- Bát bất và Duyên khởi
Tính đối xứng của
tương quan nhân quả
Trong cơ học lượng tử vấn đề
tương quan nhân quả liên hệ với nguyên lý đối xứng dùng giải thích sự
quan hệ giữa tâm (phương cách thử nghiệm) và vật (lượng tử hiện hữu).
Theo các nhà lượng tử học, vào bất cứ lúc nào, ta không thể biết hết
thảy mọi điều kiện (nhân) đủ để một biến cố lượng tử hiện khởi.
Nói tổng quát, nếu một thực thể giả định như lượng tử vượt ngoài
tri giác của con người thời không có căn bản để chủ trương sự hiện
hữu của nó, bởi vì thi thiết sự hiện hữu tùy thuộc khả năng thử
nghiệm. Không thể thiết lập sự hiện hữu của thực thể nếu không có
phương cách kiểm chứng sự hiện hữu ấy. Cũng vậy, không thể xác quyết
sự hiện hữu của phương cách kiểm nghiệm độc lập với thực thể mà
sự hiện hữu đã được thử nghiệm. Do đó, ta thấy ngay có sự đối xứng
giữa hiện hữu và phương cách kiểm nghiệm.
Sau đây là một thí dụ khác về
tính đối xứng của nhân và quả có thể ứng dụng chẳng những trong vật
lý học mà cả trong tâm lý học. Gọi A là tập hợp gồm tất cả điều
kiện (nhân) đủ để phát hiện một hiện tượng B. Tập hợp A chỉ xuất
hiện sát ngay trước lúc B hiện khởi. Do đó, tất phải có một khoảng
thời gian rất ngắn, không cần biết ngắn bao lâu, miễn là trong khoảng
thời gian ấy không hiện ra bất cứ ảnh hưởng nào ngăn cản B xuất hiện.
Chỉ vào lúc sát ngay trước khi B hiện khởi ta mới chắc chắn hoàn toàn
là B sẽ xuất hiện. Cho đến giây phút ấy mọi điều dự đoán đều thâu
tóm vào sự biến thiên của một hàm số xác suất mà thôi.
Nếu cuối cùng B không xảy ra, thời
các nhân của B chẳng bao giờ hiện hữu. Lý do: không thể thi thiết sự
hiện hữu các nhân của B khi hiện tượng B không có. Sự hiện hữu các
nhân của B được xác định một cách chắc chắn chỉ vào lúc B sắp hiện
khởi, nghĩa là bằng cách nghịch suy trở về ngay trước lúc B hiện khởi.
Do đó, tập hợp A gồm các nhân của B không thể hiện hữu mà chỉ là
xác suất B hiện khởi cho đến khi B thực sự xảy ra. Cũng vậy, B được
xem là quả của A đến khi toàn thể tập hợp A xuất hiện. Nói đơn giản
hơn, nếu A là tập hợp gồm một hay nhiều biến cố xuất hiện trước
biến cố B và B không hiện khởi khi A không xuất hiện trước, thời A
được công nhận là nhân của B.
Trong tập Nhập Trung Đạo (Madhyamakàvatàra),
ngài Nguyệt Xứng cũng định nghĩa tương quan nhân quả một cách tương tự:
"Nếu nhân sinh quả cần thiết của nó, thời vì lý do đó mà gọi nó
là nhân. Nếu không quả nào được sinh, thời vì vắng (quả) nên nhân
không có".
Quan niệm tương quan nhân quả như
vậy tức là nhìn nhận tính đối xứng của tương quan nhân quả: hiện thực
này được xác định trong tương quan đối đãi với hiện thực kia. Tương
quan nhân quả ở đây là tương đãi hay tương thành. Tất cả mọi tướng
mà ta gọi là hiện hữu đều là hiện hữu giữa các mối quan hệ, giữa
các duyên, chứ không thật có. Theo Duy thức, đó là do thức biến. Thức
là một trong hết thảy pháp, nhưng đặc biệt, thức là chủ lực ở ngay
trong mỗi mỗi chúng sanh, có năng lực phân biệt biết được cái khác,
và tự biết được mình. Thí dụ thức biến: Vạn vật hiện hữu là do
thức phân biệt danh tướng, sắc, tâm, huân tập vào Tạng thức nhiều đời
nhiều kiếp thành chủng tử (tập khí, thói quen) cố hữu, nên khi thức
móng khởi thời liền hiện ra đủ các tướng đúng như khi được huân tập
vào Tạng thức, và tự phân biệt ra Kiến phần có năng lực nhận biết và
Tướng phần là đối tượng của nhận biết. Chủ thể (Kiến phần) và
đối tượng (Tướng phần) nhận thức nương vào nhau mà hiện hữu và xuất
hiện đồng thời như là đối tượng chuyển hiện của thức. Kiến, Tướng
phần như vậy gọi là nhân duyên biến.
Kiến phần (biết) và Tướng phần
(bị biết) không phải là ngã và pháp, là người và vật. Nhưng nếu để
tướng ngã pháp này được huân tập mãi vào Tạng thức thành chủng tử
có sẵn, thời khi móng khởi lên liền thấy ngã và pháp là những hiện hữu
có tự thân độc lập riêng biệt. Chính do thức biến theo cách này (gọi
là phân biệt biến) mà các pháp trong đồng nhất tính duyên khởi, vô danh
vô tướng, vô thỉ vô chung, vô trung vô biên (không trong không ngoài) nổi
lên thiên hình vạn trạng, rồi mê muội chạy theo giả tướng thiên hình
vạn trạng đó mà đắm trước, trói buộc theo nó, gây nên khổ đau.
Điều này cho thấy đối tượng nhận
thức và chủ thể nhận thức không rời nhau mà có, đối tượng nhận thức
và chủ thể nhận thức đều là nhận thức. Đây là căn bản và là khởi
điểm của học thuyết Duy thức.
Đức Phật đã có lần nêu rõ cái
gọi là thế giới chẳng qua chỉ thành lập trên quan hệ tương đãi và tương
thành giữa sáu căn và sáu cảnh:
"Ví như hai bó lau dựa vào nhau
mà đứng. Cũng vậy, này Hiền giả, do duyên danh sắc, thức sanh khởi. Do
duyên thức, danh sắc sanh khởi. ... Này Hiền giả, nếu một bó lau được
kéo qua (một bên), bó lau kia liền rơi xuống. Nếu bó lau kia được kéo
qua (một bên), bó lau này được rơi xuống. Cũng vậy, này Hiền giả, do
danh sắc diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. ..."
(Kinh Bó lau, Tương Ưng bộ, ii.112).
Không có chủ quan thời không có
khách quan và ngược lại. Ngoài quan hệ tương đãi và tương thành, không
có cái gọi là thế giới. Hết thảy đều được thành lập trên quan hệ
hỗ tương sinh tồn. Công thức y tha khởi được ghi lại như sau trong kinh
Phật tự thuyết, Tiểu bộ I:
- Cái này có thời cái kia có
- Cái này không thời cái kia không
- Cái này sinh thời cái kia sinh
- Cái này diệt thời cái kia diệt.
Vật lý học cũng có những thí dụ
tương tự: thời gian và không gian, vật chất và năng lượng, tiềm năng
(potentiality) và hiện hành (actuality).
Bát bất và Duyên
khởi
Trong 21 ngày ngồi tại cội Bồ đề,
đức Phật đã chứng nghiệm định lý y tánh duyên khởi pháp
(Pratìtyasamutpàda; lý Duyên khởi) và "vì những người chưa ngộ đạt
pháp này thời làm cho ngộ đạt, bằng mọi cách thuyết minh, giảng giải,
chỉ bày, xác lập, nói rộng ra, và phân biệt rõ ràng cho họ có thể thấy"
nên suốt 45 năm truyền bá chánh pháp, Ngài đã phân biện thuyết giảng để
làm cho những người nghe pháp cũng được giải thoát như chính Ngài. Bồ
tát Long Thọ tán thán công đức cao dày và sâu rộng đó trong bài tụng khởi
đầu Trung quán luận như sau.
- Bất sinh diệc bất diệt
- Bất thường diệc bất đoạn
- Bất nhất diệc bất dị
- Bất lai diệc bất xuất
- Năng thuyết thị nhân duyên
- Thiện diệt chư hý luận
- Ngã khể thủ lễ Phật
- Chư thuyết trung đệ nhất.
Tiếng Việt dịch chữ Pratìtyasamutpàda
là lý Duyên khởi, tiếng Anh là "dependent co-origination",
"dependent co-arising". Theo ngài Nguyệt Xứng, căn Ö i có nghĩa chuyển
động; tiền trí từ prati có nghĩa là đạt được. Nếu thêm một tiền
trí từ vào căn thời ý nghĩa của căn sẽ thay đổi. Vậy chữ pratìtya
khi được xem như một động từ biến hành cách thời "đạt được"
có nghĩa là "tùy thuộc" hay "tương đối". Cũng thế, căn
Ö pad có nghĩa "đi" hay "ngã xuống", nhưng khi thêm tiền
trí từ samut có nghĩa "từ đó mà ra" thời samutpàda nghĩa là
"hiện khởi, sinh khởi". Vậy duyên khởi (Pratìtyasamutpàda) có thể
hiểu là "hiện khởi trong sự hỗ tương lệ thuộc" hay "do các
duyên phối hợp mà pháp sinh khởi". Như vậy, phần đầu của tên
(pratìtya) loại bỏ tà kiến chấp thường, vì pháp có là do các duyên phối
hợp cho nên không thường hằng. Phần sau (samutpàda) ngăn chận tà kiến chấp
đoạn, vì có sự sinh khởi các pháp khi duyên hội đủ. Cả hai phần gộp
lại biểu thị Trung đạo, nghĩa là không chấp thường không chấp đoạn.
Thanh Tịnh Đạo, sư cô Trí Hải dịch,
giải thích: "Danh từ duyên sinh khi được dùng chỉ toàn thể các pháp
sinh khởi do duyên tánh, cần được hiểu như sau. Toàn thể các pháp ấy cần
được thấu đạt (paticca). Khi toàn thể đã được thấu rõ, nó đưa đến
an lạc hạnh phúc siêu thế, nên người trí xem toàn bộ duyên sinh là đáng
được thấu rõ hay đạt đến (paccetum). Và khi nó sinh (uppajjati), nó sinh
cùng với (saha), và một cách chân chánh (sammà) chứ không phải sinh đơn
độc và vô nhân, nên nó là sự đồng sinh khởi (samuppàdo). Vậy vì nó
là sự đồng sinh khởi, và do các duyên, nên gọi duyên sinh, và vì toàn bộ
các nhân là một duyên cho các pháp duyên sanh, nên toàn thể nhân ấy cũng
được gọi là Duyên sanh, vốn dùng để chỉ quả của nó. Cũng như ta nói
"Sự xuất hiện của chư Phật là điều phúc lạc", chính vì sự
xuất hiện ấy là điều kiện (duyên) đem lại phúc lạc.
Hoặc vì tổng thể các nhân đưa
đến quả kế tiếp, cho nên có thể nói là chúng "cùng sinh khởi với
nhau".
Tổng hợp các nhân khởi từ vô
minh, để dẫn đến sự thể hiện một quả ví dụ hành, thức, v..v... tổng
hợp ấy được gọi paticco nghĩa là hướng tới quả của nó do sự hỗ tương
lệ thuộc của các chi phần, nghĩa là chúng phát sinh cùng một quả, và
không thể thiếu một chi phần nào. Và nó được gọi là samuppàdo, cùng
sanh khởi, vì nó khiến cho các pháp được sanh phải sanh trong sự hỗ
tương lệ thuộc. Do vậy, vì nó do duyên (paticco) và cùng sanh (samuppàda)
nên gọi là Duyên khởi, samuppàda.
Một cách giải thích khác: Toàn bộ
y duyên tánh này tác động hỗ tương lệ thuộc, khởi lên những pháp đồng
đẳng với nhau. Đấy là lý do bậc đại thánh, bậc kiến giả, đã cho từ
ngữ này hình thức ngắn gọn."
Như vậy, sự vật trong vũ trụ
sinh khởi không do một quyền năng siêu nhiên như Thiên chúa. Vũ trụ không
phải là hơi thở, là một giấc mộng của đấng Phạm thiên (Brahman), nghĩa
là vạn vật không phát sinh từ một Nguyên nhân Tối sơ, một Bản thể
tuyệt đối có tính chất thường tịch, vô sinh, và vô trụ, đồng nhất
với tự thể (àtman) tức căn để bất diệt của hiện tượng con người.
Tất cả không phát xuất từ một nguyên nhân cho nên vạn hữu nhất định
xuất hiện do nhiều nhân. Nói khác, tất cả đều là sản phẩm do hỗ tương
lệ thuộc, hiện hữu quan hệ trong tiến trình nhân duyên.
Khái niệm Duyên khởi là một khái
niệm về Không, tại vì "không có một cái gì" vượt ra ngoài
(siêu nhiên), nằm bên trong (bản thể), hay ở khoảng giữa (đối thiên
trung) các hỗ tương lệ thuộc. Không ở đây không phải khái niệm
"không" đối đãi với khái niệm "có". Không ở đây là
thực tại của vạn hữu vượt thoát mọi khái niệm của nhận thức
thông thường, "là một tấm vải trên đó duyên sinh tô vẽ những bức
họa vô cùng sặc sỡ. Như thế, Không đến trước nhưng không phải trước
trong thời gian vì thời gian giả định một chuỗi duyên sinh. Cái đến
trước có nghĩa là cái căn bản. Khi người ta có thể nghĩ đến duyên
sinh hay tương đối tính được, là vì chúng đã sẵn trong Không." (D.
T. Suzuki, Thiền luận. Tập Hạ) Câu cuối diễn tả cùng một ý nghĩa với
khẩu quyết lừng danh của Bồ tát Long Thọ: "Dĩ hữu Không nghĩa cố/
Nhất thiết pháp đắc thành/" (trong bài tụng Trung luận XXIV.14). Dịch
thoát: "Mọi pháp do Không mà có" hay "Các pháp phải Không (vô
tự tính) thời mới có thể hiện hữu". Vì do duyên sinh sự hữu của
vạn vật lệ thuộc nhân duyên, nghĩa là sự hữu không có yếu tính quyết
định nên toàn là giả hữu. Đối với những sự vật của thế giới
thường nghiệm, sự giả hữu của chúng tùy thuộc vào nhân duyên nên
không thể có tự tính mà hiện hữu được. Điều này cho thấy câu nói của
ngài Long Thọ, "Phải Không mới có", không có gì đáng gọi là nghịch
lý.
Để biểu dương đạo lý Duyên khởi
của đức Thế Tôn Bồ tát Long Thọ sử dụng bốn song thế phủ định (bát
bất). Dùng song thế phủ định "bất...., bất..." là muốn trỏ
vào hai đối cực mâu thuẩn nhau, sinh và diệt, thường và đoạn, nhất và
dị, lai và xuất, đồng thời bác bỏ luôn cả hai cực, tức là phủ định
hai lần kế tiếp. Kết quả là chuyển hóa hoàn toàn một phủ định tuyệt
đối (phủ định cả hai có và không, tức Không) thành một khẳng định
tuyệt đối (khẳng định cả hai có và không, tức Bất Không). Có những
điểm đáng lưu ý sau đây do sử dụng phép Bát bất.
1. Hai đối cực tuy mâu thuẫn nhau
nhưng cùng chung một bình diện. Trên mặt lưỡng nguyên đó, hai cực không
hợp vì cực này phủ định cực kia. Chúng không ly vì chúng được thành
lập trên quan hệ hỗ tương sinh tồn. Song thế phủ định là một bước
nhảy vọt xuyên qua cái mặt lưỡng nguyên ấy.
2. Song thế phủ định không những
là một quá trình luận lý mà trên phương diện tu dưỡng còn là một lối
diễn tả sự phấn đấu nội tâm để giải quyết mâu thuẫn giữa hai kiến
chấp đối nghịch, hữu và vô, khẳng định và phủ định, thường xuyên
gắn bó với tâm thức và là tự thân của đau khổ. Quả vậy, trong Tín
tâm minh, Tam tổ Tăng Xán nói: "Khi nào mình còn thấy có thuận có nghịch,
đối đãi thời lúc đó là tâm bệnh". Tất cả sự bất mãn và mất
tự do ở hiện tại đều được tạo ra bởi ý chí sinh hoạt khẳng định
của cá thể bắt nguồn từ vô minh, dục, ái, ngã chấp, ngã dục, v..v...
Nhưng khi khám phá được sinh, lão, bệnh, tử hiện thực tức thời biết
ngay được cái bất sinh bất diệt, do đó mà quyết tâm thực hiện thanh tịnh,
vượt thắng phiền não, tiêu diệt khổ ưu, đạt tới chánh đạo. Giải
thoát tức là nhìn thẳng vào hiện thực, dựa vào cái sinh mệnh hữu hạn
mà quán sát nhân duyên. Sự bức bách hiện thực thúc đẩy cởi bỏ mọi
trói buộc, siêu việt hiện thực, thể hiện sinh mệnh tuyệt đối vô hạn
tức Không, đạt tới một cảnh giới kỳ diệu bất tử, cái mà Phật gọi
là giải thoát, là niết bàn.
Hãy nghe Phật thuật lại kinh nghiệm
của Ngài sau khi thành đạo: "Như thế, Ta là sanh pháp, ở trong sanh
pháp, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sanh, tìm cầu cái không
sanh, vô thượng an ổn khỏi cái khổ ách, niết bàn, và đã chứng được
cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi cái khổ ách, niết bàn. Ta từ lão
pháp, ở trong lão pháp, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị già, tìm
cầu cái không già, vô thượng an ổn khỏi cái khổ ách, niết bàn, và đã
chứng được cái không già, vô thượng an ổn khỏi cái khổ ách, niết
bàn. ...Cho đến bệnh, tử, ưu, bi, khổ não cũng thế. Và trí và kiến khởi
lên nơi Ta. Sự giải thoát của Ta không bị dao động. Nay là đời sống
cuối cùng của Ta, không còn sự tái sanh nữa." (Kinh Thánh cầu. Trung bộ,
số 26)
3. Do thực hành phép quán Bát bất,
căn để chấp ngả chuyển hóa từ cái ngã không tưởng thành cái giả
ngã vô tự tính, tức Không. Hành giả thực hiện được trạng thái tuyệt
đối mâu thuẫn tự kỷ đồng nhất (self-identity of absolute contradiction), tức
là ngộ được lý đương thể tức Không. Đương thể là cái thể trong
đương thời, trong hiện tại. Cái thể chính nó đang hiện tiền, chứ không
phải ngoài cái đó, không phải quá khứ, vị lai, không phải vật khác,
mà ngay chính nó gọi là đương thể. Đương thể tức không có nghĩa là
đương ngay nơi thể tánh ấy là không, chứ không phải đương tướng tức
không. Không đây là Không của bản tánh (prakriti-sùnyatà).
4. Ta không thể đem cái nhận thức
thông thường của ta mà hiểu tánh Không. Lý do: tánh Không là tự thân thực
tại, không có tướng sinh tướng diệt, mà tri kiến của ta là các khung ý
niệm, các khuôn khổ của vọng tưởng như sinh và diệt, có và không, một
và nhiều,...nên không nắm bắt được tự thân thực tại. Như lời Phật
dạy trong kinh Pháp Ấn, phải đi thẳng vào thực tại mà chiêm nghiệm trực
tiếp chứ không phải đứng bên ngoài và quán sát tánh Không như một đối
tượng khách quan. Là tự thân thực tại, tánh Không không những là căn để
sâu thẳm nhất của cá thể hữu tình mà còn là căn để sâu thẳm nhất
của toàn thể vũ trụ.
Trở về với tương quan nhân quả
có tính đối xứng tức quan hệ tương đãi và tương thành, tánh Không
được xem như vừa là đối tượng vừa là chủ thể của nhận thức.
Kinh Pháp Ấn giải thích: "Vì thoát ly được mọi nắm bắt cho nên nó
(tánh Không) bao hàm được tất cả các pháp và an trú nơi cái thấy bình
đẳng không phân biệt: cái thấy ấy là cái thấy chân thực." Trên phương
diện văn pháp, hai động từ "bao hàm" và "an trú" đều có
cùng một chủ từ là "nó" (tánh Không). Nhưng động từ "bao hàm"
chỉ về đối tượng nhận thức và động từ "an trú" chỉ về
chủ thể nhận thức.
Lập trường Bát nhã xuất phát từ
vọng tâm duyên sinh quan, chủ trương quán sát từ bản chất của hết thảy
các pháp để thấu suốt tánh Không tạo thành một sức sinh hoạt hoạt động
tự do, không bị trở ngại hay trói buộc. Sự thấu suốt đó gọi là Bát
nhã, tức trí tuệ. Cho nên gọi là trí tuệ hay là Không thật ra cũng chỉ
là một. Cùng một sự thật mà đứng về phương diện chủ quan thời gọi
là trí tuệ (Bát nhã) nhưng nếu đứng về phương diện khách quan thời gọi
là tánh Không.
Cũng vậy, Phật tính chỉ riêng
các loài hữu tình hay Pháp tính chỉ chung cho vạn hữu được xem như vừa
là nhân vừa là quả của sự tu dưỡng. Nói theo nhân thời đó là khả năng
sẽ giác ngộ, nói theo quả thời đó là trạng thái của giác ngộ. Từ ngữ
Pháp thân cũng có hai nghĩa: Bản thân giáo pháp và Bản thân lý thể. Bản
thân giáo pháp chỉ cho giáo điển tồn tại làm biểu tượng cho bản thân
của Phật sau khi khuất bóng. Bản thân lý thể chỉ cho Giác ngộ như là bản
thân vô tướng. Chữ Chân Như cũng có hai mặt nghĩa: (1) Thật Không (như
thật không), tức là cái thể tánh rốt ráo chân thật của Chân như không
có các vọng niệm, không có các pháp nhiễm ô. (2) Thật Có (như thật bất
không), tức là về phương diện tướng dụng thời đầy đủ vô lượng hằng
sa công đức. Nhưng cảnh giới Thật Có này không có hình tướng gì để
nắm bắt. Vì đã lìa các vọng niệm phân biệt nên chỉ có người chứng
ngộ mới biết được mà thôi.
Tóm lại, trong Phật giáo, căn cứ
trên văn tự lời nói mà luận thời hầu như mọi trạng thái nào có thể
biểu thị cho một cái gì như là tuyệt đối hay căn để thâm sâu nhất
đều luôn luôn phải được nhìn vào theo hai mặt ý nghĩa đối xứng như
vậy. Lối nhìn vạn hữu theo cách đó, được gọi là "biết và thấy
thực tại như thế là như thế". Bồ tát Long Thọ chỉ trích lối quan
sát phân biệt những yếu tố chủ quan, khách quan, và quan hệ nhân duyên
đối lập với nhau. Theo Ngài, ngoài yếu tố khách quan không có yếu tố
chủ quan; ngoài yếu tố chủ quan không có yếu tố khách quan; ngoài khách
quan thời quan hệ không có, mà quan hệ không có thời nhận thức cũng không
thể có được. Bởi vậy, phương cách nhận thức đúng và chân thật nhất
là phương thức Nhị đế.
Bằng thuyết Nhị đế ta có thể
minh giải công thức duyên khởi và đạo lý nhân quả như sau.
(1) Đệ nhất nghĩa đế hay Chân đế:
Cái gì nương nhân duyên sinh đều không thể tự hữu tự tồn, độc lập
với mọi cái khác. Nghĩa là, sự hiện thực của chúng là giả lập, chỉ
có trên mặt thế tục, không thể hiện hữu ở bên ngoài thế giới thường
nghiệm.
(2) Thế tục đế hay Tục đế: Tiêu
chuẩn duy nhất để hiện hữu trong thế giới thường nghiệm là hiện hữu
nương nhân duyên sinh. Tương quan nhân quả giữa hiện thực và các duyên yếu
tố được nhận thức tùy thuận khung ý niệm xây dựng trên căn bản kinh
nghiệm xã hội, ngôn ngữ, và luận lý thu tập trong quá khứ và hiện tại
và sẽ cả trong tương lai.
Sự hiện hữu theo thế tục đế là
một hiện hữu giả danh bởi vì ngôn từ gọi tên nó là tác dụng kết hợp
các thuộc tính biểu thị nó tùy theo khung ý niệm cá nhân và theo quy ước
cộng đồng. Như thế, hiện hữu là Không, không có tự thể. Tên gọi
không chỉ vào một thực tại nào tương ứng với hiện hữu. Do đó, giá
trị chân thực của một cụm từ hay của một khái niệm tùy thuộc cách
sử dụng chúng có thuận hợp hay không với tình ý cá nhân và lệ luật
do cộng đồng quy định. Ngoài ra ý nghĩa của cụm từ hay khái niệm dẫn
xuất từ cách chúng được ứng dụng trong những trạng huống riêng biệt.
Đó là lý do tại sao Trung luận phản bác mọi hình thức sử dụng ngôn từ
để mô tả Thực tại tuyệt đối. Chân đế bất khả thuyết, không phải
vì ngôn ngữ không diễn tả được thực tại siêu thế gọi là tánh
Không, mà tại vì ý nghĩa các ngôn từ tùy thuộc tình ý của người nói
và do công ước cộng đồng quy định nên vô căn để, không thể quy chiếu
bất cứ một thực tại nào.
Vậy mọi hiện hữu theo tục ước
bắt buộc phải là một quả nói theo nhân của nó, và nó là một nhân,
nói theo quả của nó. Không một sự thể nào thoát khỏi tương quan nhân
quả theo kiểu ấy. Có nhân tức có quả, và ngược lại có quả tất phải
có nhân. Khái niệm nhân và quả có ý nghĩa cả về bản tính lẫn hình tướng
chỉ khi nào được xét trên quan hệ giữa chúng mà thôi.
Tương quan nhân quả
loại nhất đa tương tức
Nói rằng sự vật không có tự
tính không có nghĩa chúng không có bản tánh hay Thật tướng. Thật tướng
của chúng là Không, là Thực tại cứu cánh. "Thật tướng của các
pháp thời đoạn bặt, cắt đứt cả tâm hành lẫn ngôn ngữ (tư duy và
nói năng), không sanh cũng không diệt, tịch diệt như Niết bàn" (Bài tụng
Trung luận XVIII.7). Thật tướng hay bản tánh tuy phân biệt với giả tướng
nhưng không phải là một tự thể, không phải là đối tượng xác định
của tri giác. Bản tánh của sự vật là phi bản tánh; chính cái phi bản
tánh là bản tánh của chúng. Tại vì chúng duy nhất có một bản tánh,
chính là phi bản tánh. [prakrtyaiva na te dharmàh kimcit. yà ca prakrtih
sàprakrtih, yà càprakrtih sà prakrtih sarvadharmànàm ¾ ekalaksanatvàd yad
utàlaksanatvàt] (Astasàhasrikà Prajnàpàramità; Kinh Bát nhã Ba la mật Bát
thiên tụng).
Tánh Không bàng bạc khắp nơi,
nghĩa là tánh Không an lập trong mọi sự vật. Câu "chư hành vô thường"
cũng có nghĩa như vậy. Tánh Không của một pháp đồng nhất với tánh
Không của tất cả mọi pháp. Bởi tánh Không an lập trong mọi pháp nên do
tương đồng mà tánh Không vô hạn, không có biên giới, do đó bao hàm được
vạn pháp. Vạn hữu tức vũ trụ không tự hiện hữu, chỉ hiện hữu khi
đủ duyên, chỉ hiện hữu bằng vào quan hệ, lớp này lớp khác trùng
trùng vô tận, một làm duyên cho tất cả, tất cả làm duyên cho một, tất
cả y nơi một, một y nơi tất cả.
Vì thế vũ trụ ví như một mạng
lưới nhân duyên sinh vĩ đại, tất cả khởi lên đồng thời, nương tựa
lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, mỗi hữu không chướng ngại hiện hữu và
hoạt động của hữu khác. Mạng lưới ấy còn gọi là Pháp giới
(dharmadhàtu), là hình tướng tích cực của tánh Không, là biểu lộ động
của Chân như. Pháp giới vừa chỉ thế giới hiện tượng tức thế gian
giới, chi phối bởi định lý y tánh duyên khởi pháp, vừa chỉ cảnh giới
Chân như của chư Phật, vô vi tịch diệt, ái tận niết bàn. Nếu xét về
toàn thể tiến trình duyên khởi của vũ trụ, thời bản tính của hiện
khởi là vũ trụ nói theo nhân, là tánh Không, là Pháp giới.
Pháp giới duyên khởi là lý thuyết
cho rằng vũ trụ nói theo quả là cộng đồng tạo tác của tất cả mọi
loài, tương quan liên hệ trên đại thể, và hiện khởi trong hỗ tương
giao thiệp. Hết thảy mọi sự vật cá biệt giao thiệp nhau, nhưng mỗi sự
vật duy trì trọn vẹn cá biệt tính trong tự thân.
Stephen Hawking, nhà bác học trứ
danh về vật lý lý thuyết, đề xướng một vũ trụ tương tợ Pháp giới
Hoa nghiêm. Vào năm 1970, cùng với vật lý gia Roger Penrose, ông sử dụng
thuyết tương đối của Einstein, và khám phá một định lý toán học theo
đó vũ trụ hiện khởi từ một dị điểm toán học (singularity) gọi là
điểm nguyên thủy của vũ trụ. Thuyết này thường được gọi là thuyết
Bùng nổ (Big Bang). Nhưng thuyết này mới giải quyết vấn đề hiện khởi
của vũ trụ được một nửa mà thôi, vì thuyết tương đối không đủ
khả năng mô tả điểm nguyên thủy của vũ trụ. Bởi vậy, vào năm 1981,
Stephen Hawking tìm cách phối hợp thuyết tương đối với cơ học lượng tử,
dùng ảo số biểu tượng thời gian, và thành công chứng minh bằng toán học
rằng vạn hữu hiện khởi không phải từ một dị điểm mà từ một thực
tại nhất thể, đồng nhất và đối xứng, không dị điểm, không sai biệt,
không sinh không diệt. Để diễn tả thực tại ấy, Stephen Hawking viết:
"The universe is really completely self-contained, having no boundary or edge. It
would have neither beginning nor end: It would simply BE. What place, then, for a
creator?" (A Brief History of Time). Dịch: Vũ trụ thật sự hoàn toàn mãn
túc, không có biên giới hay bờ mép, vô thỉ vô chung. Nó hiện hữu đơn
giản là thế. Như vậy còn chỗ nào dành cho một Đấng Sáng tạo? Là thế,
danh từ Phật học là như thị, là yathàbhùta. Là thế tức là không thể
miêu tả được.
Theo nguyên lý bất định của
Heisenberg, sự vật hiện khởi là do Thực tại tự tánh sai biệt, bất biến
tùy duyên, mà thăng giáng năng lượng phát khởi, phá hủy tính đối xứng
nguyên thủy của Thực tại. Bắt đầu tiến trình biến chuyển là sự
sinh khởi tương thành (pair production) có tính cách đối xứng, nghĩa là những
cặp đối đãi hạt và phản hạt phát hiện đồng thời, đồng biểu hiện
một năng lượng giống nhau nhưng khác ở điểm hạt là năng lượng
dương và phản hạt là năng lượng âm. Sở dĩ cân bằng âm dương như thế
tại vì sinh khởi của hạt và phản hạt phát xuất từ một vũ trụ mà tổng
số năng lượng là không. Nói theo thuật ngữ Phật giáo, vũ trụ là Chân
Không và sinh khởi tương thành những cặp đối đãi hạt và phản hạt
là Diệu hữu. Trong trường hợp phản hạt và hạt va chạm nhau thời
chúng tương hủy theo nghĩa là chúng hỗ tương nhiếp nhập hoàn chuyển năng
lượng trở lại. Về sau cứ mỗi lần nhiệt độ của vũ trụ giảm đến
một mức độ nào đó thời lại thêm một lần tính đối xứng ở mức
đó bị phá hủy. Số hạt và số phản hạt bắt đầu chênh lệch, số hạt
trở nên nhiều hơn số phản hạt. Do đó, với thời gian phát hiện những
hạt sai biệt, trước là hạt nặng như dương điện tử, trung hòa tử,
sau là hạt nhẹ như âm điện tử. Sau đó do lực hấp dẫn các hạt tập
hợp lại tạo thành nguyên tử, nguyên tử thành phân tử,... Rồi đến lượt
thiên hà thành hình, từ đó khởi sinh sao và các hệ thống hành tinh,
v..v... Sinh mệnh cuối cùng thành lập do hội đủ các yếu tố cần thiết.
Về mặt pháp tướng, mỗi một sự
vật cá biệt tự giữ được tính riêng, làm đối tượng cho sự nhận thức
biết nó là nó. Về mặt pháp tánh, Thật tướng của vạn hữu là Không,
không có giới hạn, không có phần vị sai biệt. Do đó mỗi một sự vật
châu biến và bao dung vũ trụ. Đây là nhãn quan Viên dung của Hoa nghiêm:
Chân Như vốn thanh tịnh, mãn túc, và viên minh, nhưng cũng có diệu dụng năng
sanh tạo ra thế giới sum la vạn tượng. Có thể nói thế giới này là một
thế giới trùng trùng duyên khởi nằm gọn trong lòng một vi trần mà
không bị thu nhỏ lại. Vi trần là thuật ngữ dùng để chỉ mỗi một sự
vật cá biệt. Nói "thế giới trùng trùng duyên khởi nằm gọn
trong" tức là nói tánh Không an trú trong. Nói "không thu nhỏ lại"
tức là đứng trên phương diện pháp tướng của thế giới mà nói.
Có bốn trường hợp tương dung. Một,
cái một ở trong cái một. Một hiện hữu cá biệt duy trì trọn vẹn cá
biệt tính về phương diện pháp tướng, đồng thời về mặt pháp tánh
bao hàm một cá thể khác là do cả hai cá thể cùng có Thật tướng là
Không. Hai, cái một ở trong tất cả, có nghĩa là tất cả không để mất
cá biệt tính của chúng đồng thời dung chứa mỗi mỗi cá thể mà pháp
tánh đồng nhất với pháp tánh của tất cả. Ba, tất cả ở trong cái một,
có nghĩa là cái một vẫn giữ được cá biệt tính, đồng thời bao hàm tất
cả là do tất cả đồng nhất một tánh Không. Bốn, tất cả ở trong tất
cả, có nghĩa là tất cả duy trì cá biệt tính của chúng về mặt pháp tướng,
đồng thời mỗi mỗi cá thể bao dung tất cả về mặt pháp tánh.
Tóm lại, Thực tại cá biệt được
bao hàm trong một Thực tại bao la, và Thực tại bao la này lại thấy tham dự
trong từng mỗi Thực tại cá biệt. Thêm nữa, mỗi mỗi hiện hữu cá biệt
bao hàm trong chính nó tất cả những hiện hữu khác. Như thế có thể nói
có một sự hỗ tương giao thiệp toàn diện trong Pháp giới. Thuyết hỗ tương
giao thiệp có thể diễn tả theo thuật ngữ của tương quan nhân quả. Nhưng
từ ngữ đó phải được hiểu theo một ý nghĩa cao sâu hơn, vì Pháp giới
là thế giới vượt ra ngoài lưỡng cực có và không và không chút liên hệ
với ý niệm về tương quan nhân quả theo nghĩa thế tục. Giao thiệp nhân
quả trong Pháp giới được trực nhận không qua trung gian của khái niệm
nào cả, không phải như là kết quả của trí năng suy luận. Thế giới của
những quan hệ loại nhất đa tương tức còn được gọi là Không (Sùnya),
là Vô sinh (anutpàda), và Vô tự tính (asvabhàva).
Ngài Pháp Tạng nhận xét rằng muốn
hiểu duyên sinh quan của Hoa nghiêm cần phải thực hành sáu phép quán sau
đây: "(1) nhìn vào bản tánh trong sáng của Chân tâm, nơi trở về của
vạn hữu; (2) nhìn vào tự thể của thế giới sai biệt vốn là do Chân
tâm mà có; (3) quán sát về bí mật viên dung của tâm và cảnh; (4) quán
sát rằng tất cả chỉ là Chân Như, mà tất cả ảnh hiện tồn tại đều
phản chiếu trong đó; (5) quán sát rằng đài gương nhất thể thu nạp ảnh
tượng của mọi vật, mỗi mỗi vật không ngăn ngại nhau; và (6) quán sát
rằng chủ và khách cùng quan hệ tồn tại toàn triệt khắp tất cả thế
giới, nếu kéo ra một vật cá biệt thời toàn thể tất cả vật khác cũng
được kéo ra theo cùng lúc." (D. T. Suzuki. Thiền luận. Tập Hạ)
Tóm lại, duyên sinh quan Hoa nghiêm
được thuyết minh qua một giai đoạn "Không" lập nên cái thể
tâm thanh tịnh, rồi đứng trên lập trường tịnh tâm triệt để khoáng
trương thành thế giới quan, chủ trương một tức hết thảy, hết thảy tức
một (nhất đa tương tức). Đó là điểm khác biệt với lập trường Vọng
tâm duyên sinh của Bát nhã tuy cũng chủ trương mọi pháp duy tâm như Hoa
nghiêm.
http://www.buddhismtoday.com/viet/triet/059-batbat.htm