- Loài hoa bình dị
- Thích nữ Diệu Nhẫn
Đỉnh cao của nghệ thuật chính là tắm
mình trên dòng sông thực tại ? Không ! Khơi ngọn suối Từ về tưới mát
thiên đàng xanh tuổi thơ, một cánh hoa bình dị cũng ẩn chứa cả một
khung trời nghệ thuật mà người lớn không thể nào viết nổi, tả hết.
Saint Éxupery đã có lần thốt lên như thế. SUỐI NGUỒN xin giới thiệu một cánh hoa bình dị,
thơ dại, hồn nhiên, chân thật nhưng bát ngát nghĩa tình. Hãy lắng nghe
gió nội hương đồng đang bàng bạc...
Nắng hồng bắt đầu tươi thắm
trên muôn ngàn cây cỏ. Các chú chim non trên những cành Thủy Liễu ríu
rít hòa lên những điệu thanh thót. Thủy Liễu là một cây dễ sanh sôi
ven bờ sông rạch miền Nam, người dân Bến Tre gọi Thủy Liễu là cây Bần,
cái tên mộc mạc nghèo nàn, lam lũ như cuộc đời của họ. Cái tên xinh xắn
ba đặt cho em cũng là Thủy Liễu. Chiến tranh đã qua, nó đã cuốn trôi tất
cả tuổi thanh xuân của ba, mái ấm gia đình mà ba đã tạo. Ba không giữ
được gì, kể cả trái tim người phụ nữ mà ba yêu quí nhất. Nghĩ đến
những lúc đương thời, ba cũng là một người thanh niên thanh lịch, nhưng
bây giờ, ba an phận với kiếp sống lam lũ của mình. Ba chỉ còn sót lại
một niềm an ủi duy nhất là hạt giống của ba, trồng trên đất mẹ trổ
hoa kết trái, chính là bé Thủy Liễu.
Gia sản của ba và Thủy Liễu là căn
nhà lá nhỏ thô sơ, nằm sát bờ sông, chỉ vừa đủ để một chiếc giường
tre, cạnh bàn ăn cơm nhỏ. Một chiếc xuồng con, là phương tiện hằng ngày
ba đưa khách sang sông kiếm tiền nuôi Thủy Liễu. Liễu thương lắm ngôi
nhà tranh nhỏ bé, tổ ấm chứa chan bao tình thương mà ba dành cho em. Em cũng
cưng lắm chiếc xuồng con xinh xắn, nó thường chở Liễu băng mình trên
những con sóng nhỏ đến chợ, mua bánh, mua quà. Nhưng người mà em thương
quý nhất là ba, làm lụng suốt ngày tay ba chai cứng. Bóng ba đổ xuống bờ
sông trong những buổi trưa hè nắng gắt. Ba đã đội những cơn mưa tầm
tã giống như bao khổ đau của đời trút hết lên vai để đưa khách sang
sông.
Mỗi ngày đưa khách sang sông, tiền
chỉ đủ trang trải trong ngày, tiền còn thừa lại ba cho Liễu chạy ù ra
tiệm, mua bánh tai heo, "bắng bu" là bánh bò đấy. Ăn liền !
Ba vừa là cha cũng vừa là mẹ, ba
nấu cơm, ru Liễu ngủ, tất cả đều do ba làm tất. Ban ngày Thủy Liễu
thường chơi một mình, chỉ có buổi tối nhõng nhẽo với ba chút xíu. Liễu
vẫn thường chui rúc vào lòng ba, đòi ba kể chuyện hay hát ru cho ngủ. Ba
kể chuyện thì hay lắm, chớ còn hát thì giọng ồ ề, chẳng hay tí nào.
Sáng nào thức dậy cũng có sẵn ly sữa và cái "bắng bu" trên bàn
mỉm cười chờ Liễu. Hôm nào Liễu bệnh thì phải biết. Liễu đợi ba dỗ
dành rồi mới chịu uống thuốc. Nhà nghèo, Liễu không có đồ chơi gì cả,
chỉ có những con trâu, cái nồi, cái chén do ba nắn bằng đất khi vắng
khách. Ba còn lấy thân ba làm xe cho Liễu chạy. Ba đặt Liễu trên vai, hai
bàn tay nhỏ xíu của Liễu nắm lấy hai tai ba làm tay lái, thế là Liễu
tha hồ phùng má "ụn ụn" chạy. Còn những buổi trưa hè nóng bức,
ba lấy xuồng chở Liễu đi cặp theo hàng Thủy Liễu hái những quả chín
vàng cho em ăn. Liễu tinh nghịch đập nước văng tung tóe, ướt cả mình
Liễu và ba. Nhưng ba không rầy mà còn cười vui, trước nụ cười thơ dại
của Liễu. Liễu biết nhõng nhẽo cũng hư chút chút, nhưng nhõng nhẽo thì
thích lắm, làm sao bỏ được !
Những buổi cơm thịnh soạn của
cha con Liễu chỉ có vài chú cá bống con kho mỡ hành, Liễu ăn toàn phần
thịt, còn ba chỉ ăn xương mà thôi. Nhiều lúc ba đang ăn cơm, có khách
kêu đò ba vội đứng lên đi đưa khách ngay, ít có bữa nào Liễu được
ăn cơm với ba trọn buổi.
Cạnh nhà Thủy Liễu có ngôi cổ tự
Quan Âm, sáng nào cũng vậy, khi nghe tiếng chuông chùa ngân vang là Thủy Liễu
giật mình thức giấc. Ba cũng dậy để đưa những cô bán hàng sang sông
cho kịp buổi chợ. Ba thường nói mình là người Phật tử lâu năm. Những
buổi chiều mưa khách vắng, ba thường dẫn Liễu sang chùa. Ba sắm cho Liễu
một bộ quần áo mới, để ăn mặc lành lặn khi đi lễ Phật. Phần ba chỉ
có chiếc áo sơ mi cũ và một chiếc quần ka ki rách cả hai đầu gối. Khi
Liễu hỏi :
- Sao ba không sắm cho ba một bộ đồ
mới để đi lễ Phật ?
- Ba không cần đồ mới, khi vào
chùa ba đi bằng cửa sau làm công quả, khi về trời tối cần gì đồ mới
? Còn đưa đò mà mặc đồ mới thì mau cũ lắm con à !
Lễ quy y ảnh hưởng rất nhiều đến
nếp sống sinh hoạt của ba. Ba thường nhắc Liễu về giới cấm sát sanh
và cấm uống rượu vì rượu làm ba say. Thầy dạy thì giờ uống rượu hút
thuốc là lãng quên thực tại, mà ba đâu có muốn lãng quên con gái cưng của
ba !
Những ngày lễ hội, khách sang
sông khá đông. Dư được ít tiền, ba "cắc ca cắc củm" mấy
tháng, đưa cho Liễu rồi bảo : "Con đem cúng dường cho có phước".
Liễu bỏ tiền vào thùng phước điền và thầm khấn : "Tiền này là
của ba con, xin Phật ban phước cho ba, để ba được bình an mà nuôi con
hoài…"
Bao nhiêu tình thương ba dành hết
cho Liễu, đáp lại Liễu cũng rất ngoan, lúc nào cũng quấn quít bên ba.
Đi học Liễu rất chăm. Vì thương ba cực khổ nên niên học nào Liễu cũng
đạt học sinh giỏi. Thời gian thấm thoát đã gần cuối năm học lớp chín.
Kỳ thi văn năm ấy nhà trường cho đề thi về mẹ. Liễu cảm thấy bối
rối vô cùng, vì mặt mẹ Liễu còn không biết, làm sao kể về mẹ được.
Bài thi thật kém điểm. Liễu về nhà hỏi ba :
- Ba ơi ! Má con đẹp không ba ? Sao
má không ở chung với ba con mình hả ba ?
Ba trầm lặng, đăm đăm nhìn ra bờ
sông rồi nói với Liễu, giọng như lạc hẳn đi :
- Má con đẹp lắm, bởi ba nghèo
nên ba và má đã xa nhau khi con mới lên hai tuổi.
Nghe ba nói vậy, Liễu lao vào lòng
ba khóc nức nở, ngước mắt lên Liễu thấy ba cũng khóc. Nhưng một lúc rồi
thôi, vì ba thương Liễu lắm ! Mà Liễu cũng thương ba nữa nên không dám
khóc nhiều vì sợ ba buồn.
Năm nay là năm đầu tiên Liễu được
dự lễ Vu-lan tại chùa Quan Âm. Chùa năm nào cũng tổ chức, nhưng lúc còn
bé Liễu chỉ thích ăn chè thôi chứ có hiểu gì đâu. Với chủ đề
"Một bông hồng cho mẹ", thầy thuyết pháp thật hay, làm cho mọi
người đều rơi nước mắt. Liễu cũng đón nhận một bông hồng, nhưng
nước mắt em không rơi, cũng không cảm nhận được hương vị của cánh
hồng. Em chợt nhớ đến ba và chạy một mạch về nhà. Ba đang ngồi vá
chiếc áo cũ cho em.
- Ba ơi ! Bông hồng tượng trưng
cho má dù con không biết má, con muốn có bông gì đó tượng trưng cho ba.
- Bông tượng trưng cho ba…, bông
gì chẳng được. Để ba tìm cho con.
Ba đi nhanh ra trước sân nhà, nhưng
không tìm được cành hoa nào cả. Nhìn thấy đám bông lục bình màu tím
đang trôi bềnh bồng giữa dòng sông. Ba bơi chiếc xuồng ra giữa dòng hái
một cành hoa lục bình nhỏ nhất. Cánh hoa màu tím u buồn như cuộc đời
ba. Liễu sung sướng đón cành hoa lục bình từ tay ba. Em cảm thấy thương
ba vô hạn.
- Ba ơi ! Con muốn nói với ba điều
này.
- Gì vậy con ?
- Ba có biết rằng con rất hãnh diện
là con của ba và con rất thương ba không ?
Rồi Liễu ôm chầm lấy ba khóc như
mưa. Ba cũng khóc, những giọt nước mắt yêu thương của ba rơi ấm bờ
vai gầy của Liễu. Dù buổi Vu-lan ban tổ chức có lãng quên hay lu mờ
hình ảnh của người cha, nhưng đối với Liễu, ba là người mà Liễu thương
yêu nhất. Cũng từ đó Liễu thương lắm những cành hoa lục bình màu
tím.
Tháng chín năm ấy nước lũ đổ về,
nhà Liễu bị ngập tất cả, chỉ còn có chiếc giường tre là khô ráo.
Lúc này ba hối hả chở giúp đồ của cô bác hàng xóm di cư lên miền
cao. Liễu thì co ro trên chiếc giường học bài. Đến chiều tối không thấy
ba về. Liễu đứng ngồi không yên, vô cùng lo lắng cho ba. Đợi mãi đến
nửa đêm, chú Ba hàng xóm chạy sang gọi Liễu :
- Liễu à !
- Dạ, chú Ba gọi con
Vừa nói Liễu vừa vặn to ngọn đèn
dầu lên.
- Ba mày nhắn tao biểu mày ở nhà
cứ yên tâm ngủ đi, đừng chờ ba về.
- Ba con sao hả chú ?
Chú Ba ấp a ấp úng rồi ngập ngừng
trả lời :
- Ờ… ờ.. ba mày nhậu xỉn ngủ
ở nhà thằng Hai rồi.
Nói xong chú đi một nước. Đêm đó
Liễu không tài nào ngủ được, vừa nhớ ba, vừa lo sợ : "Có khi nào
ba uống rượu đâu mà xỉn ? Chắc ba có chuyện gì rồi…" Nghĩ vậy
Liễu úp mặt vào gối khóc nức nở, rồi ngủ thiếp đi lúc nào không
hay.
Đến sáng thức dậy thì Liễu thấy
chú Ba kè ba về. Chân ba sưng to. Mới vừa nhìn thấy Liễu đã òa khóc, chạy
nhanh đến bên ba, dìu ba vào nhà. Ba ngồi xuống giường, tay vuốt tóc Liễu,
ba nói :
- Ba có sao đâu mà con khóc ? Hồi tối
ở nhà con có trông ba không ?
Liễu không nói gì, chỉ ấm ức
khóc. Thấy vậy chú Ba bảo :
- Nín đi con, ba mày không sao rồi.
Chiều qua khi đưa cô Năm sang vườn trở về, ba mày thấy bông lục bình
đẹp quá nên lội vào bờ đìa hái cho mày, không may bị rắn cắn. Nhưng
bây giờ đỡ lo rồi.
Liễu ngước lên nước mắt lưng
tròng hỏi chú Ba :
- Sao hồi tối chú Ba nói dối con ?
Ba cười hiền lành rồi thay lời
chú Ba :
- Ba không cho nói vì sợ con lo.
Nghe vậy Liễu thấy thương ba vô hạn,
nước mắt em lại ràn rụa.
Những ngày ba bệnh, lần đầu tiên
Liễu thay ba đưa khách sang sông. Bởi ba hiền lành nên bà con thương lắm,
vắng ba đưa đò ai cũng hỏi. Khi nghe ba bệnh cô bác đều ghé thăm làm
cho Liễu cũng bớt lo ! Chứ tiền đưa đò hàng ngày không đủ mua thuốc
cho ba.
Càng lớn Liễu càng trở nên xinh
đẹp thì ba càng gầy ốm, già thêm. Tóc ba đã điểm những hạt trắng đục.
Học lớp càng cao tiền càng nhiều, mỗi lần xin tiền ba, Liễu cảm thấy
đau buốt tim mình nhưng biết làm sao hơn. Những buổi nghỉ học Liễu muốn
thay ba đưa khách sang sông, nhưng ba không cho, ba sợ nắng mưa sẽ làm Liễu
bệnh.
Một hôm trời mưa tầm tã, Liễu
đi học về ướt hết cả người. Đêm đó Liễu bị sốt cao. Ba vội vã
bế Liễu trên tay chạy sang hàng xóm mượn xuồng máy đưa Liễu xuống bệnh
viện. Liễu. Xuống đến bệnh viện, Liễu được đưa vào phòng cấp cứu.
Ba ở ngoài đứng ngồi không yên. Một giờ sau Liễu được chuyển xuống
trại. Bác sĩ nói Liễu không sao, ngày mai có thể xuất viện rồi. Nghe
bác sĩ nói vậy ba như trút bỏ được gánh nặng ngàn cân.
Khi tỉnh lại, Liễu thấy ba ngồi
bên cạnh mình. Thấy Liễu tỉnh, ba mừng lắm, có cả những giọt nước
mắt long lanh trong mắt ba mừng theo. Chợt Liễu thấy một cô y tá nhìn ba,
mỉm cười rồi hỏi :
- Đây là con gái anh à ! Nó bệnh
gì vậy ?
- Dạ con tôi bị cảm sốt.
Nói xong ba quay sang hỏi Liễu :
- Con có muốn ăn gì không
- Dạ con muốn ăn cháo ba ơi !
Ba vội vã đi ra ngoài mua cháo cho
Liễu. Liễu liền hỏi cô y tá :
- Cô quen ba cháu à !
Cô y tá cười thật tươi rồi đáp
:
- Ba cháu thường đến đây để bán
máu, nên cô nhớ khuôn mặt ba cháu.
Liễu nghe như trước mắt mình tối
sầm lại, mạch máu ngừng không chảy về tim. Em nghẹn ngào không thốt
nên lời : "Ba ơi ! Ba đã bán máu mình, mua sách vở cho con đi học, mà
bấy lâu nay con đâu có biết". Thấy Liễu nghẹn ngào cô y tá hỏi :
- Cháu có sao không ?
- Dạ không.
Thấy ba từ xa đi vào Liễu vội
lau khô hai hàng nước mắt, gượng nở nụ cười để cho ba đừng biết rằng
mình vừa mới khóc.
Khi xuất viện về, Liễu quyết định
không đi học nữa vì thấy ba quá cực khổ để lo cho việc học của Liễu.
Xa rời sách vở, bạn bè, xa cả chiếc áo dài thân thương, Liễu cũng buồn
lắm. Liễu nhìn thấy trong tập vở, bút mực, quần áo thấm từng giọt
máu, mồ hôi của ba. Khi nghe Liễu nói mình nghỉ học, ba rầy suốt cả mấy
ngày. Ba buồn lắm và khuyên Liễu nên đi học lại.
Ở nhà buồn vô hạn, chợt nghe tiếng
chuông chùa ngân vang trầm bổng, Liễu cảm thấy nhẹ nhàng thanh thản. Liễu
vội sang chùa lễ Phật để cầu nguyện cho ba được bình an, còn Liễu
thì có việc làm để phụ giúp ba, cho ba bớt đi phần cực khổ. Khi nghe
Thầy thuyết bài pháp : "Đứa con hiếu thảo yêu thương cha mẹ thì phải
nuôi chí nguyện xuất gia mới mong đền đáp được công ơn cha mẹ".
Liễu như bừng tỉnh, đến thưa với Thầy và nói ý định mình muốn xuất
gia. Thầy trầm ngâm suy nghĩ một hồi lâu rồi hỏi Liễu :
- Con có xin ý kiến ba chưa ?
Liễu nói dối rằng đã xin rồi.
Thầy nói :
- Chùa Thầy ở thôn quê là chùa Tăng,
nếu con muốn đi tu thì Thầy sẽ dắt con lên thành phố, gởi con ở một
chùa Ni, ở đó cũng thuận tiện cho việc tu học của con.
Liễu gật đầu đồng ý và thưa
Thầy ra về. Đến nhà thấy ba vẫn chưa ăn cơm, ba còn chờ Liễu. Ba cười
vui vẻ không còn giận Liễu nữa, ba gọi :
- Đi đâu về trễ vậy ? Ăn cơm
đi con.
Mâm cơm chỉ có "cơm hẩm cá
hiu" mà Liễu ăn ngon vô cùng. Vừa ăn Liễu vừa nhìn ba. Ba đã già
quá rồi, mặt ba đen nám bởi nắng buổi trưa hè, đôi mắt ba quầng
thâm, những vết chân chim hằn sâu ở khóe mắt ba, hai má ba hóp lại, tóc
ba gần như bạc trắng, hai tay ba đen và chai cứng. "Ôi ba ơi ! Biết
bao giọt mồ hôi và nước mắt của ba đã đổ xuống những hạt cơm này
để nuôi con khôn lớn".
- Liễu ăn cơm đi con.
Ba gắp miếng xương bỏ vào chén
mình còn thịt thì bỏ sang cho Liễu. Liễu nghe mắt mình cay cay và môi
mình mặn đắng. Cơm xong Liễu dọn dẹp. Ba nói :
- Liễu à ! Ngủ đi con, khuya lắm rồi.
Từ khi Liễu lớn, ba để Liễu ngủ
trên chiếc giường tre một mình. Ba nằm ngủ trên chiếc võng đã cũ rách.
Có chiếc mền duy nhất ba cũng dành cho Liễu. Nghe tiếng thở dài của ba
biết ba chưa ngủ, Liễu bước xuống giường vặn ngọn đèn dầu lên. Ba
hỏi :
- Sao không ngủ đi con ?
Liễu ấp úng không biết nói sao,
em cố gắng hết sức mới nói thành lời :
- Ba ơi ! Con có việc muốn thưa với
ba.
Thấy sự bối rối của con, chắc
có chuyện gì đây. Ba ngồi dậy :
- Con nói đi.
- Ba ơi ! Con muốn xin ba cho con xuất
gia.
Ba không nói một lời nào cả. Ba lắp
bắp tìm lấy điếu thuốc hút. Liễu và ba cùng im lặng. Nhưng rồi không
còn chờ được nữa, Liễu xà vào lòng ba khóc nghẹn ngào. Ba vuốt tóc Liễu
nói trong xúc động :
- Nếu con muốn xuất gia thì ba cũng
đồng ý. Đừng khóc nữa con, đừng khóc nữa.
Liễu muốn nói thật nhiều với ba
nhưng không sao nói được, nước mắt cứ ràn rụa. Ba cũng khóc. Như xúc
động với tình cảm của cha con Liễu, bên hiên nhà cũng nhỏ từng giọt
mưa tí tách.
Ba đã đồng ý, và ngày Thầy dắt
Liễu đi lên thành phố tu học cũng đến. Ba lục hết những đồng tiền
còn sót lại dúi vào tay Liễu, rồi lấy xuồng đưa Thầy và Liễu sang
sông. Bước lên bờ Liễu nhìn lại mái nhà lá cũ nát của mình, bờ sông
thân thương, con xuồng bé nhỏ đã sống với Liễu từ bé. Dòng sông như
ngừng chảy, hàng Thủy Liễu cũng nghẹn ngào trong buỗi tiễn đưa. Còn
ba, ba già nua cằn cỗi đứng trên chiếc xuồng con đang rưng rưng nhìn Liễu.
Từ đây Liễu sẽ xa nơi này. Liễu quay mặt đi để giấu hai hàng nước
mắt.
- Thưa ba con đi.
Nói xong Liễu đi thật nhanh, không
dám quay lại nhìn ba, vì sợ quay lại chắc em không đi được nữa. Nhưng
Liễu vẫn cảm nhận được sau lưng, dáng cha gầy đổ xuống bờ sông,
ven hàng Thủy Liễu, chạy dài hun hút đến cuối rặng dừa xanh, thẫn thờ
như vừa mất đi một bảo vật vô giá.
Thầy gởi Liễu tu ở chùa Thuận
Bài. Cuộc sống nơi đây thật êm đềm. Từ ngày Liễu đi đến nay đã hơn
5 tháng. Liễu đã được xuất gia và được Thầy đặt tên mới là Diệu
Nhẫn. Diệu Nhẫn cũng đã phần nào nguôi ngoai nhớ ba. Chiều hôm ấy Diệu
Nhẫn nhận được lá thơ ba từ tay Thầy. Em mừng đến rơi nước mắt. Mở
thơ ba ra, Nhẫn nhìn thấy nét chữ ngoằn ngoèo của chú Ba. Khi còn bé, ba
sống trong thời loạn ly, mà nhà nội lại nghèo nên ba không có đi học. Lá
thơ tuy chú Ba viết, nhưng Nhẫn vẫn thấy gương mặt hiền lành của ba
trong thơ. Thơ viết :
"Liễu con, hôm
con xuất gia Thầy có báo cho ba biết. Ba rất mừng, nhưng đường quá xa ba
không đi dự lễ xuất gia của con được, ba buồn lắm. Từ ngày con đi ngôi
nhà trở nên trống vắng quá, chiếc xuồng nhỏ của con cũng buồn thiu, khách
sang sông cũng vắng hơn lúc con còn ở nhà. Ba biết con thương lắm chiếc
xuồng con và mái nhà lá. Nhưng đành vậy con à, ba đã sang chiếc xuồng
và mái nhà lại cho một đôi vợ chồng khác rồi. Ba về quê sống với
ông bà nội. Con hãy yên lòng mà lo tu học, đừng lo gì cho ba nghe con. Ba gởi
cho con gái ba ít tiền để mua sách vở, ba chỉ có bấy nhiêu thôi, ở với
Thầy ráng hiền lành ngoan ngoãn nghe con.