà do Tát-bà-đa bộ khởi xướng. Luận sư nổi tiếng
Thế Hữu từng nói Không và Vô ngã giống nhau, vì Vô ngã là liễu nghĩa rốt
ráo, còn Không chẳng được như thế. Như nói năm uẩn vô ngã, đó là rốt
ráo, thật là vô ngã. Nếu nói năm uẩn là không, thì chẳng rốt ráo. Vì
năm uẩn vô ngã, cho nên Phật nói không, nhưng năm uẩn chẳng thể là
không. Nếu nói "Các hành là không", tức là nói các hành không có
Ngã và Ngã sở, cho nên không, chứ chẳng phải "hành" là không.
Các nhà Duy Thức kế thừa tư tưởng này, cho nên nói từ Y tha không mà xa
lìa tướng Biến kế sở chấp, gọi đó là Không; nhưng Y tha khởi là tự
tướng hữu, chẳng thể nói là không. Tha không luận như thế đã sớm kết
hợp với Tự tánh hữu một cách chắc chắn và tất nhiên rồi. Nói xa hơn
thì tư tưởng Tha không đã thấy trong Kinh Trung A-hàm, như Kinh Tiểu Không
trong Trung A-hàm chính là nói về Tha không luận. Tư tưởng này có liên
quan đến Phật giáo ở Tây bắc Ấn Độ. Tha không trong Kinh Tiểu Không, tức
là trừ bỏ một vài pháp này, lưu giữ một vài pháp kia, vốn là pháp
"Thiền định thứ tự", gọi đó là Không mà chẳng thể lập Nhất
thiết không. Kinh này dùng "Lộc tử mẫu giảng đường đều không"
làm dụ. Lộc tử mẫu giảng đường không, tức là nói trong giảng đường
không có nai, dê ... Vì thế nói là không, mà chẳng phải là giảng đường
trống không, cũng chẳng phải là trong giảng đường không có Tỳ-kheo, cũng
chẳng phải nơi khác không có dê nai, như thế mới gọi là không. Đây là
Không quán đơn giản. Kinh Lăng Nghiêm gọi đây là "Bỉ bỉ không"
quá thô thiển, không nên sử dụng. Loại Không quán "Do kia nên không,
kia thật là không, do nơi đây mà kia không, nên đây thật có", rất
nhiều dạng thức, nhưng phương pháp căn bản vẫn không thay đổi. Vì thế
nghĩa Không của các nhà Duy Thức dùng Tha không luận của Phật giáo Tây bắc
Ấn làm gốc, tuy có tiếp nhận thuyết Nhất thiết pháp không của Đại
thùa, nhưng vẫn còn cách biệt. Tự không cũng bắt nguồn từ A-hàm. Như
KINH TẠP A-HÀM ghi : "Thường là không ..., ngã ngã sở là không, vì
tự tánh như thế". Nghĩa là đương thể của thường, ngã và ngã
sở tức không; chẳng phải là ngoài không có riêng thường, ngã, ngã sở
chẳng không. Thường, ngã, ngã sở sở dĩ là không, vì tự tánh của nó
như thế. Như Kinh Thắng Nghĩa Không (335) trong TẠP A-HÀM ghi : "Vô
ngã, vô ngã sở mà có nghiệp báo nhân quả lưu chuyển". Nhưng đó
chẳng phải là trong Thắng nghĩa đế có nhân quả nghiệp báo lưu chuyển.
Vì thế nói "Tục số pháp, tức là đây có nên kia có, đây sanh
nên kia sanh, nghĩa là Vô minh duyên Hành ...". Tương tục hữu của
Duyên khởi nhân quả là Thế tục đế, trong Thắng nghĩa đế không có
ngã và ngã sở, tức là Không. Tóm lại, Tự không là từ nơi đương thể
của pháp mà đạt được không, Tha không thì từ không của pháp này mà
trừ bỏ pháp kia để đạt không. Vì thế, Thế tục giả danh không và Thắng
nghĩa tất cánh không của Trung Quán, các nhà Tha không luận không thể thừa
nhận. Họ căn cứ theo ý kiến của chính mình mà tu chỉnh rằng : "Nhất
thiết giai không là bất liễu nghĩa". Điều này trái với lập trường
của Tự tánh không. Sau này các học giả Duy Thức khi luận về Không, thì
chỉ nói đến việc trừ bỏ Biến kế sở chấp. Như thế, không chỉ
không thể nói duyên khởi từ Không hiển, mà chẳng thể ngay đó xác nhận
được các pháp đều không, vì thế Tự không và Tha không căn bản đã bất
đồng. Giả sử dẫn dụng Thành Duy Thức Luận : "Nếu chấp Duy thức
là thật có, cũng là pháp chấp", rồi cho rằng Duy Thức cũng nói
Tâm Tâm sở pháp của Duyên khởi là không, thì không tránh khỏi chuyện
gán ép. Tôi cảm thấy Nhất thiết giai không của các nhà Trung Quán, chủ
yếu được hiển thị từ nhân quả duyên khởi, còn tông Duy Thức thì
bàn từ mặt nhận thức luận. Nhà Duy Thức cho rằng từ nhân quả duyên
khởi để luận về không là chung cho Tiểu thừa, không triệt để. Đại
thừa cần phải từ nhận thức mà thuyết minh. Như LUẬN NHIẾP ĐẠI THỪA
ghi : "Tự nhiên tự thể không, tự tánh chẳng bền trụ, như chẳng
có chấp thủ, nên nói vô tự tánh". Vô tự tánh, chẳng phải là
nói tự tánh hoàn toàn không có. Như pháp vị lai thì sanh ở vị lai, ắt
phải đợi duyên, nhất định không thể tự nhiên sanh, vì thế gọi là
Vô tự tánh. Quá khứ đã diệt là vô thể, tức là nói Tự thể không. Hiện
tại sanh diệt không dừng là "Tự tánh không bền trụ", tức theo
sự lưu chuyển của nhân quả ba đời mà nói Vô tự tánh. Kinh A-hàm cũng
có cách nói này. Vì thế Nhiếp Luận cho đó là pháp chung với Tiểu thừa.
"Như chẳng có chấp thủ, nên nói Vô tự tánh", đây là luận
theo Biến kế vô tự tánh, nếu đối với tất cả pháp mà chấp tự tướng,
cộng tướng, ngã tướng, pháp tướng đều là theo tên lập nghĩa, y nghĩa
lập tên, là giả danh lập bày, chẳng phải là tự tướng hữu. Lìa phi Tự
tướng hữu của Biến kế này tức là Không vô tự tánh của Đại thừa.
Đây là điều mà tông Duy Thức cho rằng chẳng cùng với Tiểu thừa, nhưng
nếu nghiên cứu kỹ câu : "Tướng chấp thủ chẳng có" thì
Kinh A-hàm cũng thường nói đến "Bất khả thủ, bất khả đắc".
"Như chẳng có chấp thủ", thì các học giả Thanh văn cũng có
thể đạt đến vậy. Kinh 926 trong TẠP A-HÀM ghi : "Khi Ca-chiên-diên
nhập vào chân thật (Thắng nghĩa thiên), thì không chấp thủ tất cả tướng
mà nhập định". Bản dịch khác lại ghi : "Chỉ vì nhờ vào
nhân duyên hòa hợp mà có các tên, quán các pháp này không tịch thì không
thấy có pháp và phi pháp". Phẩm Chân Thật dẫn câu này và cho là
giáo chứng của pháp tánh ly ngôn. Thế thì đâu thể nói pháp Thanh văn không
có ? Do đó có thể biết, trên mặt nhận thức không chấp thủ các tướng
là không thì cũng còn là cộng Tiểu thừa. Y cứ vào pháp duyên khởi nhân
quả để rõ vô tự tánh không, thì chẳng giống với ba thuyết của Nhiếp
Luận. Duyên sanh tức vô tự tánh, tự tánh bất khả đắc là không, vì
vô tự tánh không, cho nên hý luận chấp có tự tánh là điên đảo, mà
chánh quán như thật tức chẳng chấp thủ các tướng. Khi nhập Thắng
nghĩa thiên, chẳng chấp thủ tất cả tướng, nhưng tất nhiên sẽ không
lìa nhân quả duyên khởi mà an lập. KINH BÁT-NHÃ ghi : "Nếu thật có một
pháp thì Phật và Bồ-tát lẽ ra phải có lỗi lầm". Có chấp trước
tức là pháp nhiễm ô, không thanh tịnh. Điều này Kinh A-hàm cũng đã có
nói đến. Y vào pháp duyên khởi nhân quả để hiển thị tất cả pháp
không là Không môn, chẳng chấp thủ tất cả tướng là Vô tướng môn.
Không môn, Vô tướng môn, Vô tác môn, tuy phương tiện có thể không đồng,
nhưng thật ra một ngộ thì tất cả đều ngộ. Tam giải thoát môn cùng
duyên thật tướng. Trung Quán dùng Không môn của duyên khởi vô tự tánh
làm gốc, nhưng cũng luận đến Vô tướng môn. Còn các nhà Duy Thức chỉ
từ Không quán để nói "chẳng bằng có sở thủ" thì không thể
ngay nơi nhân quả mà đạt được không. Đây là điểm bất đồng của
hai tông. Trên đã nói duyên khởi vô tự tánh, là để nói đến định
nghĩa của Không. Điều mà ngài Long Thọ nói đến nhiều, chính là điểm
bất đồng với các học phái khác. Vì thế không thể theo văn hiểu nghĩa
mà thấy các danh từ Duyên khởi, Tự tánh không rồi vội cho là đồng quy
về một mối.
http://www.buddhismtoday.com/viet/triet/051-nguyenchon-khong.htm