- Mười ba bài tụng
chủ yếu của Trung luận
Trong hai mươi bảy phẩm Trung quán luận,
có đến hai mươi lăm phẩm áp dụng biện chứng pháp để phủ định tự thể tức hiện tượng tự hữu và đả phá sự chấp
thủ quan niệm sự vật có tự tính tức
yếu tính quyết định. Chỉ có hai phẩm được trình
bày một cách xác quyết là Phẩm XXVI và Phẩm XXIV. Phẩm XXVI: Quán Nhân
duyên chỉ bày con đường đến giải thoát là tu tập thiền định về những
nỗi khổ do mười hai móc xích duyên sinh tạo ra. Phẩm XXIV: Quán Tứ đế
được xem như mô tả trọng tâm của triết học Trung quán, đề cập bản
chất của tánh Không và mối quan hệ giữa tánh Không và ngôn thuyết.
Xét trên bình diện tu dưỡng thời mọi hình
thức lập luận đề ra là cốt nhằm bác bỏ quan niệm sai thác của chính
hành giả vì vô minh từ nguyên thủy mà tưởng lầm rằng sự hữu luôn
luôn là sự hữu có tự tính. Phân tích suy lý là phương pháp hướng đến
tuệ quán tánh Không, nhận biết cách thức vạn pháp hiện hữu như thật,
hiện hữu đúng như cái thế duyên khởi của chúng.
Ban đầu hành giả
tra tầm toàn triệt với một tâm phân biệt rất vi tế để thấy rõ đối
tượng phải bác bỏ, nghĩa là nhận diện chính xác cái sự thể xuất hiện
được coi như là một thực hữu riêng biệt có tự tính. Ðồng thời
hành giả quán triệt cái cách chấp thủ theo bản năng vào cái sự thể
được xem là thật có tự tính ấy. Sau đó, hành giả áp dụng những luận
thức quen thuộc suy ra cái tự thể ấy không thể hiện hữu được và tri
nhận chân tánh vô tự tính của sự thể. Khi đã thành thục phân tích suy
lý tri nhận tánh Không của một sự thể nhất định, hành giả mở rộng
tầm quán tưởng của mình lan ra cho hết thảy mọi sự thể khác. Dần dà
nhờ năng lực của sự quen thuộc mỗi lúc mỗi tăng, hành giả thành tựu
chuyển thức thành trí và chứng ngộ tánh Không của vạn pháp. Bấy giờ
hành giả lìa xa mọi tà kiến về sự hữu có tự tính. Ðối với hành giả,
tuệ quán tánh Không chẳng khác nào liều thuốc trị hết bệnh nhận lầm
cái không thành có. Cuối cùng, do như thật tuệ tri, hành giả tri nhận hết
thảy mọi pháp đều không có tự tính: đó là toàn bộ năm thủ uẩn, khổ
và các lậu hoặc, các sở kiến, các vọng tưởng hý luận, các thiện
pháp và bất thiện pháp, ngay cả lý duyên khởi. Hành giả không phủ nhận
sự hữu. Hành giả chân chánh đoạn trừ sự chấp trước một thực tại
tự hữu.
Ða số kẻ đứng
ra phản bác thuyết tánh Không đều cố chấp rằng mọi sự hữu đều là
tự hữu, tức có tự tính quyết định. Do hiểu sai Không là không vô sở
hữu hay vô thể, nên đối phương lầm tưởng ngài Long Thọ phủ nhận thế
giới hiện tượng, bác bỏ sự hiện có các đối tượng của tri thức
thường nghiệm. Ngài Long Thọ xác quyết không phủ nhận sự hiện có các
hiện tượng. Ðối tượng của sự phủ định là cái tự tính quyết định
của chúng, bởi vì theo Ngài, không có sự vật nào tự nó tồn tại biệt
lập với sự vật khác, không do duyên sinh, hay không do cái khác mà hình
thành.
Trong lời chú giải
Trung luận, Tsong-ka-pa, tổ sáng lập tông phái Phật giáo Mũ vàng Geluk ở
Tây tạng vào thế kỷ 14, nhận xét rằng mười ba bài tụng Trung luận
XXIV.7-19 trong Phẩm XXIV: Quán Tứ đế có thể đem sử dụng trong bất cứ
trường hợp nào cần phải biện minh cho thuyết tánh Không.
Trong phẩm XXIV
này, sáu bài tụng đầu XXIV.1 - 6 thuật lại lập luận của đối phương
là nếu tất cả đều Không, thời suy luận, giáo pháp, tu tập, và đạo
quả trở nên vô nghĩa.
Bài tụng XXIV.7 trả
lời cho đối phương biết rằng những lời chỉ trích của họ là bằng
chứng cho thấy họ thực sự không hiểu biết gì về tánh Không: "Hiện
tại quả thật các người không có khả năng tri nhận được tánh Không
và nhân duyên của Không tánh kể cả ý nghĩa của Không tánh nên đã tự
mình sanh khởi những não hại!"
Kế đó, Bồ tát
Long Thọ đề cập thuyết Nhị đế. Ðây là lần đầu tiên trong Trung luận
thuyết Nhị đế được gọi đích danh: "Vì chúng sanh, chư Phật đã y
cứ vào Nhị đế để thuyết giảng giáo pháp. Nhị đế đó chính là Thế
tục đế và Ðệ nhất nghĩa đế" (Trung luận XXIV.8).
Cần lưu ý ở đây
Nhị đế được tiến dẫn như là hai sự thể riêng biệt. Vì một đế
được gọi là đệ Nhất nghĩa tức chân lý tối thượng, nên dễ làm
phát sinh sự so sánh mà sai lầm tưởng rằng đế kia, Thế tục đế, là
"ít thật" hơn. Chữ Hán "Thế tục đế" là do ngài La Thập
dịch từ chữ Phạn samvrti-satya. Ngài Nghĩa Tịnh cho rằng dịch như thế
chưa đủ ý nghĩa nên dịch là phúc tục đế hay phúc đế (chữ Hán
"phúc" có nghĩa là phủ, che, đậy). Theo ngài Nguyệt Xứng, chữ
samvrti, dịch là tục ước (convention), có ba nghĩa:
1.- samvrti có nghĩa
là chân tánh bị phúc chướng (che phủ). Cũng có nghĩa là lớp hiện tượng
bao phủ chân tánh. Như vậy, chữ samvrti hàm ý vô minh và sắc tướng huyễn
ảo. Theo định nghĩa này thời thế tục đế hay tục đế hoàn toàn đối
nghịch với đệ Nhất nghĩa đế hay chân đế. Shòtoku, một vị hoàng tử
Nhật bản, phát biểu ý tưởng tương tợ: "Thế gian hư giả, duy Phật
thị chân".
2.- samvrti có nghĩa
là cái này cái kia duyên nhau mà thành chứ không tự hữu độc lập riêng
biệt. Vì tục ước nên lìa xa chân tánh do đó bắt buộc phải sinh khởi
và hiện hữu trong cảnh giới luân hồi sinh tử. Ðịnh nghĩa thứ hai này
không đả động đến nghĩa phúc chướng được nêu ra trong định nghĩa
thứ nhất.
3.- samvrti có nghĩa
là biểu tượng tục ước (samketa) và ngôn thuyết (vyavahàra). Cứ theo định
nghĩa thứ nhì là sinh khởi hay hình thành do nhân duyên tùy thuộc thế gian
thời tất có nghĩa là tự thân hiển lộ dưới hình thức ngôn từ, khái
niệm, hay tư tưởng, v..v... Do đó, định nghĩa thứ ba hàm ý định nghĩa
thứ hai.
Tóm lại, theo ngài
Nguyệt Xứng (Candrakìrti), chữ samvrti có ba nghĩa: 1) hư giả vì vô minh; 2)
hiện hữu do nhân duyên; và 3) ngôn thuyết (tức ngôn ngữ và luận lý) và
định danh. Như vậy, theo tục đế, thế giới hiện hữu là thế giới
khái niệm và duyên khởi.
Ngài An Huệ
(Sthiramati) thuộc phái Duy thức dùng chữ samvrtti (hai tt) thay vì chữ samvrti (một t) và định nghĩa là
"vyavahàra", dịch là ngôn thuyết. Theo định nghĩa này samvrtti có ba hành tướng liên quan tam tự
tính (biến kế sở chấp, y tha khởi, và viên thành thực). Ở đây tam tự
tính được gọi là căn đế (mùla-tattva).
Hành tướng thứ
nhất là prajnapti-samvrtti dịch là thi
thiết khái niệm. Prajnapti có nghĩa là phân định sự vật (vyavasthàna) và
định danh (nàmàbhilàpa). Nghĩa này tương ứng với nghĩa thứ ba mà ngài
Nguyệt Xứng gán cho chữ samvrti (một t). Ngài
Huyền Trang dịch chữ prajnapti là "giả" và ngài Chân đế dịch là
"lập danh".
Hành tướng thứ
hai là pratipatti-samvrtti dịch là chấp
trước ngoại vật (arthàbhinivesa; attachment to the outer object). Ngài Huyền
Trang dịch chữ pratipatti là "hành" và ngài Chân đế dịch là
"thủ hành". Nghĩa này như vậy là có liên hệ biến kế chấp
(vikalpa), và từ đó liên hệ y tha khởi (paratantra) tương ứng với duyên
khởi (pratìtyasamutpàda), nghĩa thứ hai của chữ samvrti (một t).
Hành tướng thứ
ba là udbhàvanà-samvrtti dịch là hiển
liễu tức biểu dương (samdarsanà) và trỏ vào (samsùcanà) thực tại cứu
cánh. Nói càch khác, samvrtti là thốt lên tìm cách phát biểu Tuyệt đối vô
ngôn. Nghĩa này có thể so sánh với khái niệm đạo lộ (màrga; the path) một
mặt dẫn đến và một mặt phát xuất từ Tuyệt đối. Hành tướng thứ
ba hoàn toàn đối nghịch với nghĩa che phủ nói đến trong định nghĩa thứ
nhất của chữ samvrti.
Như vậy, cả Trung
quán lẫn Duy thức đều cho rằng theo thế tục đế sự hữu là một phúc
chướng (hindrance) xem như bao phủ ngăn che chân đế, nhưng đồng thời sự
hữu cũng là một biểu tướng (manifestation) hiển lộ chân đế. Ðiều
này được ngài Khuy Cơ, vị đệ tử xuất sắc của ngài Huyền Trang và tổ
sáng lập Pháp tướng tông, tổng hợp bằng cụm từ "ẩn hiển
đế". Ngài giải thích trong Ðại thừa Pháp uyển Nghĩa lâm chương,
Chương Nhị đế:
Thế
vị ẩn phúc, khả hủy hoại nghĩa;
Tục
vị hiển hiện, tùy thế lưu nghĩa.
Dịch là: Thế giới
(hiện tượng) là chướng ngại ngăn che (chân tánh) và có nghĩa là khả dĩ
hoại diệt. Tục ước là biểu hiện (chân tánh) và có nghĩa là thuận
theo quy định thế tục.
Ý Ngài muốn nói
"ẩn hiển đế" tức thế tục đế vừa phúc chướng (àvarana;
hindrance) ngăn che chân đế, mà cũng vừa hiển liễu (udbhàvanà;
manifestation) chân đế bằng khái niệm và định danh theo quy ước thế
gian.
Tóm lại, tục đế
có nghĩa là chân lý thường nghiệm của cuộc sống hằng ngày có thể suy
diễn và phát biểu bằng ngôn ngữ và lý luận do tập quán và công ước
quy định. Ngược lại, chân đế là chân lý tối thượng bất khả tư nghị
(acintya), bất khả thuyết (anabhilàpya), và vô vi (asamskrta). Ðặc tính của
Nhị đế là không bao giờ tục đế chuyển biến thành chân đế được và
chân đế luôn luôn siêu việt tục đế.
Trong phần kế tiếp,
bài tụng Trung luận XXIV.9 và 10 nói rõ sự cần thiết phải phân biệt
chân đế và tục đế:
"9. Nếu người
nào đối với Nhị đế mà không có khả năng biết và phân biệt thì kẻ
đó không thể tri nhận được ý nghĩa chân thật của giáo pháp sâu xa vi
diệu của chư Phật.
10. Nếu không nhờ
Tục đế, thì không đạt được Ðệ nhất nghĩa đế. Và nếu không đạt
được Ðệ nhất nghĩa đế thì không chứng được quả vị Niết bàn."
Mục đích của
Trung quán là giải thoát. Muốn đạt mục đích giải thoát thời phải triển
khai loại tuệ quán siêu thế là tuệ quán đặc biệt phân tích ý nghĩa của
tánh Không. Phương pháp luyện tâm để tập tinh yếu của Ðịnh Huệ là
áp dụng pháp thiền phân tích bằng khái niệm, bằng ngôn ngữ và luận
lý. "Triết lý vô ngôn của Trung quán không thể hiểu một cách hời hợt
là muốn đi về Tuyệt đối, phải loại bỏ triệt để mọi hình thức của
ngôn ngữ" (Triết học về tánh Không, Tuệ Sĩ). Ngôn ngữ và luận lý
có khả năng khai hiển và chỉ thị Thật tướng. Muốn trình bày về Thật
tướng thời phương cách duy nhất là phát biểu trên bình diện tục đế.
Những ngôn từ và khái niệm như vô thường, vô ngã, duyên sinh, v..v... rất
cần thiết để giải thích tánh Không. Tất cả đều thuộc phạm vi của
tri thức thường nghiệm, của tục đế.
Cần lưu ý đến
điểm ngài Long Thọ không hề so sánh giá trị giữa tục đế và chân đế.
Ngài nhấn mạnh rằng sự thấu đạt chân lý tối thượng hoàn toàn tùy
thuộc vào sự thông hiểu tục đế tức ngôn ngữ và luận lý của thế tục.
Quả vậy, chư Phật đã bằng vào ngôn thuyết để khai thị cho chúng sanh
ngộ nhập tri kiến Phật. Phía chúng sanh cũng phải bằng vào ngôn ngữ mới
thể ngộ và thể nhập Thật tướng. Ðó chính là ý nghĩa của Trung luận.
Trung được khai hiển và chỉ thị bằng Luận, rồi do Luận mà thể ngộ
và thể nhập Trung. Tiêu đề Trung luận chỉ gồm hai chữ Trung và Luận
thôi đã nói lên đầy đủ ý nghĩa của triết lý Trung quán.
Thuyết tánh Không
của Trung quán rất tinh tế, vì vậy thường dễ bị hiểu lầm là một phủ
định luận. Bồ tát Long Thọ lên tiếng cảnh cáo: "Vì căn tánh ám độn,
không có khả năng chánh quán Không tánh, nên tự hại, chẳng khác nào
không giỏi về chú thuật bắt rắn nên không thể bắt những rắn độc một
cách thiện nghệ (Trung luận XXIV.11).
Ðức Thế tôn biết
rõ pháp này là pháp sâu xa mầu nhiệm, chẳng phải là pháp mà kẻ độn
căn có thể hiểu được vì thế mà Ngài không muốn dạy (Trung luận
XXIV.12)."
Thế rồi Ngài Long
Thọ chỉ ngược vào đối phương mà nói: "Các người cho rằng ta là
người chấp trước Không tánh nên vì ta mà sanh ra những lỗi lầm, kỳ thật
những lỗi lầm mà hiện các người đang nói, đối với Không tánh thì
nó hoàn toàn không có (Trung luận XXIV.13)". Ngài giải thích: "Do có
ý nghĩa Không (vô tự tính) nên tất cả các pháp mới được thành lập.
Nếu không có ý nghĩa Không thời tất cả các pháp đều bất thành (Trung
luận XXIV.14). Hiện chính các người đang có lỗi mà lại đổ ngược lỗi
ấy cho ta. Thật giống như kẻ đang cỡi ngựa mà quên con ngựa mình đang
cỡi (Trung luận XXIV.15)".
'Không' áp dụng vào ngôn thuyết (ngôn ngữ
và luận lý) có nghĩa là im lặng, là không thuyết, hay nếu phát biểu thời
không dựa trên một tôn chỉ, một chủ trương nào.
Không thuyết chẳng phải là một phủ định
tiêu cực có tính cách đoạn diệt. Câu "Tuyệt đối vô ngôn"
không có nghĩa là chấp "Tuyệt đối có", cũng không có nghĩa là
chấp "Tuyệt đối không có". Giống như trường hợp trong kinh €nanda
(Tương Ưng bộ, IV.400), khi du sĩ Vacchagotta hỏi là có tự ngã hay không, đức
Phật im lặng không trả lời "có tự ngã" hay "không có tự
ngã". Sự im lặng của đức Phật không phải là một khẳng định,
cũng không phải là một phủ định. "Có" và "không có"
là do phân biệt đối đãi sinh ra. Im lặng là siêu việt mọi phân biệt đối
đãi.
Theo
đúng nghĩa của 'Không', nếu xem mệnh đề "nhất thiết pháp
không" như một chủ trương thời mệnh đề ấy vô nghĩa, vì đã
Không thời phải không có một chủ trương nào, hay một kiến giải riêng
tư nào. Vấn đề này được đề cập trong Hồi tránh luận
(Vigrahavyàvartanì), một quyển sách viết vào thời kỳ sau Trung luận trong
đó Ngài Long Thọ biện minh cách sử dụng ngôn ngữ và biện chứng pháp
để thuyết minh tánh Không bằng vào luận cứ của đối phương. Ngài Long
Thọ thuật lại đối phương nói rằng họ có thể bác bỏ chủ trương
"nhất thiết pháp không" của Ngài mà không phạm lỗi lập luận
sai lầm, vì họ không chấp các pháp là không. Lời phản bác của họ có
tự tính quyết định, không phải là một mệnh đề không. Trái lại theo
họ, Ngài Long Thọ đã phạm lỗi lập luận sai lầm vì đã chủ trương mọi
pháp đều không mà vẫn phát biểu "nhất thiết pháp không". Mệnh
đề này cũng 'không' như mọi pháp khác thời làm sao bác bỏ tự tính của
những pháp không khác?
Ngài Long Thọ trả
lời: "Nếu ta có lập ra một tôn chỉ (pratijnà), thời lỗi lầm ấy
quả thật là của ta. Nhưng ta không đưa ra một chủ trương nào cả. Như
thế, không có lỗi lầm nào là của ta cả." (Hồi tránh luận, bài tụng
số 29). Ngài nói thêm: "Ta không phủ
định một cái gì cả, mà cũng không có cái gì để phủ định"
(Hồi tránh luận, bài tụng số 63). Lý do là vì tất cả mọi pháp đều
không (vô tự tính) thời còn có gì mà phủ định. Mệnh đề "nhất thiết pháp không"
không phủ định cái gì cả. Công dụng của nó là chỉ cho thấy không có sự vật nào có tự
tính quyết định, tất cả đều do
duyên sinh. (Hồi tránh luận, bài tụng số 64).
Tóm lại, suy luận
căn cứ trên tánh Không có nghĩa là không dựa vào một chủ trương, một
tôn chỉ nào như Ngài Long Thọ giải thích trên hoặc giữ im lặng không
phát biểu như đóa hoa đức Phật giơ lên và nụ cười cảm ứng của Ngài
Ca Diếp. Bài tụng Trung luận XXII.11 trong Phẩm Quán Như Lai đặc biệt chỉ
cho thấy rằng ngay cả khi đứng trên lập trường chân đế mà nhìn cũng
không thấy có điều gì khả dĩ nói lên được:
Không
tắc bất khả thuyết
Phi
không bất khả thuyết
Cọng
bất cọng phả thuyết
Ðản
dĩ giả danh thuyết.
Bốn luận giải,
Không, Phi không, Không và Phi không, chẳng phải Không chẳng phải Phi không
là những thuộc từ mô tả thực tại cứu cánh mà chủ từ Như Lai chỉ vào.
Vì Ngài Long Thọ thường xuyên nhắc đến lý Không của bản tánh thể hiện
trong sự giả hữu của muôn vật nên tưởng như Ngài muốn nói rằng đứng
trên lập trường đệ Nhất nghĩa đế mà nhìn, thời thế giới hiện tượng
là hư huyễn không thật, do đó nói là "vô", là "không".
Nhưng qua bài kệ này Ngài nhấn mạnh dù có đứng trên phương diện chân
đế cũng không thể diễn tả sự vật bằng ngôn từ được. Bởi bản tánh sự vật khách quan chẳng tự
hiện hữu nên không tìm ra được tự thể để mô tả với những thuộc
tính 'Không' hay 'Phi không'. Cũng không thể nói là 'Không và Phi không', 'chẳng
phải Không chẳng phải Phi không' bởi vì nói như vậy là mâu thuẫn với
ngôn ngữ ước định và tri thức thường nghiệm. Cuối cùng chỉ còn một
cách nói xác thực là hết thảy mọi mệnh đề phát biểu về Như Lai
cũng như về bản tánh của sự vật đều là giả nói, giả danh thuyết.
Cùng một loại tứ
cú phủ định như bài tụng trên, bài tụng Trung luận XXV.17 trong Phẩm
Quán Niết bàn nói về vấn đề tồn tại hay không tồn tại sau khi chết:
Như
Lai diệt độ hậu
Bất
ngôn hữu dữ vô
Diệc
bất ngôn hữu vô
Phi
hữu cập phi vô.
Dịch là: Sau khi đức Như Lai diệt độ không
thể bảo rằng Ngài hiện hữu hay không hiện hữu, cũng không thể bảo rằng
Ngài vừa hiện hữu vừa không hiện hữu, mà cũng không thể bảo rằng
Ngài chẳng phải hiện hữu chẳng phải không
hiện hữu.
Thường khi phủ định
một sự thể và muốn cho sự phủ định có ý nghĩa thời sự thể ấy phải
thực hữu, chứ không huyễn ảo. Như vậy, vấn đề tồn tại hay không
sau khi chết phát sinh từ kiến chấp các pháp thật có. Vì tin rằng Như
Lai thực hữu trong thế gian này cho nên mới lý luận rằng Như Lai không tồn
tại sau khi chết. Nhưng nếu thấy hiểu Như Lai là Không tánh thời mọi
câu hỏi liên quan đến sự hiện hữu sau khi chết là vô nghĩa. Trong Trung
luận, mỗi khi đối phương đứng trên lập trường chân đế để mô tả
bản tánh của sự vật, Ngài Long Thọ dùng ngay tứ cú phủ định để chứng
minh rằng mọi ngôn thuyết chỉ có ý nghĩa trên lập trường thế tục đế
mà thôi. Mỗi lần ta cố gắng diễn tả có mạch lạc bản tánh của sự
vật theo chân đế thời kết cuộc không làm sao tránh khỏi nói lên những
điều vô nghĩa lý.
Tri thức thường
nghiệm cho thấy thế giới hiện tượng là một mạng lưới 'nhân duyên sinh' vĩ đại trong đó hết thảy
hiện tượng đều là tương đối, quan hệ chằng chịt với nhau, nương vào
nhau mà tồn tại. Bởi vậy theo tục đế ta có thể nói vạn hữu đều không,
nghĩa là không có tự tính quyết định. Như thế quan điểm tánh Không
không có gì đối nghịch với lập trường tục đế. Trung luận cho rằng
đức Phật thuyết về pháp Không như là phương tiện đối trị. Thật vậy,
chúng sinh thường chấp ngũ uẩn làm ngã.
Vì chấp ngũ uẩn làm ngã nên có vô minh. Vì vô minh nên sinh ái dục.
Do ái dục mới sinh chấp thủ. Do chấp thủ mới tạo nghiệp. Vì tạo nghiệp
nên mới luân hồi sinh tử, chịu khổ. Ðức Phật dạy cho biết hết thảy
các pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà sanh ra, tự tính vốn không, không
có ngã, ngã sở, không có chúng sinh, không có sự vật. Nếu thông đạt
như vậy thời thân tâm khỏi mọi sự phiền não do chấp trước gây ra và
được tự do, vô ngại.
Trong hai bài tụng
Trung luận XXIV.16 và 17, ngài Long Thọ bắt đầu chỉ cho đối phương rõ sự
liên hệ giữa tánh Không và lý duyên khởi:
"16. Nếu các
người thấy các pháp chắc chắn thật có tự tính, tức là các người thừa
nhận các pháp không có nhân cũng không có duyên.
17. Như thế tức là
phá hủy nhân và quả, sự tạo tác, kẻ tạo tác, và pháp được tạo tác,
cũng như sự sanh diệt của vạn vật, tất cả đều bị hủy hoại."
Vì đối phương chấp
rằng có tức là có tự tính quyết định nên không thể cắt nghĩa sự thể
có là do duyên sinh. Ðối phương cũng không thể cắt nghĩa lý do hình
thành các sự thể "duyên dĩ sinh" như khổ, tập đế, niết bàn,
đạo lộ, Phật, Pháp, và Tăng, và nhiều hiện tượng thế gian khác nữa.
Khi đối phương chấp các pháp có tự tính thời đương nhiên phủ nhận
tính cách duyên sinh, vô thường, hay tạo tác của các pháp.
Nay đến lúc ngài
Long Thọ bày tỏ quan điểm của mình trong hai bài tụng Trung luận XXIV.18
và 19. Các luận sư xem hai bài tụng này như thiết lập nền tảng của triết
học Trung quán:
18. Chúng nhân duyên
sinh pháp
Ngã thuyết tức thị
vô
Diệc vi thị giả
danh
Diệc thị trung đạo
nghĩa.
19.
Vị tằng hữu nhất pháp
Bất tùng nhân
duyên sinh
Thị cố nhất thiết
pháp
Vô bất thị không
giả.
Nghĩa là: 18. "Các pháp do duyên khởi (pratìtyasamutpàda),
nên ta nói là Không (sùnyatà), là Giả danh (upàdàya-prajnapti), và cũng chính
là Trung đạo (madhyamà pratipat)".
19. Chưa từng
thấy có bất cứ pháp nào không sanh từ nhân duyên. Thế nên tất cả các
pháp đều Không, nghĩa là không có tự tánh".
Bồ tát Long Thọ xác quyết mối quan hệ
đồng nhất giữa ba phương pháp mô tả duyên
khởi: Không, Giả danh, và Trung Ðạo. Xét riêng biệt thời vấn đề
duyên khởi xem như thuộc phạm vi bản thể luận và nguyên nhân luận. Giả
danh là vấn đề của nhận thức luận liên quan ngôn ngữ và tư duy. Trung
đạo liên hệ với vấn đề tu dưỡng. "Không" chỉ vào một tư
tưởng căn bản của Phật giáo Ðại thừa bao gồm hết thảy mọi phạm
trù triết học và tôn giáo. Ngài Nguyệt Xứng cho rằng sùnyatà (Không),
upàdàya-prajnapti (Giả danh), và madhyamà pratipat (Trung đạo) là những danh tự tuy khác nhau nhưng đồng
nghĩa với chữ pratìtya-samutpàda (Duyên khởi).
Chân lý ba mặt (Viên dung Tam đế): Không
đế, Giả đế, và Trung đế của Thiên thai tông bắt nguồn từ bài tụng
XXIV.18 này. Ðặc biệt theo học thuyết Thiên thai, cả ba đế thâm nhậm lẫn
nhau, dung hòa và hợp nhất hoàn toàn: mỗi một pháp tự biểu lộ trong tất
cả ba đế, mỗi hiện hữu tương thông trong tất cả ba đế. Nói cách
khác, một sự thể là Không nhưng cũng là Giả hữu. Nó là Giả bởi vì
nó là Không, và vì đồng thời vừa là Không vừa là Giả cho nên nó cũng
là Trung. "Không" hoàn toàn là một phủ định. Ngay cả ý niệm
Không cũng bị phủ định. Như thế, mọi pháp đều giả tạm bởi vì
chúng đều được thi thiết trong tâm hay hiện hữu do tập hợp nhân
duyên. Chúng chỉ hiện hữu bằng giả danh chứ không thật có.
Ðiều đáng lưu ý trong bài tụng XXIV.18
là rõ rệt có một sự sắp đặt các danh từ Duyên khởi, Không, Giả
danh, và Trung đạo theo một thứ tự trước sau nhất định. Thứ tự đó
liên kết các danh từ ấy với nhau theo tiến trình luận lý áp dụng trong
mệnh đề "Sắc tức thị Không, Không tức thị sắc" của Tâm
kinh.
Ðể diễn tiến lý luận theo tiến trình
ấy thời trước hết lập mệnh đề tôn "duyên khởi là Không" kết hợp từ
"duyên khởi" với từ "Không". Lý do? Tại vì vô tự tính (nhân). Sự thể hiện
khởi do nhân duyên tất không có tự tính (Trung luận XV.2). Duyên khởi là
đương thể, cái thể thấy ngay trong hiện tại, trong đương thời.
"Duyên khởi là Không" có nghĩa là đương thể tức không, cái
Không nơi bản tánh Không, chứ không phải nơi giả tướng Không. Cái
Không đây là cái Không Bát nhã (nghĩa là chỉ có trí Bát nhã mới thấy
biết được mà thôi), tức có mà không, chứ không phải lìa có mà không.
Nơi cái có mà không, là không nơi tự tính của nó. Vậy nghĩa của
Không là vô tự tính. Thí dụ: Ðất, nước, gió, lửa duyên hợp sinh ra
thân thể con người, hình thành vạn vật. Mỗi đại tưởng chừng như có
tánh thật, có tướng thật: đất có tánh cứng, nước có tánh lỏng, gió
có tướng động, lửa có tướng nóng. Kỳ thực, nếu chúng có tự tính
thời chúng độc lập riêng biệt không thể duyên hợp với nhau để thành
thân người, để sinh vạn vật. Vậy chúng đều vô tự tính. Tất cả
các pháp đều duyên sinh nên vô tự tính. Không có tự tính nên tất cả
các pháp đều không. Do vô tự tính mà có và không, khẳng định và phủ
định thu nhiếp thành một.
Thứ đến là lập mệnh đề tôn kế tiếp:
"Không là giả danh" kết hợp
từ "Không" với từ "giả danh".
Lý do? Tại vì do duyên sinh
(nhân). "Không" có nghĩa là vô tự tính. Không có tự tính quyết
định nên hiện khởi do duyên sinh. Vậy Không là duyên khởi. Giả danh là
cái tên gọi được thiết lập y cứ vào một tập hợp nhân duyên. Thí dụ:
Mầm là tên gọi y cứ vào hạt giống. Phật là tên gọi y cứ vào thập
trí lực, tứ chủng tịnh, tứ vô sở úy, thập bát bất cọng pháp, ... Vậy
giả danh là duyên khởi vì được thành lập trên một cơ sở tập hợp nhân
duyên. Trong tập luận giải Trung Luận Prasannapadà, ngài Nguyệt Xứng có lần
viết: "[Những kẻ ngu si ấy] không thấy được chân lý duyên khởi
(pratìtya samutpàda). Chân lý này có ý nghĩa vô cùng thâm diệu, xa lìa tà
kiến chấp thường chấp đoạn, và được gọi là giả danh (upàdàya
prajnapti)". Như vậy giả danh có nghĩa là duyên khởi.
Vì "Không" là giả danh nên giống
như mọi âm thanh khác tiếng "Không" có công dụng hoàn tất một mục
tiêu rõ rệt của người nói. Ðứng trên lập trường Trung quán mà xét
theo phương diện triết lý ngôn ngữ thời ta có thể hiểu tiếng
"Không" như là nói đến một lối sống, một cách hiện hữu, nhận
thức, và hành động hoàn toàn tự tại, tự do và vô ngại về cả vật
chất và tinh thần, giải thoát khỏi sự trói buộc của chấp trước và
phiền não.
Cần lưu ý rằng trước tiên trong mệnh đề
"Duyên khởi là Không", duyên khởi đã bị phủ định và được xác
quyết là Không. Ngay sau đó, mệnh đề "Không là Giả danh" cho thấy
giả danh chính là duyên khởi được phục hoạt từ tánh Không sau khi trải
qua một lần bị phủ định. Nói cách khác, tánh Không là thế giới của
duyên khởi bị phủ định. Mặc dầu bị phủ định, nhưng vì thực tại
cứu cánh không ngưng biểu hiện trong thế giới hiện tượng dưới biểu
hiệu giả danh (upàdàya prajnapti), cho nên duyên khởi vẫn linh hoạt và tác
dụng trong thế giới luân hồi này. Duyên khởi tái sinh từ tánh Không như
vậy là một giả danh thi thiết y cứ vào một số thành tố. Vậy nó đồng
nghĩa với biểu tượng tục ước (samketa) và ngôn ngữ thế gian
(loka-vyavahàra). Xuất hiện lại sau lần bị tánh Không phủ định, duyên
khởi không còn như trước khi bị phủ định. Trước đó, ai ai cũng kinh
nghiệm được rằng các hiện tượng trong đời sống hằng ngày đều hiện
khởi do nhân duyên, nhưng bản chất của chúng không mấy ai thấy được là
Không. Lần này phục hoạt trở lại từ tánh Không, duyên khởi trở thành
lượng quả tục ước, nghĩa là thành quả nhận thức của Hậu đắc trí
(laukika-prsthalabdha-jnàna) được gọi tên mà không thật có.[Hậu đắc trí
là một pháp hữu vi thuộc tục đế chứng đắc ngay sau khi chứng đắc Vô
phân biệt trí (Nhiếp luận, Vô trước)]
So với câu "Sắc tức thị Không,
Không tức thị Sắc" của Tâm kinh, thời mệnh đề "Duyên khởi
là Không" tương ứng với phần đầu câu "Sắc tức thị
Không" và mệnh đề "Không là Giả danh" tương ứng với phần
câu còn lại "Không tức thị Sắc". Hoặc có thể dùng ngôn văn 'tức
phi thị danh' của kinh Kim Cang mà nói là "Thấy duyên khởi mà không phải
duyên khởi, tạm gọi là duyên khởi vậy".
Cuối cùng, bài tụng XXIV.18 xác định
"Duyên khởi chính là Trung đạo". Trung luận đề cập Trung đạo một
cách gián tiếp khi nhắc đến kinh Ca Chiên Diên Thị, Tương Ưng bộ, trong
bài tụng XV.8. Trong kinh này đức Phật nói đến Trung đạo như sau:
"Này
Kaccàyana, thế giới này phần lớn y chỉ vào hai cực đoan này: có và
không có. ...
"Tất
cả là có", này Kaccàyana, là một cực đoan.
"Tất
cả là không có" là cực đoan thứ hai.
Xa lìa hai cực đoan ấy, này Kaccàyana, Như
Lai thuyết pháp theo trung đạo."
Tiếp theo, đức Phật thuyết minh lý duyên
khởi thu gọn trong mười hai nhân duyên dùng làm nền tảng lập cước cho
pháp môn Trung đạo của Ngài. Vậy Duyên khởi là Trung đạo.
Căn cứ trên biện chứng pháp trình bày
trong bài tụng XXIV.18, ta thấy Trung đạo được mô tả như một sự vận
hành tư tưởng không dính mắc vào hai cực có và không, khẳng định và
phủ định. Trước hết là từ bỏ sự khẳng định các pháp là thật có
theo sự hiểu biết thông thường của thế gian, xoay qua sự phủ định một
thực tại tự hữu hay phủ định cá tính đặc thù, lìa xa mọi hý luận,
và thành đạt tuệ quán chứng ngộ tánh Không. Sau đó trở lại khẳng định
duyên khởi là giả danh và nhận rõ tất cả đều do duyên sinh, không có tự
tính, như huyễn như hóa, ra ngoài cái có cái không, không có gì đáng phân
biệt.
Kinh Bảo Tích (Ratnakùta Sùtra) thuật lại
lời Phật dạy tu sĩ Kàsyapa về Trung đạo và tánh Không như sau:
"Không phải khái niệm tánh Không đã
làm cho mọi sự vật đều trở nên không; thực ra chúng đều là không, giản
dị chỉ có thế. Không phải khái niệm về sự không có nguyên nhân cứu
cánh đã làm cho mọi sự vật đều trở nên không có nguyên nhân cứu
cánh; thực ra chúng không có nguyên nhân cứu cánh, giản dị chỉ có thế.
Không phải khái niệm về sự không có một mục tiêu tối hậu đã làm
cho mọi sự vật trở nên không có mục tiêu tối hậu; thực ra chúng
không có mục tiêu tối hậu, giản dị chỉ có thế. Này Kàsyapa, ta gọi sự
suy nghĩ thận trọng như vậy là Trung đạo, một sự suy nghĩ thật là thận
trọng. Này Kàsyapa, có kẻ nào mà hiểu tánh Không là biểu tượng tri giác
(upalambha) của Không thời ta nói rằng kẻ đó điên cuồng nhất trong số
những kẻ điên cuồng.... Quả vậy, này Kàsyapa, thà chấp một kiến giải
về bản chất con người có cỡ lớn như núi Tu Di, còn tốt hơn là dính mắc
vào kiến giải về Không như "vô thể" (vô sở hữu). Tại sao vậy?
Này Kàsyapa, tại vì tánh Không là đoạn tận hết thảy mọi luận chấp.
Kẻ nào xem tánh Không là một học thuyết thời ta bảo kẻ đó hết đường
hóa độ. Này Kàsyapa, giống như trường hợp một y sĩ cho bệnh nhân uống
thuốc, đến khi trị lành bệnh nguyên thủy mà thuốc vẫn còn ở lại
trong bao tử không chịu tống bỏ nó ra. Này Kàsyapa, ông nghĩ sao, người
đó có thật đã chữa hết bệnh hay chưa?
Õ Bạch Thế tôn, quả thật chưa. Nếu thuốc
chữa lành bệnh nguyên thủy mà vẫn còn ở lại trong bao tử không bị tống
xuất thời bệnh của người đó trở nên trầm trọng hơn.
Ðức Thế tôn bảo: Này Kàsyapa, đó chính
là tánh Không đoạn tận hết thảy mọi luận chấp. Kẻ nào còn chấp
tánh Không là một học thuyết thời ta bảo kẻ đó không thể hóa độ."
Tánh Không không thể xem như một quan điểm
triết học, vì sự phủ định trong trường hợp này hàm chứa một sự khẳng
định đối đãi nên sẽ dẫn đến hai kiến chấp cực đoan, thường kiến
và đoạn kiến. Ðây là loại phủ định tương đối (paryudàsa), nghĩa là
gián tiếp khẳng định sự có một cái gì khác thay thế. Chẳng hạn trường
hợp phủ định cái ngã do ngũ uẩn kết hợp lại nhưng đồng thời khẳng
định có cái ngã nơi mỗi uẩn.
Không tánh là một phủ định tuyệt đối
(prasajya). "Không" không gán cho sự vật những phẩm tính quyết định.
"Không" bác bỏ những phẩm tính do vọng tưởng phân biệt thiết
lập nhưng vì mê lầm mà tưởng là thật có. "Không" phủ định
toàn diện có nghĩa là "không thay vào phẩm tính bị bác bỏ một phẩm
tính nào khác". Thí dụ: Khi bảo sự vật là Không, cái bị phủ định
là "tự tính", cái không do duyên sinh, không nhờ vào một cái khác
mà được hình thành. Phủ định ở đây không hàm ý thay thế "tự
tính" bằng một tính nào khác. Cũng vậy, khi tánh Không phủ định thực
tại của thế giới hiện tượng thời không có nghĩa là khẳng định
"có một cái gì" hay "không có cái gì" thay thế cái thực
tại bị phủ định đó. Nói cách khác, cái thực tại bị phủ định không
được thay thế bằng một thật thể khác trừu tượng hơn, hay có tính chất
siêu hình.
Trung luận chỉ bày một phương cách phát
triển trí Bát nhã là tuệ quán đặc biệt liễu tri tánh Không để thấy
biết thế gian trong tướng trạng chân thực của nó qua những hình tướng
thiên sai vạn biệt của thế giới hiện tượng và bằng vào tư tưởng, tình
cảm, và cảm giác của thế giới nội tâm. Ðó là sử dụng ngôn ngữ và
luận lý một cách thiện xảo để đoạn diệt hý luận.
Trong bài tụng XVIII.5, bản chữ Phạn,
ngài Long Thọ nói rằng "Nghiệp và phiền não diệt thời đó là giải
thoát. Nghiệp và phiền não phát xuất từ vọng tưởng phân biệt. Vọng tưởng phân biệt bắt nguồn từ hý
luận. Nhập Không tánh thời hý luận diệt".
Ngôn ngữ và luận lý là công cụ hữu
ích nhất trong cuộc sống thường nhật. Chẳng may phương cách tư duy và
phát biểu thông tục là vọng tưởng phân biệt, tách rời cái biết với
sự biết, người biết với cái được biết, phân chia ngoại giới với nội
tâm, thành những cặp mâu thuẫn đối lập nhau, "làm cho các pháp trong
đồng nhất tính duyên khởi, vô danh vô tướng, vô thỉ vô chung, vô trung
vô biên (không trong không ngoài) nổi lên thiên hình vạn trạng, rồi mê muội
chạy theo giả tướng thiên hình vạn trạng đó mà đắm trước, tạo nghiệp,
buộc ràng theo nó, gây nên khổ đau." [Luận Thành Duy thức, Thích Thiện
Siêu]
Vì vọng tưởng phân biệt bắt nguồn từ
hý luận nên diệt hý luận thời không còn có phân biệt. Không có phân biệt
thời không chấp trước, không móng khởi tâm niệm, và không có hai tướng
có và không. Do đó mà xả trừ hết thảy phiền não, thâm chứng lý Giác
ngộ tức hiển minh trí Bát nhã.
Ðể tóm kết, chủ ý của bài tụng Trung
luận XXIV.18 là mô tả một cách tổng quát phương pháp chuyển hóa toàn bộ
tâm thức thay đổi những thói quen phân biệt lập thành những tướng
năng tri và sở tri, cái không thật có đối đãi với cái thật có, thành
những thói quen nhận rõ mọi pháp đều là duyên sinh như huyễn, không tự
tánh, không thủ trước, không phân biệt. Sự chuyển hóa này thay đổi hẳn
cả một lối sống, đổi những thói quen chấp trước mê lầm thành những
thói quen từ bi giác ngộ. Trong cái thế giới thiên sai vạn biệt của những
giả tướng, người có trí thấy sự vật như vậy là như vậy mà tâm
không chút dính mắc. Coi thường khổ đau và vui sướng, không để chúng
làm bận tâm, người có trí luôn luôn sống an nhiên tự tại lấy sự thực
hiện sự nghiệp tự lợi lợi tha làm mục tiêu lý tưởng. Ðó chính là mục
đích Trung luận nhắm đến.
http://www.buddhismtoday.com/viet/triet/13baitungchuyeucuaTrungLuan.htm