Phật giáo du nhập
đến Afghanistan rất sớm, sớm hơn những nước hiện nay Phật giáo đang thịnh
và được nói là đã tiếp nhận Phật giáo sớm nhất. Thông điệp của đức Phật đã
được mang đến Afghanistan ngay từ thời Phật còn tại thế thông qua Tapassu
và Bhallika, hai vị Đại đệ tử cư sĩ đầu tiên, có quê hương ở tại Ballika
(nay là Balkh). Sự kiện này đã được xác thực nhờ sử ký của Ngài Huyền
Trang. Chính Ngài Huyền Trang đã chứng kiến hai ngôi tháp cho rằng là đã
được 2 vị nầy xây để tôn thờ tóc và móng của Đức Phật gần thị trấn này.
Ngài Huyền Trang đã đảnh lễ hai ngôi tháp đó khi du hành qua Ấn Độ.
Bhallika viếng thăm Vương Xá (Rājagṛha)
lần thứ hai, gia nhập Tăng đoàn và trở thành vị Tỳ-kheo do chính đức Phật
chứng minh, sau đó tôn giả đã trở về quê hương và xây dựng ngôi tịnh xá
tại Balhk (hay còn gọi là Bhallika) này. Bhallika đã chứng quả A-la-hán,
và một số bài kệ (gāthā) trong Trưởng Lão Tăng Kệ (Theragāthā)
được nói là do tôn giả trước tác. Balk hay là Ballika là trung tâm trọng
yếu của Phật giáo vào lúc đó. Thời gian trôi qua, khi Ngài Huyền Trang
viếng thăm nơi này vào thế kỷ thứ VII TL thì trung tâm trọng yếu này đã
phát triển lớn mạnh đến nỗi được mọi người gọi là "Tiểu Vương Xá " (Little
Rājagṛaha).
Ngài Huyền Trang có đề cập đến tên của Tịnh Xá này là "Nava-Vihāra", nằm ở
ngoại ô thị trấn Bhallika. Ngay tên gọi Nava-Vihāra" đã gợi cho ta một
ngôi tịnh xá đã hiện hữu lâu đời ở Ballika (Nava có nghĩa là mới, tân),
không có cái nào khác hơn khi Ngài Huyền Trang đến đó. Chúng ta có thể
đoán rằng, tịnh xá cũ chính là Tịnh Xá Bhallika (Bhallika-vihāra) đã đổ
nát theo thời gian vì lúc bấy giờ các vật liệu xây dựng không được tốt.
Sau đó một Tịnh Xá mới được xây dựng phía ngoài thị trấn và được gọi
"Nava-Vihāra."
Trong thực tế,
Phật giáo như một tôn giáo được truyền đến Afghanistan chỉ sau kỳ kiết tập
kinh điển lần thứ hai được tổ chức tại Vesali, một thế kỷ sau khi đức Phật
nhập vô dư niết-bàn, thông qua các vị Tăng thuộc Đại Chúng Bộ (Mahāsaṁghika)
- các vị tách khỏi Phật giáo Nguyên Thuỷ Thượng Toạ Bộ (Early Theravāda)
hay còn gọi là "Phật giáo Thượng Toạ Bộ Pāḷi"
(Pāḷi
Theravāda)
đã đến Udyāna (hay còn gọi là Uḍḍiyāna)
[phiên âm Hán Việt: Vu Điền], thuộc phần cực Đông của đất nước này. Họ đã
đến đây thành lập cơ sở chính yếu cho trường phái của họ. Người ta nói
rằng, một nhóm khác của trường phái này ở lại Ấn Độ và cư trú tại Mathurā.
Nhưng các cuộc giao lưu thường xuyên vẫn duy trì liên tục giữa hai nhóm
này qua nhiều thế kỷ. Bằng chứng rõ ràng là các chữ điêu khắc trên đá tại
Mathurā được phát hiện vào khoảng thế kỷ thứ nhất trước TL. Udyāna hay Uḍḍiyāna
vẫn được duy trì như một trung tâm lớn của Hậu Kỳ Thượng Toạ Bộ (Later
Theravāda) hay các trường phái Thượng Toạ Bộ Sanskrit (Sanskrit
Theravāda) hầu như xuyên xuốt toàn bộ lịch sử Phật giáo ở Afghanistan
cho đến khi các bộ phái này mất tích khoảng thế kỷ thứ X TL. Không còn
nghi ngờ gì nữa, Udyāna là trung tâm đầu tiên của trường phái Đại Chúng Bộ,
sau này nó phát triển thành trung tâm chính thức của trường phái Thuyết
Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvāstivāda) ngay từ thời kỳ đầu.
Nước Udyāna (hay
Uḍḍiyāna)
có hai phần. Phần phía Tây được biết như xứ Nagara hay Nagarahāra (nay là
Nagaravihāra), trong khi đó phía Đông vẫn giữ tên cũ là Udyāna. Sự kiện
này được ghi rất rõ trong sử ký của Ngài Pháp Hiển và Ngài Huyền Trang, và
các sử ký của người Tây Tạng. Phía Đông của nước này trải dài cho tới bờ
sông phía Tây của dòng Ấn Hà (Indus), vượt khỏi biên giới của đất nước
Gandhāra. Trường phái Đại Chúng Bộ (Mahāsaṁghika)
và trường phái Sarvāstivāda (Sarvāstivāda) đã thành lập các trung
tâm song song với nhau trong các vùng của đất nước này ở Nagarahāra hay
trong thung lũng Wat. Thủ phủ của đất này có cùng tên là Nagara (hay còn
gọi là Nagaravihāra) hay Udyānapur. Naga hay Nagarahāra là một từ xuất
phát từ thuật ngữ Nagaravihāra mà tôi đã trình bày trong một bài khác.
Nhưng chắc chắn rằng Nagaravihāra là một trong những trung tâm nổi tiếng
nhất ở Afghanistan từ buổi đầu. Điều đáng quan tâm, lưu ý là cho tới ngày
nay một tỉnh của đất nước này cũng được gọi là Ningarahāra, dựa theo tên
cổ mặc dù thủ đô hiện nay của khu vực này là được gọi là Jalalabad, vì nó
bị Jaluddin Akbar, một vị vua Hồi giáo của Ấn Độ đã đổi tên xứ sở này theo
tên của ông. Nếu ai viếng thăm Allalabad, vô số di tích của Phật giáo dưới
các hình thức khác nhau như chùa tháp, hang động, tu viện đổ nát, các
thánh tượng, v.v… rải rác khắp thị trấn này. Có một địa điểm gọi là Hadda,
cách 7 km phía Nam của Jalalabab có rất nhiều chùa chiền tự viện bằng đá
gạch. Những nhà khảo cổ học người Pháp đã đếm được khoảng 40 ngôi tháp lớn
toạ lạc cách địa điểm trên khoảng một dặm rưỡi. Địa điểm này hầu như được
các nhà hành hương viếng thăm, vì nơi đây cũng là nơi tôn trí xá lợi xương
sọ của Đức Phật. Cả Ngài Pháp Hiển và Huyền Trang đều viếng thăm nơi này
để đảnh lễ xá-lợi của Đức Phật. Một hộp đựng xá-lợi của Đức Phật với một
câu được khắc ghi trên ấy đã được phát hiện ở đây.
Nagarahāra được
duy trì như một trung tâm của Sarvāstivāda và của Đại Chúng Bộ. Suốt thời
gian của Đại Đế Ca-nị-sắc-ca (Kaniṣka)
thuộc triều đại Kusana thuộc thế kỷ thứ nhất TL, Nagarahāra phát triển rất
mạnh về văn hoá và tôn giáo, vì nhiều xá-lợi đã được tôn trí trong các
tháp và các tự viện. Tại Bimrana, cách Jalalabad không xa, một hộp đựng
xá-lợi của Đức Phật có khắc chữ trên đó đã được tìm thấy. Hộp đựng này đề
cập đến tên của Đại Đế Ca-nị-sắc-ca (Kaniṣka),
như là "vua công đức" của Phật giáo. Một sự kiện nổi bật, đó là, vua Kaniṣka
là vị vua ủng hộ nhiệt tình Phật giáo,
đặc biệt ủng hộ cho trường phái Sarvāstivāda. Có lẽ suốt thời gian cai trị
của ông, Nagarahāra và Hadda và các nơi khác xung quanh thị trấn Jalalabad
được phát triển như là các trung tâm của trường phái này.
Trong bối cảnh
này, chúng ta có thể đề cập đến thủ đô Sư Tử, nổi tiếng hệ thống chữ viết
Kharoṣṭhī
và ngôn ngữ Prakrit. Bản văn này không đề cập đến năm tháng nào, nhưng các
học giả đã cho là khoảng năm 10 - 25 TL.
Văn bản này đề cập đến một vị Tỳ-kheo tên là Bhuddhila, được nói là nguyên
quán ở Nagara. Buddhila được ghi nhận là người theo trường phái
Sarvāstivāda. Cũng ngay trong bản văn này, tên của nước Sakastan (tức là:
Seistan) cũng được đề cập, tặng phẩm xá-lợi của đức Phật được nói là đã
ban cho toàn quốc Sakastan để tỏ lòng tôn trọng. Đất nước Sakastan không
có nước nào khác hơn là Seistan hiện nay, một phần của nước này nay trực
thuộc lãnh thổ của Afghanistan và của Iran, mặc dù lúc đầu nó là vùng
Baluchistan độc lập. Ở đây cũng rất hấp dẫn khi đề cập đến các bia ký đuợc
ông Aurel Stein phát hiện trong một ngôi làng gọi là Tor Dherai ở
Baluchistan, cực Đông của tỉnh Kandharkhi. Trên các bia ký này, khi tất cả
các mảnh được sắp xếp lại với nhau nó có thể được xem như kỷ vật tượng
trưng trong Tịnh Xá Yola- Mīla-Sthāhī-Vihāra cho tứ phuơng Tăng để cung
đón các bậc Thầy của Sarvāstivāda.
Trong vùng này giữa Jalalabad ở phía Đông và Seistan hoặc Sakastan ở Tây
Nam, trường phái Sarvāstivāda có nhiều trung tâm phát triển rực rỡ vào đầu
thế kỷ thứ nhất TL.
Có lẽ không đúng
chỗ khi đề cập ở đây đến một số văn bản thuộc giai đoạn này được tìm thấy
trong vùng Gandhāra, hiện nay là Peshawar và các huyện lân cận ở Pakistan.
Các bản văn này được tìm thấy ở vùng Zeda,
Kurram
và Kaman.
Chúng ta biết rằng Gandhāra là nước láng giềng ở phía Đông của nước Udyāna
xưa cắt ngang bởi dòng Ấn Hà (Indus). Dường như toàn bộ phía Bắc của tiểu
lục địa Ấn là cứ điểm của chư Tăng thuộc trường phái Sarvāstivāda. Tuy
nhiên, các vị này thành lập các trung tâm chẳng bao lâu sau trường phái
Đại Chúng Bộ. N. Dutt cho rằng "suốt triều đại Aśoka, người ta không tìm
thấy dấu vết trường phái Sarvāstivāda ở Pāṭaliputra,
thuộc Magadha mà nó lại được di chuyển lên phía Bắc. Họ thành lập hai
trung tâm, một là ở Kasmira dưới sự lãnh đạo của tôn giả Madhyāntika (Mạc
Điền Địa) và một trung tâm khác tại Mathurā dưới sự lãnh đạo của tôn giả
Upagupta (Ưu-ba-cúc-đa). Tôn giả Madhyāntika là đệ tử của tôn giả Ānanda,
trong khi đó Upagupta là đệ tử của tôn giả 'Sāṇavāsa
(Thương-na-hoà-tu), mà 'Sāṇavāsa
cũng là đệ tử của tôn giả Ānanda. Do đó, các vị theo Sarvāstivāda có thể
tôn thờ Ngài Ānanda như là vị Tổ Sư.
Từ các cứ điểm này, họ truyền đến các vùng phía Bắc của Gandhāra,
Afghanistan và Baluchistan.
Khi Ngài Huyền
Trang viếng thăm Afghanistan, Ngài chú ý đến nhiều trung tâm của trường
phái này như Balkh, gần Bamiyan, Kapisa, Gaz và Udyāna. Ngài đề cập rằng
cách Bamiyan khoảng mười hoặc mười hai dặm, có một tu viện an trí thượng y
(Saṅghātī)
cửu điều của đệ tam tổ 'Sāṇakavāsa
(Thương-na-hoà-tu) màu đỏ sậm được làm bằng tơ lụa dệt từ loại cây Sānaka.
Tổ 'Saṇakavāsa
được đề cập trong các văn bản Pāḷi
như là tôn giả Sambhūta Sāṅavāsī,
vị đóng vai trò vô cùng quan trọng trong kỳ kiết tập Kinh điển lần hai.
Tôn giả được nói là đã đi tới Kipin,
một nơi được đồng hoá với Kapisa, hiện nay Begram gần Charikar ở
Afghanistan. Tại nơi này có rất nhiều di chỉ do các nhà khảo cổ học người
Pháp khai quật ở các vùng và các Tịnh Xá mà tôn giả Saṇavāsī
ở một thời gian, nhưng sau này Ngài trở về Mathurā, và thị tịch tại đây.
Ngài Huyền Trang
trước khi đến Balkh đã viếng thăm Kuci ở Trung Á, tại nơi này có khoảng 10
Tịnh xá, trên 1000 vị Tăng và là những người theo trường phái Sarvāstivāda.
Khi Ngài đến Balkh, ở đó khoảng 100 Tịnh xá và hơn 8000 vị Tăng thuộc "Tiểu
Thừa." Tuy nhiên, Ngài không đề cập chính xác đến tên của các trường phái
Tiểu Thừa cư trú tại đây; nhưng rất có thể một số Tịnh xá có lẽ thuộc chư
Tăng thuộc Sarvāstivāda. Từ Balkh Ngài đi đến nơi gọi là Kie (Ka)-chih (hiện
nay là Gaz hoặc là Darah) khoảng 100 dặm về phía Nam của Balkh, tại nơi
này có khoảng 10 Tịnh xá với 800 Tăng đều thuộc trường phái Sarvāstivāda.
Balk hay Balhīka xưa kia dường như là trung tâm của các trường phái Hậu Kỳ
Thượng Toạ Bộ (Later Theravāda) của Phật giáo kể cả Sarvāstivāda.
Khi Ngài Huyền
Trang đến Kapisa, Ngài ở lại trong một Tịnh xá do triều đại nhà Hán Trung
Hoa xây dựng. Ngài trải qua mùa an cư (vassāvasa) tại đó. Ngài đề
cập đến tên của một số vị Tăng trí thức quan trọng mà Ngài đã cùng với các
vị ấy bàn luận về triết học và giáo lý. Ngài nói rằng, trong ngôi chùa
Shotorak có một vị quán thông Tam Tạng tên là Manojñaghoṣa
và một vị Sư tên là Āryavaṁsa
của trường phái Sarvāstivāda và cũng có một vị Sư thuộc trường phái Hoá
Địa Bộ (Mahīśāsaka) tên là Guṇabhadra
(Cầu-na-bạt-đà-la). Các vị Sư này được nổi tiếng như là các thượng thủ của
tu viện.
Tất cả chúng ta biết rằng Kapisa là thủ đô phía Tây của Kaniṣna
và tu viện Shotorak nơi Ngài Huyền Trang ở lại do vua Kaniṣka
xây dựng cho con tin Thái tử của Trung Hoa thuộc triều đại nhà Hán. Trên
thực tế, nhờ sự ủng hộ của vua Kaniṣka
cho trường phái Sarvāstivāda mà tu viện Shotorak đã thịnh đạt thành một
trung tâm của trường phái này trong nhiều thế kỷ sau và nó được dành cho
các nhà Sư lỗi lạc thường trú ngụ.
Ngài Pháp Hiển
không viếng thăm nhiều nơi ở Afghanistan, Ngài chỉ đến Hadda và Nagarahāra
để đảnh lễ Thánh tích ở đó. Tại Hadda, có khoảng 500 vị Sư trú ngụ trong
các tu viện này và tất cả họ thuộc Tiểu Thừa (Hinayāna).
Ngài cũng có đề cập đến một tu viện ở thung lũng Swat thuộc Udyāna, nơi cư
trú của chư Tăng tuy thuộc trường phái Đại Thừa (Mahāyāna) nhưng
lại tuân thủ các giới luật theo truyền thống của Tiểu Thừa (Hīnayāna)
kể cả luật của Sarvāstivāda. Sử ký của Ngài Pháp Hiển đề cập đến chư Tăng
thuộc các chi nhánh của cả Đại Thừa và Tiểu Thừa cư ngụ trong các tu viện
khác nhau ở Udyāna, bao gồm cả Sarvāstivāda vào thế kỷ thứ V TL. Nhưng có
lẽ ở Nagarahāra, Hadda và một số nơi khác trong vùng, nhiều tu viện thuộc
Sarvāstivāda cũng đã hưng thịnh suốt thời kỳ này.
Khi chúng ta khảo
sát Phật giáo ở Afghanistan, điều gây ấn tượng nhất đối với chúng ta là
phần lớn các trường phái thuộc Hậu Kỳ Thượng Toạ Bộ cực thịnh qua nhiều
thời đại. Phật giáo Đại Thừa (Mahāyāna Buddhism) có lẽ không hưng thịnh ở
đây lắm, và Phật giáo Tiền Đại Thừa (Early Mahāyanā Buddhism) không thể
cắm rễ trên mảnh đất này dù rằng phái đoàn truyền giáo đặc biệt do Ngài
Mahārakkhita được phái đến sau Đại Hội Kết Tập Kinh Điển lần thứ ba được
tổ chức vào thời Đại Đế Aśoka. Trong số các trường phái thuộc Hậu Kỳ
Thượng Toạ Bộ, thì Đại Chúng Bộ và Sarvāstivāda đi hàng đầu ở nước này.
Lịch sử Phật giáo ở Afghanistan vẫn còn trong mù mịt, nhưng các thánh tích
Phật giáo rải rác ở khắp lãnh thổ Afghanistan đã nói lên sự ảnh hưởng của
Phật giáo đối với đất nước này, một trong những nơi có tầm quan trọng bậc
nhất như các pho tượng Phật khổng lồ ở Bamiyan và các thánh tượng tuyệt
hảo được phối hợp của hai nền nghệ thuật Hy Lạp và Ấn Độ tại Hadda. Các
pho tượng này vẫn còn nói lên câu chuyện huy hoàng ban sơ của mảnh đất
Phật giáo vĩ đại này.
http://www.buddhismtoday.com/viet/triet/054-giachoang-Sarvaastivaada.htm