- Thông điệp của những
người Anh
- Alan Ereira
- Nguyên Phong dịch
LDG: Tháng 10 vừa qua, đài BBC tại
Luân Đôn và PBS tại Hoa Kỳ đã cho phát hình một tài liệu đặc biệt
ghi nhận nếp sống của một bộ lạc thiểu số tại Nam Mỹ . Cuốn phim này
đã gây chấn động dư luận thế giới và hiện là một đề tài đưọc
bàn cãi rất nhiều trong giới khảo cổ , môi sinh và nhân chủng học . Lần
đầu tiên được trình chiếu trong kỳ Đại Hội Tôn Giáo hoàn cầu tổ
chức tại Chicago , nó đã gây một xúc động lớn cho toàn thể cử tọa .
Chúng tôi ghi nhận lại đây bài thuyết trình ‘ Elder Brother’s Warning ’
của ký giả Alan Ereira để bạn đọc cùng suy gẫm .
Từ ngàn xưa, nhân loại đã có những
nền văn minh lớn. Những nền văn mình đã tạo ra những kiến trúc vĩ đại
như Kim Tự Tháp, Vườn treo Babylon, Vạn Lý Trường Thành v..v..Tuy nhiên dù
phát triển đến đâu chăng nữa , nền văn minh nào cũng chiụ sự chi phối
của luật vô thường , nay còn mai mất, cái gì cực thịnh thì cũng có
lúc suy tàn . Lịch sử đã chứng minh điều đó một cách hiển nhiên vì
ngày nay không mấy ai nhắc nhở gì đến những nền văn minh cổ xưa đó nữa
ngọai trừ những giai đoạn rời rạc , pha trộn nhiều hư cấu khó tin .
Nói đến Kim Tự Tháp , người ta
thường nghĩ đến những Kim Tự Tháp Ai Cập, chứ ít ai nhắc đến những
Kim Tự Tháp Nam Mỹ , mặc dù tại đây số Kim Tự Tháp còn nhiều hơn , đặc
biệt hơn và bao trùm nhiều bí mật kỳ dị hơn . Có lẽ vì phần lớn Kim
Tự Tháp tại Nam Mỹ bị bao phủ bởi rừng rậm, không thuận tiện cho việc
nghiên cứu, khảo sát .
Columbia là một quốc gia nằm ở
phía Nam Mỹ Châu . Phần lớn lãnh thổ xứ này được bao phủ bởi những
khu rừng rậm rạp chưa được khai phá, đặc biệt là các khu rừng quanh rặng
Sierra thì gần như còn nguyên vẹn từ mấy ngàn năm nay , không mấy ai đặt
chân đến. Đối với dân xứ này thì rặng Sierra vẫn được coi là một
nơi chốn linh thiêng chứa đựng nhiều bí mật . Huyền thọai xứ này nói
rằng đó là chỗ ở của những bậc Thần linh , có nhiệm vụ che chở cho
nhân loại . Vì đỉnh núi lúc nào cũng bị che phủ bỏi những đám mây
mù , thêm vào đó khí hậu ẩm ướt quanh năm nên cây cối mọc chằng chịt
, khó có ai có thể vượt rừng đến đó được . Năm 1974 , một phi công
bay lạc vào phía đông bắc của rặng Sierra và phát hiện một Kim Tự
Tháp rất lớn, tọa lạc giữa rừng . Việc khám phá ra Kim Tự Tháp này đã
thúc đẩy nhiều phái đoàn khảo cổ của các quốc gia khác kéo nhau đến
đây nghiên cứu . Họ kết luận rằng chiếc Kim Tự Tháp xây bằng đá rất
công phu này có những đường nét kiến trúc khác hẳn những Kim Tự Tháp
khác tại Nam Mỹ ; do đó nó thuộc một nền văn minh riêng biệt nào khác
chứ không phải nền văn minh Incas hay Maya . Quanh Kim Tự Tháp là một thành
phố bỏ hoang với nhũng hệ thống đường sá được lót bằng đá hết sức
công phu. Đặc biệt hơn nữa, quanh thành phố còn có một hệ thống ống
cống thoát nước rất hữu hiệu , chứng tỏ người xưa đã hiểu biết
rành rọt về vấn đề vệ sinh . Theo các nhà khảo cổ thì thành phố này
đã được xây cất trên bảy ngàn năm trước khi nền văn minh Incas và
Maya phát triễn, và có lẽ là một trong những nền văn minh cổ nhất ở
Nam Mỹ . Nếu thế, lịch sử nền văn minh này như thế nào? Chủng tộc
nào đã sống tại đây ? Tại sao họ lại biến mất , không để lại một
dấu tích gì trừ chiếc Kim Tự Tháp và hệ thống đường sá tinh vi kia ?
Các nhà nghiên cứu nhận xét rằng
dù đã trải qua bảy tám ngàn năm mà hệ thống đường sá vẫn còn rất
tốt , không bị hư hại, trong khi hệ thống xa lộ tối tân nhất tại Hoa
Kỳ ngày nay nếu không được tu sửa , bảo trì thì chỉ vài chục năm đã
hư hại chứ đừng nói đến trăm hay ngàn năm. Dọc theo những con đường
lót bằng đá, là những thửa ruộng trồng lúa và khoai , chứng tỏ nền văn
minh này chú trọng nhiều về nông nghiệp . Một điểm đặc biệt là mỗi
ngã tư đường lại có những tảng đá lớn, khắc ghi những ký hiệu lạ
lùng trông như một tấm bản đồ . Bản đồ đường sá hay bản đồ chỉ
dẫn điều gì vẫn còn là một câu hỏi lớn . Thông thường các nền văn
minh cổ thường để lại nhiều dấu tích hay tài liệu ghi khắc về lịch
sử, phong tục ,tập quán , nhưng không hiểu sao tại đây họ không hề
tìm thấy một dấu tích đặc biệt gì về nền văn minh này ngoài các tấm
bản đồ kỳ lạ kia .
Cách đó không xa ở gần đỉnh núi
có một bộ lạc người thiểu số gọi là Kogi sống biệt lập , không
giao thiệp với ai . Các nhà khảo cổ đoán rằng có lẽ giống dân Kogi là
con cháu của những người đã xây dựng lên Kim Tự Tháp và thành phố với
đường sá xây bằng đá này , nhưng họ vẫn không biết vì sao một nền
văn minh như vậy lại suy tàn và biến mất , không để lại dấu tích nào
? Vì người Kogi sống biệt lập trên đỉnh Sierra , không tiếp xúc và giao
thiệp với ai nên rất ít người biết đến họ . Trong khi những bộ lạc
quanh vùng thường giao dịch, trao đổi hàng hoá với những người tỉnh thành
, thì người Kogi rất thận trọng và kín đáo , rút lên những vùng núi
cao , không tiếp xúc với ai , chỉ giới hạn việc giao thiệp với một
vài bộ lạc lân cận mà thôi .
Đầu năm nay, ký giả Alan Ereira ,
phóng viên đài BBC tại Columbia , nhận được tin bộ lạc Kogi từ lâu
không tiếp xúc với ai , đã chấp nhận cho anh được phỏng vấn với điều
kiện là anh phải đến tham dự buổi Đại Hội Tôn Giáo thế giới tổ chức
tại Chicago vào tháng 9 năm 1993 và công bố một bản Thông Điệp của họ
. Ký gỉa Areira đã viết : ‘ Đây là một biến cố đặc biệt . Tại sao
bao năm nay không giao thiệp tiếp xúc với ai mà tự nhiên họ lại cho phép
tôi được phỏng vấn, quay phim ? Họ muốn gì đây ? Tại sao một bộ lạc
sống biệt lập trong vùng rừng sâu núi thẳm , không tiếp xúc với thế
giới bên ngoài , lại biết có một Đại Hội Tôn Giáo nhóm họp tại Hoa
Kỳ để gởi một Thông Điệp ? Một điều may mắn là tuy người Kogi không
liên lạc với ai , rất ít người biết đến ngôn ngữ của họ , nhưng vì
họ tiếp xúc giới hạn với vài bộ lạc gần đó , nên chúng tôi đã
tìm được một người dân bộ lạc này có thể nói được tiếng Kogi để
làm công việc thông dịch.’
Phái đoàn của ký giả Ereira gồm
6 người , 2 ký giả, 1 nhân viên y tế và 3 nhân viên thu hình đã lên đường
vào đầu năm 1993 . Trải qua nhiều ngày tháng trèo đèo lội suối, họ đã
đến vùng đất của người Kogi nằm sâu trên đỉnh Sierra . Đường vào
đây phải vượt qua một vực thẳm rất sâu, chỉ có độc một cây cầu
treo bện bằng dây thừng bắc ngang qua bờ vực . Được thông báo trước
, một phái đoàn Kogi đã ra đón tiếp trước bờ vực .
Khác với những bộ lạc thiểu số
sống trong vùng thường ít mặc quần áo, tất cả những người Kogi đều
mặc quần áo dệt bằng sợi màu trắng với tay áo thụng như cánh bướm
. Một người lớn tuổi đã bắt đâu bằng một bài diễn văn ngắn :
‘ Chúng tôi là những trưởng lão
của dân Kogi , chúng tôi chấp thuận cho phép các ông được đặt chân
vào đây trong ba ngày . Chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng đây là lần đàu
tiên và có lẽ cũng là lần cuối các ông được phép đến đây. Hiển
nhiên việc này đã được Hội Đồng Trưởng Lão thảo luận rất kỹ và
đồng ý. Chúng tôi là con cháu của một giống dân cổ , một giống dân
đã có mặt trên trái đất này từ lâu lắm rồi , trước khi tổ tiên
các ông ra đời . Vì chúng tôi có mặt từ trước , chúng tôi tự coi mình
là những người anh lớn trong đại gia đình nhân loại , do đó chúng tôi
là anh và các ông là em . Theo lệ thường trong gia đình , người anh thay mặt
Mẹ Cha để giáo dục, dạy dỗ các em , nhưng chúng tôi biết rằng các em
còn trẻ quá, còn hung hăng quá, còn cứng đầu, cứng cổ ngang bướng quá,
chưa thể học hỏi được gì , nên trải qua mấy ngàn năm nay , chúng tôi,
những người anh, đã quyết định giữ thái độ im lặng . Chúng tôi hy vọng
theo thời gian , các em sẽ hiểu biết hơn, trưởng thành hơn và học hỏi
được qua những lỗi lầm đã tạo . Tiếc thay thời gian quá nhanh, trải
qua bao thế hệ mà các em không những chẳng học hỏi được gì lại còn
tiếp tục phá họai gia tài Mẹ Cha để lại , do đó, những người anh lớn
bắt buộc phải lên tiếng . Trước khi đi vào chi tiết, chúng tôi cho phép
các ông được quan sát nếp sống của chúng tôi, một nếp sống truyền
thống đã tiếp diễn mấy ngàn năm không thay đổi . Các ông được tự
do nghiên cứu, ghi nhận, quay phim , chụp hình và làm tất cả những gì cần
thiết , và sau đó chúng tôi có một Thông Điệp muốn gởi cho thế giới
bên ngoài .
Ký giả Ereira ghi nhận : ‘ Thật
không thể tưởng tượng được cảm giác lạ lùng của chúng tôi khi vượt
qua chiếc cầu treo lơ lửng trên miệng vực thẳm đó để bước chân vào
vùng đất của người Kogi . Chúng tôi có cảm tưởng rằng thời gian đã
dừng lại hoặc chúng tôi đã đi ngược thời gian để trở về một thời
điểm nào đó của lịch sử . Mặc dù thời gian chỉ vỏn vẹn có ba ngày
nhưng phái đoàn của chúng tôi đã làm việc không ngừng . Mọi người tùy
theo khả năng chuyên môn đã tận dụng thời gian để khảo cứu, ghi nhận
. Chuyên viên thu hình đã làm việc không nghỉ , ghi nhận được hơn hai
mươi giờ phim ảnh, tài liệu . Chuyên viên y tế đã khám hơn một trăm
người và hoàn tất hồ sơ đầy đủ chi tiết về tình trạng sức khỏe
của những người dân tại đây . Điều đặc biệt là tuy sống trong một
tình trạng có thể tạm gọi là ‘thiếu tiêu chuẩn vệ sinh’ theo quan niệm
của những ngưòi ‘văn minh’ như chúng ta nhưng chuyên viên y tế không hề
tìm thấy một dấu hiệu nào về bệnh tật cả . Hàm răng của họ rất tốt
, ngay cả triệu chứng sâu răng thường thấy tại các bộlạc khác cũng
không hề có tại đây . Tôi xin xác nhận rằng tất cả những gì chúng
tôi ghi nhận đều được kiểm chứng cẩn thận để bảo đảm tính cách
trung thực của nó . Vì thời gian quá ít , chúng tôi chỉ làm được những
gì có thể làm và chắc chắn còn nhiều thiếu sót . Tôi được biết có
đến hơn hai mươi làng mạc rải rác trên đỉnh Sierra , nhưng chúng tôi chỉ
được đến thăm một làng duy nhất mà thôi. Chắc hẳn người Kogi đã
có một lý do riêng nào đó nên không muốn chúng tôi đi thăm những nơi khác,
nhưng chúng tôi cũng không muốn tò mò tìm hiểu thêm làm gì . Các Trưởng
Lão xác nhận rằng họ không giấu giếm chúng tôi điều gì nhưng cũng không
muốn sự có mặt của chúng tôi gây xáo trộn đời sống yên lành của những
người dân trong vùng .
Điều đặc biệt đầu tiên mà
chúng tôi thấy là những người dân Kogi thường sinh hoạt chung . Mỗi khi
cần làm việc gì thì mọi người kéo nhau ra làm việc đó một cách rất
tự nhiên . Chúng tôi đã chứng kiến việc toàn thể dân chúng trong làng
kéo nhau đắp lại con đường bằng đá dẫn vào làng . Họ tự động phân
chia ra nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm làm một phần mà không cần phải có người
hướng dẫn hay chỉ huy . Vì con đường này nối liền hai làng nên dân cả
hai làng kéo nhau ra làm việc một cách hết sức trật tự .
Chúng tôi được biết ngôi làng
có một Hội Đồng Trưởng Lão . Những người này thường cầm một chiếc
ống nhỏ bằng gỗ , bên trong đựng vôi . Họ cầm một chiếc que xoay qua
xoay lại để tán những mảnh đá vôi ra thành bột , thỉnh thoảng lại
đưa lên miệng chấm một chút vôi vào đầu lưỡi . Một Trưởng Lão cho
biết : chiếc ống vôi tượng trung cho đời sống . Họ luôn tay xoay chiếc
ống vôi đó vì đời sống luôn luôn thay đổi , tiếp diễn không ngừng .
Đá vôi tượng trưng cho chất liệu của đời sống . Sở dĩ họ nghiền nát
những miếng vôi rồi đưa lên miệng vì hành động đó làm cho đời sống
trở nên ý nghĩa hơn. Tôi không hiểu rõ nghĩa của câu đó nên yêu cầu
ông giải thích thêm . Vị Trưởng Lão đã nói : ‘ Đời sống là một sự
mầu nhiệm . Nếu con người biết mài dũa thân và tâm để ý thức đời
sống một cách trọn vẹn thì người ta sẽ ý thức được những việc khác
phi thường hơn .’
Ký giả Ereira kết luận : ‘ Tôi
đã quan sát việc này rất lâu mà không hề giải thích gì hơn. Theo tôi
thì có lẽ đây là một phương pháp tỉnh tâm, ý thức hành động của mình
, một phương pháp giống như cách thực hành thiền định của ngưòi Á
Châu . Việc mài giũa tâm và thân qua hành động xoay xoay chiếc ống vôi nhỏ
trên tay là một điều lạ lùng rất khó giải thích .’
Chính giữa làng có một căn nhà rất
lớn cất bằng lá cây . Đây là nơi hội họp của dân làng mỗi khi có việc
quan trọng . Khác hẳn với những bộ lạc khác, chúng tôi không hề nhìn
thấy các biểu tượng Tôn Giáo ,tín ngưỡng gì cả . Căn nhà hoàn toàn trống
trơn và rất sạch sẽ . Một vị Trưởng Lão cho biết đây là trung tâm
sinh hoạt của làng , mọi việc quan trọng như cưới hỏi, chôn cất, trồng
trọt, cày cấy, tiên đoán thời tiết đều được mang ra thảo luận tại
đây để lấy quyết định chung . Tất cả mọi người đều có quyền
phát biểu ý kiến , không có Tù trưởng hay một ai nắm quyền hành cả .
Ký giả Ereira ghi nhận : ‘ Thật là một điều lạ lùng chưa từng thấy
. Một bộ lạc không có Tù Trưởng, không có người lãnh đạo , mọi quyết
định đều là quyết định chung . Phải chăng đây là một hình thức dân
chủ thô sơ nhất và chân chính nhất đã có từ ngàn xưa ? Theo chỗ chúng
tôi dò hỏi thì không có một điều gì được làm nếu không có sự đồng
ý chung , nhưng quyết định chung ở đây không có nghĩa là đa số trên thiểu
số mà là quyết định của toàn thể mọi người (Concensus) . Thật khó
có thể tưởng tượng được một bộ lạc sống biệt lập lại có một
truyền thống dân chủ đặc biệt như vậy ! Phải chăng nền văn minh cổ
xưa ngày trước là một nền văn minh dựa trên căn bản dân chủ ? ’
Đơn vị nhỏ nhất của xã hội
Kogi là đơn vị gia đình . Trung bình một gia đình gồm Cha Mẹ và các con
nhỏ . Khi trẻ em còn nhỏ chúng được nuôi duỡng bởi Cha Mẹ , phần lớn
là người Mẹ trực tiếp nuôi nấng con cái . Nếu có bệnh tật thì các
em được đưa đến cho các Trưởng Lão chữa bệnh . Đôi khi các Trưởng
Lão cũng bó tay và em nhỏ không thể sống nhưng Cha Mẹ chúng chấp nhận ,
cho rằng đó là luật thiên nhiên . Nếu sống được đến lúc trưởng thành
thì người Kogi có tuổi thọ rất cao , tuổi trung bình của họ là khoảng
một trăm hay hơn thế nữa . Một Trưởng Lão cho biết : ‘ Theo quan niệm
của chúng tôi thì sống thuận theo thiên nhiên không thể có bệnh . Bệnh
tật chỉ là hậu quả của những gì trái với thiên nhiên . Ngoài ra sự tương
giao giữa con người với thiên nhiên hết sức mật thiết và khi thiên
nhiên bị phá hoại , chắc chắn con ngưòi sẽ bị ảnh hưởng theo , do đó,
con người phải biết tìm môi trường thích hợp để sống . Chính vì sống
theo với các định luật thiên nhiên mà có đủ thứ bệnh kỳ lạ xảy ra
, đây là bằng chứng hiển nhiên rằng con ngưòi chịu ảnh hưởng nhiều
về môi trường và cách thức mà họ sinh sống .’ Khi đứa nhỏ đuợc
khoảng bảy tuổi thì chúng bắt đầu rời Cha Mẹ để sống với Ông Bà
Nội, Ông Bà Ngọai ở cách đó không xa để được giáo dục thêm về
cách sống tự lập . Khi đuợc hai mươi mốt tuổi thì đứa nhỏ đi theo các
bậc Trưởng lão học hỏi và khi gần ba mươi tuổi mới bắt đầu khởi
sự lập gia đình riêng . Người Kogi sống bằng cách canh tác và hái trái
cây trong rừng, một lối sống hết sức thô sơ thưòng được gán cho các
dân tộc còn man dã . Phương pháp trồng trọt của họ cũng rất giản dị
. Họ dùng một cây nhọn để xắn đất, thảy vào đó vài hạt đậu rồi
lấp lại . Việc trồng trọt hay gieo hạt được dành cho phái nữ vì người
nữ ‘mát tay’ hơn người nam . Một Trưởng Lão cho biết : ‘Chúng tôi vẫn
biết có những phương pháp trồng trọt , canh tác khác có thể làm hoa màu
nảy sinh rất nhiều , nhưng có nhiều để làm gì ? Gia đình nào thì cũng
chỉ ăn ngày ba bửa . Có nhiều sẽ tạo nên tình trạng tham lam , tạo ra
nhiều phiền toái vô ích .’ Thiên nhiên đã lo liệu chu toàn thì cứ theo
đó mà sống . Các ông hãy nhìn kia , chim chóc không gieo hạt mà thiên
nhiên có để cho chúng chết đói đâu ? Các thú rừng khác cũng thế , chả
loài nào thiếu ăn cả , vậy tại sao con người phải lo tàng trữ , gia tăng
thu hoạch thực phẩm ? Có dư làm rối loạn trật tự thiên nhiên , có nhiều
hơn cái mình cần là lấy đi mất phần của người khác hay sinh vật
khác, và như thế là vi phạm một định luật căn bản của thiên nhiên
và truyền thống sẵn có của dân Kogi . Các ông nên biết người Kogi chỉ
sống vừa đủ , hoàn toàn không có gì dư thừa và do đó, tại đây không
hề có trộm cướp hay các tệ nạn như các bộ lạc khác .’
Một điểm rất đặc biệt là người
Kogi không hề ăn thịt cá . Khác hẳn với các bộ lạc khác, họ không hề
săn bắn hay có vũ khí . Truyền thống của họ không hề có vấn đề giết
hại bất cứ một sinh vật nào , dù lớn hay nhỏ . Đây là một chi tiết
đang làm nhức đầu nhiều nhà nhân chủng học và xã hội học . Từ trước
đến nay, các lý thuyết đều cho rằng những bộ lạc dã man đều sinh sống
bằng săn bắn và ăn trái cây trong rừng . Việc một bộ lạc không hề
có tập tục ăn thịt cá là một là một sự kiện độc đáo , lạ lùng
hiếm có và khó giải thích . Người Kogi cho rằng giết hại sinh vật là
trái với luật thiên nhiên . Có lẽ vì lý do đó, trong thời gian quay phim,
phái đoàn đài BBC đã thấy rất nhiều hươu , nai , thỏ rừng , chồn ,cáo
đi qua đi lại trong làng như những gia súc mà không hề sợ hãi . Vì chỉ
sống bằng rau cỏ thiên nhiên nên việc học hỏi, nghiên cứu các lá cây
có dược tính là một môn học được giảng dạy rất kỹ lưỡng tại đây
. Người Kogi cho biết họ có thể sống từ ngày này qua ngày khác bằng
cách ngậm một vài lá cây mà thôi , có lẽ vì chỉ ăn rau trái mà họ sống
lâu như vậy !
Phái đoàn đã ghi nhận việc một
Trưởng Lão dạy dỗ một thanh niên cách ăn uống như sau : ‘ Khi ăn phải
nhai thật từ từ , thong thả , phải ý thức từng chút một và tuyệt đối
chú tâm vào việc ăn chứ ‘ không đưọc nghĩ đến gì khác.’ Cách ăn uống
làm chủ vị giác là bài học vỡ lòng đầu tiên trong phương pháp giáo dục
của họ . Truyền thống tại đây không có trường học mà chỉ có cách dạy
dỗ khẩu truyền từ Cha Mẹ ,Ông Bà cho con cháu , và từ các bậc Trưởng
Lão cho những thanh niên . Cách giáo dục thanh niên tại đây cũng hết sức
lạ lùng , có một không hai . Khi được khoảng hai mươi tuổi , thanh niên
được gởi đến học hỏi với các bậc Trưởng Lão trong những túp lều
đơn sơ hay một hang đá . Tại đây họ sẽ tập ngồi yên quay mặt vào
vách tường trong bảy đến chín năm liền . Họ chỉ nhai một ít lá cây ,
uống một chút nước và chú tâm suy gẫm về những điều được giảng dạy
. Mỗi ngày vào giờ giấc nhất định , các bậc Trưởng Lão có nhiệm vụ
hướng dẫn sẽ bước vào trao cho họ một đề tài chi đó để suy gẫm .
Ký giả Ereira đã ghi nhận buổi giảng
dạy trong một hang đá như sau : Thanh niên ngồi quay mặt vào vách , vị Trưởng
Lão bước vào ngồi ở phía sau quan sát thanh niên kia một lúc rồi mới
đưa chiếc ống đựng vôi cho thanh niên sử dụng . Ông nói : ‘ Ngươi hãy
xoay chiếc ống thật từ từ , thong thả, ý thức từng hành động và biết
rằng mọi vật trong thiên nhiên lúc nào cũng thay đổi như chiếc ống
đang xoay trong tay ngươi vậy . Ngươi phải biết rằng đời sống vốn quí
báu như vôi đựng trong ống , phải biết quý trọng đời sống của mình
cũng như của mọi sinh vật . Tất cả hiện diện nơi đây vì một ý nghĩa
nhất định chứ không phải tình cờ .’
Trong một hang đá khác, một Trưởng
Lão giảng dạy về cách canh tác : ‘ Ngươi phải biết tôn trọng từng gốc
cây, từng ngọn cỏ vì cây cỏ cũng có đời sống riêng của nó . Đừng
bao giờ nghĩ đến việc chặt một cây mà không nghĩ đến hậu quả mà ngươi
sẽ gây ra . Cây cối cho ngươi trái ăn, cho ngươi bóng mát và che chở ngươi
khi cần thiết , vậy ngươi phải biết tôn trọng cây cối . Ngươi phải
biết vạn vật liên quan với nhau chặt chẽ và ngươi phải ý thức rõ rệt
về sự tương quan mật thiết này . Phá hoại trật tự này là phá họai
đời sống và phá họai đời sống là tự hủy đó .’
Ký giả Alan Ereira kết luận : ‘
Trong suốt chín năm ngồi quán xét sự liên hệ giữa các sinh vật với
nhau, về mối liên quan giữa con ngưòi và con người , người và thú vật,
người và rừng cây , người và con suối, mà họ biết tôn trọng thiên
nhiên , không giết hại, không ăn thịt cá . Họ biết ý thức sự sống
tràn đầy trong thiên nhiên , từ đỉnh núi cao xa to lớn cho đến những côn
trùng nhỏ bé , từ những trận mưa đầu mùa đổ nước xuống các dòng
suối tươi mát cho đến những hoa thơm cỏ lạ mọc trong các thung lũng . Tâm
thức họ tràn đầy các hình ảnh tuyệt vời của thiên nhiên qua các điệu
nhạc mà chim chóc hòa tấu, thưởng thức hương thơm của cỏ hoa, rung động
với các thay đổi của thời tiết ... điều này phải có một kết quả lạ
lùng nào đó vì khi trưởng thành, bước ra khỏi hang đá , con người đó
phải là một con ngưòi ý thức rất sâu xa về mình và sự tương quan giữa
mình và mọi vật . Khi đó họ trở nên một con người mà theo tập tục của
xã hội Kogi là người đã trưởng thành , có thể lập gia đình , có bổn
phận với xã hội, hoặc tiếp tục đi theo các bậc Trưởng Lão để học
hỏi thêm và trở nên một trong những người này . Danh từ ‘Trưởng Lão’
của người Kogi không hề có nghĩa là người chỉ huy mà chỉ có nghĩa là
một người khôn ngoan (wise man) mà thôi .’
Muốn đi theo con đường của các bậc
Trưởng Lão , một thanh niên còn phải học hỏi trong nhiều năm . Một
trong những phương pháp quan trọng là việc tỉnh tâm để ‘ giao cảm với
tâm thức vũ trụ ,’ nhờ đó họ có thể biết được nhiều việc xảy
ra trên thế giới mặc dù không rời khỏi phạm vi của đỉnh Sierra . Đa số
các Trưởng Lão thường bỏ ra nhiều giờ mỗi ngày để ngồi yên lặng,
giao cảm với thiên nhiên , vì đối với họ việc tỉnh tâm là mục đích
chính của đời sống . Các nhu cầu như ăn uống, chỉ là phụ thuộc . Người
ta chỉ bỏ ra vài giờ vào rừng hái trái cây, uống nước suối là đủ rồi
, nhưng người ta không thể sống mà thiếu ý thức về mình được .
Một vị Trưởng Lão cho biết : ‘
Vũ trụ là một tấm gương lớn , phản ảnh tất cả mọi việc xảy ra
trong đó . Biết rung động vởi vũ trụ là biết quán xét tấm gương kia,
do đó người ta đâu cần phải đi đâu xa mà cũng biết được những điều
cần thiết . Việc ngồi chín năm trong động đá đâu phải chỉ ngồi đó
nhai vài lá cây , suy nghĩ vài câu nói, mà đòi hỏi người ta phải nổ lực
tìm hiểu về mình , vì biết chính mình là biết được vũ trụ và biết
được vũ trụ thì tất hiểu được các định luật thiên nhiên . Đã hiểu
được các định luật này một cách sâu xa thì làm sao có thể làm trái
vói nó được ? Sở dĩ con người làm việc sai quấy vì họ khôngbiết
mình , chỉ sống hời hợt , quay cuồng và dựa trên những giá trị có
tính cách giả tạo, những gía trị do tập đoàn tạo ra chứ không phải
phát xuất từ những công phu suy gẫm sâu xa . Sống như thế không thể gọi
là sống . Đó là sống mà như chết , thân thể tuy sống mà đầu óc đã
chết từ lâu rồi ! ’
Đối với người Kogi , việc chết
cũng rất giản dị . Khi cảm thấy đã đến lúc phải ra đi , một người
già thường tìm vào một hang đá sâu và ngồi yên trong đó chờ chết . Họ
không làm đám tang , gia đình than khóc như những bộ lạc khác , mà họ
cho rằng đó là một việc bình thường , không có gì đáng quan tâm . Một
điểm hết sức đặc biệt nữa của người Kogi là họ không hề có một
tín ngưỡng thờ thần linh hay vật tổ như các bộ lạc khác . Truyền thống
nơi đây chú trọng trên căn bản tỉnh tâm suy gẫm nên họ đã có những
quan niệm hết sức đặc biệt , khác hẳn với những nền văn minh khác tại
Nam Mỹ . Theo quan niệm của người Kogi truyền từ đời này qua đời khác
thì thuở ban sơ , vũ trụ hoàn toàn trống rỗng, không có mặt trời, mặt
trăng, tinh tú hay bất cứ một cái gì và chính cái trống rỗng uyên
nguyên đó được gọi là ‘Mẹ Vũ Trụ’ hay Kaluna. Danh từ ‘ Mẹ Vũ Trụ’
không phải một đấng Hóa Công (Creator) mà chỉ là một tâm thức (Mind) ,
một trạng thái tuyệt đối hoàn hảo của tâm thức .
Một Trưởng Lão đã nói : ‘ Các
quan niệm như tinh tú, mặt trời, mặt trăng , đất, nước, gió, lửa từ
đâu đến ? Phải chăng từ tâm thức này sinh ra ? Chính tâm thức đó phát
sinh ra tư tưởng và khi tư tưởng vận hành , giống như cuộn chỉ xoay từ
sợi , mà tất cả mọi vật đều phát sinh . Tóm lại, tất cả đều do tâm
tạo . Có tất cả chín thế giới phát sinh từ tâm thức vũ trụ cũng như
một người Mẹ sinh ra chín đứa con . Một đứa con có một đặc tính hay
sắc thái tiêu biểu bằng các màu sắc khác nhau . Thế giới thứ chín
chính là cái thế giới mà hiện nay chúng ta đang sống . Tất cả mọi thế
giới đều tuân theo những qui luật nhất định liên quan đến việc sinh
ra, lớn lên ,phát triễn rồi chết đi . Đó chính là định luật thiên
nhiên không thể thay đổi . Ý thức rõ rệt các định luật này rất quan
trọng vì nó là cây cầu tâm thức nối liền chúng ta và các cảnh giới
khác và sau cùng với Mẹ Vũ Trụ (Kaluna) . Chính vì ý thức mà người ta
biết rằng trái đất này không phải tạo ra riêng cho loài người mà cho tất
cả mọi sinh vật khác nữa .’
Ký giả Ereira đã đặt câu hỏi về
Kim Tự Tháp và thành phố bỏ hoang với Trưởng Lão người Kogi nhưng họ
lắc đầu từ chối không tiết lộ gì về lịch sử của thành phố đó .
Mặc dù họ tự nhận là con cháu của những người đã xây cất ra thành
phố đó nhưng họ cho biết : ‘ Tại sao các ông cứ quan tâm đến những
ký hiệu lạ lùng, những tấm bản đồ bằng đá kia làm chi ? Các ông sẽ
không thể hiểu nỗi những ẩn nghĩa đó khi tâm các ông còn xáo trộn .
Các tâm hồn non dại, chưa trưởng thành , chưa biết làm chủ mình thường
chỉ thích tò mò chạy theo những kỳ lạ , những hão huyền bên ngoài chứ
không biết quay vào bên trong để hiểu chính mình . Chỉ khi biết mình thì
mới biết đưọc những điều mà Kim Tự Tháp kia được xây cất vào việc
gì và những tảng đá kia để chỉ dẫn những gì . Khi xưa tổ tiên của
chúng tôi đã biết rõ những điều này nhưng khi con người trở nên tham
lam, ích kỷ , giết hại, ăn thịt cá , phá họai trật tự của thiên
nhiên thì tổ tiên chúng tôi biết không thể thay đổi gì được . Họ rút
vào rừng sâu núi thẳm, chờ đợi những người em sẽ rút tỉa những
bài học mà họ phải học , những lỗi lầm mà họ đã gây ra , nhưng tiếc
thay đã bao lâu nay hình như chẳng mấy ai học hỏi được điều gì hết
! ’
Sau ba ngày ghi nhận, tiếp xúc và
quay phim ; buổi tối hôm ấy , mọi nguời quây quần trong căn nhà chính để
nghe một Trưởng Lão tuyên bố về Thông Điệp mà họ muốn gửi cho thế
giới . Đó là một ông lão lớn tuổi nhưng còn khỏe . Nhìn hàm răng còn
nguyên vẹn, mọi người nghĩ ông lão chỉ vào khoảng sáu mươi là nhiều,
nhưng về sau ký giả Ereira được biết vị Trưởng Lão này đã sống
trên một trăm năm rồi . Hầu như vị Trưởng Lão nào cũng đều trên một
trăm tuổi trở lên cả . Chúng tôi không nhìn thấy những dấu vết già yếu
, bệnh tật trên thân thể họ như vẫn thường thấy ở các bộ lạc
khác .
Vị Trưởng Lão lên tiếng : ‘
Chúng tôi đã thảo luận rất kỹ về điều chúng tôi muốn nói . Chúng
tôi muốn gửi một Thông Điệp cho các em trong gia đình nhân loại . Chúng
tôi nói bằng trái tim , những lời nói chân thành nhất rằng hiện nay
Nhân loại sắp bước vào một thảm họa rất lớn mà từ trước đến
nay chưa hề xảy ra .
Thứ nhất, nhân loại cần biết rằng
tất cả chúng ta đều là anh em một nhà , đều là con cùng một Mẹ . Dù
chúng ta có màu da khác nhau, mặc quần áo khác nhau , có những truyền thống
khác nhau , tuân theo những quan niệm khác nhau , sống trong những điều kiện
khác nhau nhưng tất cả chỉ là bề ngoài mà thôi . Bên trong chúng ta đâu
hề khác biệt. Khi đói chúng ta đều đói như nhau , lúc khát chúng ta đều
khát như nhau , chúng ta đều có cảm giác vui buồn như nhau . Hiển nhiên phải
như vậy rồi vì chúng ta đều là con cùng một Mẹ nhưng tiếc là các em
đã không chú ý đến điều này vì các em đã quên mất nguồn gốc thiêng
liêng của các em rồi .
Sống xa Mẹ đã lâu, các em đã
quên hẳn người Mẹ sinh ra các em, săn sóc, che chở, nuôi dưỡng các em .
Vì thiếu ý thức, các em đã phá nát gia tài Mẹ Cha để lại , phá hoại
một cách không thương tiếc , không một mảy may thương tiếc ! Các anh đây
sinh trước, gần Cha Mẹ hơn nên hiểu được lòng Mẹ Cha đang tan nát ,
đau khổ. Mẹ đã buồn vì các con sinh sau nở muộn đã không biết thương
yêu nhau mà trái lại cứ chém giết , hận thù nhau , làm hại lẫn nhau khiến
Mẹ Cha khổ sở vô cùng . Không những thế, các em còn dày xéo lên thân thể
Mẹ Cha mà không biết rằng các em đang giết hại chính đấng đã sinh ra
các em . Các anh biết rõ việc này nên chỉ muốn khuyên các em hãy dừng lại,
quan sát và ý thức việc làm hiện nay của các em vì giết hại đấng sinh
thành ra mình chính là giết hại chính mình đó .
Mẹ của các em là ai ? Chính là
trái đất này . Lòng Mẹ chính là biển cả và trái tim của Mẹ chính là
những dãy núi cao có mặt khắp nơi . Này các em, đốt rừng, phá núi , đổ
đồ ô uế xuống biển chính là chà đạp lên thân thể của Mẹ đó . Mẹ
là nguồn sống chung và con người không thể sống mà không có Mẹ . Nếu
trái đất bị hủy hoại thì chúng ta sẽ sống ở đâu ? Đây là một vấn
đề hết sức quan trọng và cần xét đoán một cách nghiêm chỉnh . Các
anh không biết trong vòng vài năm nữa thế giới sẽ biến đổi như thế nào
? Chắc không lấy gì tốt đẹp lắm đâu nếu các em cứ tiếp tục phá hoại
mà không biết bảo trì môi trường sinh sống . Tại sao được thừa hưởng
một gia tài tốt đẹp như thế mà chúng ta lại phá hoại nó đi vậy ? Tại
sao các em không nghĩ rằng trải qua mấy ngàn năm nay , thế hệ trước đã
giữ gìn cẩn thận , đã trân trọng từng tấc đất, từng ngọn suối, từng
khóm cây, ngọn cỏ mà ngày nay các em có thể tự hào rằng mình văn minh
khi nhân loại và mọi sinh vật mỗi ngày một khổ đau nhiều hơn xưa ? Làm
sao có thể nói rằng nhân loại đã tiến bộ khi con người càng ngày càng
gia tăng thù hận , chỉ thích gây chiến tranh khắp nơi ? Các anh biết vậy
nhưng phải làm sao đây ? Làm sao có thể nói cho các em biết rằng vũ trụ
có những định luật vô cùng lớn lao , không thể vi phạm được ? Lòng
các anh vô cùng đau đớn vì các anh thấy rằng trái đất đã khô kiệt rồi
, mọi sự sống đang lâm nguy và thảm họa diệt vong chỉ còn trong giây
lát . Do đó, các anh muốn kêu gọi khẩn thiết rằng hãy thức tỉnh, ngưng
ngay những việc có tính cách phá hoại đó lại , nếu không thì trễ quá
mất rồi ! ’
Ký giả Ereira ghi nhận : ‘ Thật
khó có thể tin rằng những người Kogi lại biết rõ tình trạng phá hoại
môi sinh và chiến tranh đang xảy ra trên thế giới hiện nay khi họ không rời
phạm vi của đỉnh Sierra . Tuy nhiên điều này có lẽ cũng không sai vì có
nhiều bằng chứng rằng môi trường sinh sống của nhân loại đang bước
vào một giai đoạn nguy kịch rõ rệt . Một bằng chứng hiển nhiên là lớp
tuyết trên đỉnh Sierra trước nay vẫn đóng rất dày mà nay chỉ còn trơ
lại một vài mảng mà thôi . Gần đỉnh núi có một hồ nước rất lớn
, vốn là nơi lưu trữ nước khi tuyết tan vào mùa hè . Hồ nước này sẽ
dổ xuống các sông ngòi , chảy qua những đồng bằng trước khi chảy ra
biển . Hiện nay hồ nước này cũng đã gần cạn khô , mực nước tại sông
ngòi quanh vùng đều xuống thấp và dân chúng ở vùng đồng bằng đã than
là suốt mấy năm nay nạn hạn hán đã hoành hành dữ dội , số lượng thóc
lúa thu hoạch được càng ngày càng xuống rất thấp . Khắp nơi trên thế
giới , người ta nói về tình trạng nhiệt độ gia tăng (Global Warning) gây
ra bởi nạn đốt rừng phá núi , xẻ đường và hậu quả của những ô
nhiễm kỹ nghệ . Thêm vào đó biển cả cũng gặp nhiều khó khăn bởi việc
các chất cặn bã gia tăng , giết hại các sinh vật, căn bản của đời sống
các loài thủy tộc . Thêm vào đó, việc phát triển các kỷ thuật đánh
cá tối tân bằng các tấm lưới khổng lồ như lưới vét (Drift Net) của
các quốc gia tân tiến đã làm nhiều dân tộc sống ở ven biển gặp nhiều
khó khăn về thực phẩm vì chẳng còn có cá để ăn .’
Người ta tiên đoán rằng chỉ vài
năm nữa thế giới sẽ lâm vào tình trạng suy kiệt dinh dưỡng . Nạn đói
kém sẽ xảy ra khắp nơi , và những quốc gia làm chủ được thực phẩm
sẽ là những quốc gia có quyền lực mạnh nhất . Biết rõ nguy nan này ,
các quốc gia tân tiến đang phát động những căn bản kinh tế, kỹ nghệ
mới đặt trên vấn đề môi sinh mà nạn nhân đầu tiên sẽ là các quốc
gia kém mở mang, chậm tiến . Chính những quốc gia này sẽ trở thành miếng
mồi ngon để các quốc gia tân tiến kéo đến mở mang kỹ nghệ , phóng uế
bừa bãi các chất cặn bã , và phá hoại môi sinh . Nhân danh khoa học kỹ
thuật, các quốc gia tiên tiến đang cho thuyên chuyển những nhà máy , kỹ
nghệ từ xứ họ qua những quốc gia khác dưới những danh nghĩa rất tốt
đẹp như hợp tác, phát triển kỹ thuật . Hiển nhiên họ đã ý thức
tình trạng phá hoại môi sinh và hậu quả của nó trong quốc gia của họ
và quyết định nếu kỹ nghệ là cần thiết thì hậu quả của nó phải
xảy ra một nơi nào khác chứ không phải trên lãnh thổ của họ .
Nói một các khác, chính sách ‘thực
dân mới’ sẽ không xây dựng trên tình trạng chiếm đất, nhưng sẽ đặt
trên căn bản phá hoại môi sinh tại những nơi khác , vì đây là một sự
phá họai có tính cách vĩnh viễn , không thể phục hồi . Những quốc gia
mà môi sinh bị phá họai sẽ không bao giờ ngóc đầu lên được khi tình
trạng thực phẩm thiếu sót vì đất mầu bị phá họai , rừng rậm bị
phá hủy , biển cả và đất đai chứa đựng toàn những chất ô nhiễm .
Dĩ nhiên dân chúng sẽ bị những bệnh tật kỳ dị không thể chữa , những
thứ bệnh có thể gây tổn thương đến yếu tố di truyền và hoàn toàn
suy kiệt nhân lực (Oligarchy) bởi các hóa chất kỹ nghệ .
Thế giới ngày nay đang bước vào
một khúc quanh lịch sử mà trong đó tình trạng môi sinh sẽ đóng một vai
trò thiết yếu , quan trọng . Khi phái đoàn ký gỉa đài BBC rời rặng
Sierra vào tháng Hai năm 1993 , những người Kogi đã ân cần nhắn nhủ : ‘
Xin các ông hãy mang Thông Điệp này ra gởi cho thế giới bên ngoài để nhân
loại biết rằng tình trạng đã thực sự nguy kịch lắm rồi ! Nếu họ
không chịu thức tỉnh thì đợi đến bao giờ nữa đây?’
http://www.buddhismtoday.com/viet/truyen/015-thongdiepnguoiAnh.htm