- Giọt lệ của Phật
- Nhất Thanh Thích
Nguyên Hiền
- Có bao giờ bạn nghe
nói Phật khóc chưa ?
- Phật là Đấng giác ngộ, Ngài đã
vượt qua mọi tình thức tầm thường của thế gian, không còn buồn vui,
giận hờn, thương ghét nữa, làm gì có chuyện Phật khóc ?
- Bạn quên rồi đấy ! Trong Kinh Báo
Hiếu có câu : "Thế Tôn bèn vội đến nơi, lạy liền ba lạy rồi
rơi giọt hồng", chả phải là Phật khóc đó sao ?
- Vì sao Phật lại khóc ?
- À, trong Kinh Báo Đáp Công Ơn Cha
Mẹ, Đức Phật cùng đoàn đệ tử đi về phương Nam, thấy núi xương khô
lâu đời chồng chất, Đức Phật đảnh lễ đống xương rồi rơi nước
mắt. Ngài A-nan không hiểu bèn thưa hỏi, Phật dạy : "Trong đống
xương ấy, biết bao cốt hài nhiều đời nhiều kiếp, có ông bà, cha mẹ,
kẻ sanh ta hoặc chính thân ta, luân hồi sanh tử trong nhiều kiếp số..."
- "Ta lễ bái những người tiền bối
- Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa..."
Từ nhỏ theo mẹ đến chùa lễ
Phật, tôi vẫn thích ngồi bên mẹ tụng Kinh Báo Hiếu vào những dịp Vu
Lan. Có lẽ do kinh được Hòa thượng Huệ Đăng dịch theo thể văn vần (song
thất lục bát), dễ đọc, dễ tụng, nên tôi thuộc làu kinh này mà
không cần học. Thuở ấy, đối với tôi, Phật cũng là một nhà đạo đức,
dạy bổn phận làm con phải có hiếu với cha mẹ. Chuyện thế gian ấy mà
! Khổng giáo còn dạy hiếu nghĩa nhiều hơn, Nhị Thập Tứ Hiếu mà thầy
cô giảng ở trường đôi lúc còn thiết thực và cao siêu hơn cả Mục Liên
Tôn giả – tôi nghĩ vậy. Còn nói Mục Kiền Liên là Đại hiếu, ừ thì
đại hiếu; kẻ đại, người tiểu cũng hiếu tất, miễn là làm cho cha mẹ
vui lòng, hết lòng phụng dưỡng cha mẹ, khuyên cha mẹ lánh dữ làm lành,
quy y Tam bảo.
Bây giờ, mỗi lần đọc Kinh Vu Lan
Báo Hiếu, toàn thân tôi rúng động, tâm thức bàng hoàng. Thường thì
cùng tụng với đại chúng, tụng được vài câu thì tôi không còn tụng nữa,
hồn lạc vào một thế giới khác.
Vì sao Phật lại khóc ? Đó là câu
hỏi lớn nhất, câu hỏi ấy đã cùng tôi đi suốt bao năm trời học hỏi
kinh điển.
Hơn một ngàn năm trước, thi sĩ Trần
Tử Ngang có lần lên chơi trên đài Ô Châu, nghĩ đến cái man mác vô cùng
của thời gian, tự dưng để cho hai hàng lệ lăn dài xuống má :
- "Tiền bất kiến cổ nhân
- Hậu bất kiến lai giả
- Niệm thiên địa chi du du
- Độc thương nhiên nhi lệ hạ".
Tạm dịch :
- (Bao người kim cổ nay đâu
- Ngàn xưa cho đến ngàn sau bẽ bàng
- Mênh mang trời đất mênh mang
- Một mình bất chợt hai hàng lệ sa).
Hơn một ngàn năm sau, nhà thơ
Huy Cận, cũng một lần một mình rong chơi vào cõi mênh mang vô tận của
thời gian, bất giác rùng mình khi nhác thấy con người nhỏ bé quá giữa vũ
trụ đại ngàn, giữa không thời gian vô tận. Thi sĩ viết :
- "Một mảnh linh hồn nhỏ
- Mênh mang thiên cổ sầu".
Một mảnh hồn Đường, một mảnh
hồn Việt, cũng như muôn vạn tâm hồn phù du cõi mộng sẽ phải bật
khóc khi cảm thấy buốt lạnh tồn sinh một chút thân bèo bọt, sẽ phải
rờn lạnh kiếp người giữa cùng thẳm hư vô. Ta hoa đốm giữa thái hư
ngát lạnh. Ta bọt bèo trên đại dương chơi vơi. Ta làm gì ? Ta là gì ? Tuệ
Trung Thượng Sĩ đã có lần viết :
- "Trường
không túng sử song phi cốc
- Cự hải hà phân nhất biển âu".
Trường không giả sử đôi
vành chuyển, thì xá gì một điểm trắng giữa trùng khơi bát ngát. Ta ở
đâu ? Ta có hay không ? Nhìn phía trước chẳng thấy người xưa, nhìn phía
sau thì chưa ai đến. Có phải người trước là ta bây giờ ? Hay là cha ta,
mẹ ta, anh em, bầu bạn của ta ? Ai giải đáp được câu hỏi này ? Có ai
không ? Có ai không ?
- "Cổ
nhân bất kiến kim thời nguyệt
- Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân".
Người xưa không thấy được
mặt trăng ngày nay, nhưng trăng ngày nay đã từng chiếu đến người xưa
đấy. Ta hụp lặn trong vòng sanh tử luân hồi, bao nhiêu kiếp số rồi ? Hằng
hà sa số ư ? Ồ ! Ít quá !
Đức Phật dạy : "Không có một
tất đất nào trên thế gian này mà không có thân ta đã từng bỏ mạng
ở đó. Không có một người nào, một loài vật nào ta gặp trên thế gian
này mà chưa từng là cha mẹ, anh em, vợ chồng, bầu bạn của ta".
Mất cha mẹ, ta khóc; mất người yêu,
ta khóc... "Nước mắt của chúng sanh nhiều hơn nước bốn biển".
Nhưng ta chỉ biết khóc trước nỗi mất mát hiện tại, nước mắt của
ta là nước mắt của thất tình lục dục. Còn Đức Phật – người đã
chứng được Lậu tận minh, Ngài thấy hết nghiệp thức của chúng sanh
trong suốt quá khứ, hiện tại, vị lai rõ ràng như thấy kẻ chỉ ở bàn
tay. Thế thì trước đống xương khô lâu đời, Ngài trực nhận ra tất cả
cha mẹ, anh em, vợ chồng, bầu bạn, lục thân quyến thuộc và chính thân
xác của mình bao lần để lại trên đống xương này, rõ ràng như chỉ mới
hôm qua. Nói như cách nói của Vũ Hoàng Chương : "Nghìn thu nửa chớp
bốn bề một phương", làm sao không cảm động ? Thương nghĩ về sự
luân hồi sanh tử của tất cả muôn loài, tìm phương hóa độ, đó mới
là Đại hiếu.
Đọc một câu kinh, nếu biết tư
duy thì một chữ trong kinh Phật cũng hàm chứa tất cả ba ngàn đại thiên
thế giới. Trần Tử Ngang rơi lệ khi nhác thấy cái vô tận của thời
gian, nhưng thời gian của nhà thơ nghĩ đến vẫn là hữu hạn, cái hạn định
ở điểm cuối cùng của dòng tâm thức. Còn cái thấy của Phật thì vượt
ra khỏi tình thức, tuyệt đối đãi, siêu nhị biên. Giọt lệ ấy mới
là giọt lệ của bậc đại trí, giọt lệ chứa đựng tất cả lòng chân
từ bình đẳng, kết quả của sự quán tưởng triệt để chân tướng của
các pháp. VU LAN BỒN KINH TÂN SỚ của ngài Trí Húc đời
Minh trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (trang 573, quyển 16 ) có đoạn
viết : "Từ hiếu có ba thứ:, một là Sanh duyên từ, hai là Pháp duyên
từ, ba là Vô duyên từ".
Sanh duyên từ tức là nghĩ đến tất cả chúng sanh như là cha mẹ, ta
đời đời không có kiếp nào là không thọ sanh từ cha mẹ. Khi quán tưởng
như thế, tất cả kẻ oán người thân đều bình đẳnh, lấy đó để điều
phục sự sân hận, san tham và tật đố, cho đến chứng đắc Từ Tâm
Tam-muội. Phàm người nào có duyên với ta, ta đều đem niềm vui đến cho
họ, vớt cái khổ não của họ. Cha mẹ đối với ta thâm ân trời biển
nên ta phải báo đáp trước.
Pháp duyên từ tức quán tưởng tất cả các pháp đều là duyên sanh,
cho nên Kinh Phạm Võng nói tất cả đất, nước đều là thân ta, tất cả
gió, lửa đều là thân ta. Tất cả chúng sanh đều do Tứ đại (đất,
nước, gió, lửa) hợp thành, cho nên không có sự khác nhau giữa ta và
người, không có sự khác nhau giữa thọ mạng và kiếp số. Tứ đại đã
không hai, cho nên từ tâm duyên đến tất cả cũng bất nhị. Khi quán tưởng
như thế thì chứng đắc được Từ Tâm Tam-muội, năng lực cứu khổ còn
thù thắng hơn Sanh duyên từ nhiều lần nữa.
Vô duyên từ tức là biết rõ Tâm, Phật và Chúng sanh, cả ba chẳng
có gì sai khác. Cả pháp giới là nhất tướng, chân thật bình đẳng, không
trụ ở tướng của các pháp và tướng của chúng sanh, quán Bồ-đề tức
là phiền não, Niết-bàn tức là sanh tử, khởi thệ nguyện vô tác, cứu bạt
hết cái gốc của khổ. Quán phiền não tức Bồ-đề, sanh tử tức Niết-bàn,
khởi thệ nguyện vô tác, ban cho tất cả niềm an lạc. Từ ở đây chính
là Bi, Bi ở đây chính là Từ, thuận theo tính chất của pháp tánh mà tu tất
cả pháp... Đó chính là Đại Từ Đại Bi.
Giọt lệ của Phật chính là giọt
lệ Đại Từ Bi.
Mùa Vu Lan lại đến trong lòng mỗi
người con Phật. Ta đọc tụng kinh điển Đại thừa, ta có đủ sức tin
những điều Phật dạy không ? Nếu tin được lời Phật thì ta không bao
giờ rắp tâm làm hại một ai cả. Ngay cả Nho giáo còn dạy : "Vô cố
nhi thương nhất côn trùng, phi hiếu dã; Vô cố nhi tổn nhất thảo mộc,
phi hiếu dã" (Vô cớ mà làm thương tổn một loài sâu kiến thì
không phải là người có hiếu; vô cớ mà làm tổn hại đến một loài
cây cỏ cũng không phải là người có hiếu). Huống hồ mưu hại một
ai. Nếu hiểu và tin lời Phật dạy thì tự nhiên mọi người sẽ yêu thương
nhau, thế gian này sẽ bình yên và hạnh phúc biết mấy.
Dòng sông Ái vẫn chảy trôi mãi
hoài không dứt, ta lang thang, vất vưởng nẻo luân hồi bao kiếp số. Ta
yêu, ta ghét, ta hận thù, ta chém giết... Tất cả bởi vô minh, tất cả do
mê mờ không biết. Duyên khởi trùng trùng đã may mắn cho chúng ta một lần
được ngồi đọc tụng kinh Phật, nghiền ngẫm một câu kinh là chiêm nghiệm
một chân lý, là thắp sáng hiện hữu nhiệm mầu lung linh qua một giọt lệ
của Đấng Đại Từ Bi. Xin đảnh lễ A-nan Tôn giả cho con lời kinh vàng
ngọc, xin đảnh lễ Mục Liên Tôn giả cho con niềm tin hiếu hạnh, xin đảnh
lễ nụ cười, giọt lệ, hạnh phúc và khổ đau, cho con một lần biết yêu
thương thắm thiết trần gian điên dại này.
http://www.buddhismtoday.com/viet/truyen/018-giotle.htm