- TAN LOÃNG THEO MÂY
- Huỳnh Trung Chánh
Sừng sững trên cánh đồng
lúa chiêm vùng bắc ngạn sông Đuống, thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc
Ninh, tụ hội năm ngọn núi khôi vĩ Ma Khám, Nguyệt Hằng, Đông Sơn, Bát Vạn
và Lạn Kha. Lạn Kha dịch nghĩa là rìu nát, địa danh bắt nguồn từ sự
tích người tiều phu lên núi đốn củi, tình cờ theo dòi một ván cờ
tiên, cho đến khi cờ tàn, tiên đi mất, người tiều phu nhặt lại chiếc
rìu mới khám phá cán rìu mục nát, còn mình thì cũng biến thành cụ già,
lạc bước cô đơn về làng cũ. Núi Lạn Kha vì vậy còn có tên là Tiên
Du, nổi tiếng với ngôi cổ tự Phật Tích, một tổ đình đã đào tạo
bao đắc đạo cao tăng khắp các triều đại, nên quanh năm suốt tháng dập
dìu tài tử giai nhân đăng sơn viếng chùa, ngoạn cảnh. Nguyệt Hằng đối
diện với Lạn Kha, đường đi trắc trở cheo leo, phong cảnh xinh tươi hùng
vĩ, cũng hiện hữu ngôi thiền viện cổ xưa, nhưng sơn môn nầy lại vắng
vẻ tiêu điều. Nguyệt Hằng chỉ nổi tiếng về trà, trà "hoàng tước
thiệt" do Thanh Hư thiền viện sản xuất được giới trà gia "cao
thủ" xếp vào hạng lừng danh, chính vì vậy mà Nguyệt Hằng còn mang
tên nôm na là núi chè. Giống trà nầy, như tên tự miêu tả, lá thon nhỏ
như lưỡi chim sẻ, màu mạ non phơn phớt lớp lông tơ mịn óng ánh vàng.
Trà "hoàng tước thiệt", phát xuất từ vùng núi non trùng điệp của
tỉnh Triết Giang, Trung Hoa, mà theo truyền thuyết đã do vị cơ tổ, trong
chuyến chiêm bái ngôi chùa Từ Thọ mang hạt giống về gieo trồng. Giống
trà quý lại được chư sư chăm sóc cẩn trọng, tuyển lựa từng đọt trà,
chỉ hái thuần búp non và một lá nhỏ, nên phẩm chất phải thanh cao đặc
biệt. Trà cho nước màu xanh nhạt, thoang thoảng hương thanh nhẹ, vị hơi
chát đắng mà tươi tỉnh, hậu dịu ngọt, khiến người uống trà cảm
giác lâng lâng sảng khoái. Khoảng năm mươi năm về trước, thiền viện
giữ tục lệ tổ chức hội trà vào tiết Thanh Minh, để chư Thiền sư thân
hữu thưởng thức chung trà đầu mùa quý giá. Hình ảnh mấy mươi vị lão
sư trang nghiêm nâng chung trà nghi ngút khói lên đỉnh sương mù mây trắng
lửng lơ, vẫn còn được nhắc nhở.
- "Khói trà quyện với ngàn mây…
- Chung trà tỉnh thức đong đầy tam thiên…"
Theo đúng thanh qui của tổ Bách
Trượng "nhất nhựt bất tác, nhất nhựt bất thực", ngoài hoa lợi
vườn trà, thiền viện còn trồng vài loại màu phụ để có thể tự túc
kinh tế. Do đó, chư tăng phải chấp tác không ngừng, nhứt là vào mùa
xuân, tất cả nỗ lực đều phải tập trung vào việc sản xuất trà. Trà
được hái từ sáng tinh sương, rồi mang về cho vào sàng xấy sơ, đoạn
trộn đều và đánh cho mềm ra, kế đó, lại phải xấy khô ráo thì mới
hoàn tất. Dù bận rộn như thế nào, chư tăng vẫn chuyên cần tọa thiền,
và tụng niệm hai thời công phu đều đặn. Sơn môn tuy là một chi phái
thiền, nhưng lại có truyền thống quan tâm đặc biệt đến lễ nhạc, phầm
mà vài giới tu sĩ chê bai là "thanh âm sắc tướng". Theo sơ tổ,
rung động của âm thanh có thể tạo nên những sự rung động sâu xa nơi tâm
thức. Âm điệu tán tụng đúng mức có diệu dụng thức tỉnh kẻ mê đắm
dục lạc, hóa giải tham sân si, trao truyền an lạc. Nhịp mõ khoan thai phá
tan loạn động, hồi trống dồn dập triển khai tinh tấn, và tiếng chuông
thanh thoát nhiệm mầu. Âm ba đặc thù của tiếng chuông : ngân nga, bàng bạc,
trầm sâu, xoáy chuyển, có công năng thẩm thấu tận đáy nguồn tâm thức,
vừa cao vút thông suốt tam thiên, vừa xuyên thủng cõi u minh địa ngục.
Điều đó đã giải thích tại sao, tiếng thác đổ ầm ỉ, tiếng trời
long đất lở, tiếng trống kèn rầm rập của ba quân… không lay chuyển
chư thiền sư trong cơn đại định, nhưng một tiếng chuông nhỏ lại có
diệu dụng thức tỉnh vị ấy. Tiếng chuông gắn liền với sự nghiệp giải
thoát, phản ảnh trình độ tu tập của hành giả. Đạo đức càng cao thì
tiếng chuông càng thâm trầm đạo vị. Lặng lẽ lắng nghe tiếng chuông của
bậc giác ngộ, đôi khi người hành giả gặt hái được lợi ích hơn cả
mấy năm chuyên cần tu tập. Do đó, tuy thiền tông tuyên bố là "bất
lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền" và phủ nhận mọi hình thức lễ
bái, mà tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng khác, tiếng tụng niệm, tiếng hét…
của chư thiền tổ đều hàm chứa một diệu dụng vô song.
Đặc biệt quan tâm đến âm thanh,
nên sư Viên Thắng đã đảm trách hai thời thỉnh đại hồng chung vô cùng
thận trọng. Sư thong thả thỉnh một trăm lẻ tám tiếng chuông khuya. Vừa
thỉnh chuông, sư vừa ngâm kệ phục nguyện "âm siêu, dương thới"
cho pháp giới chúng sanh. Từ lầu chuông chót vót đỉnh núi, sư cất tiếng
ngân cao vút thiết tha, thành khẩn mong hạnh nguyện mình nương theo tiếng
chuông trôi xuống thôn xóm xa xôi dưới chân núi phổ độ dân làng. Sư Viên
Thắng thường được các vị sư thúc khen ngợi có năng khiếu thiên phú về
lễ nhạc. Khí cụ nào, dù là chuông, mõ, khánh… hay trống, trong đôi tay
sư cũng chuyển biến thành những âm thanh nhịp nhàng, điêu luyện và tràn
đầy đạo vị. Giọng của sư lại ấm và truyền cảm, nên khi xướng, tán
hay tụng kinh âm điệu thoát tục cũng khiến người nghe lắng lòng nương
tiếng kệ, mà thơi thới rủ bỏ hết mọi hệ lụy triền phược của cuộc
đời. Sư thúc khuyến dụ sư mang sở trường xuống núi làm phương tiện
hữu hiệu hoằng hóa chúng sanh, nhưng sư một mực chối từ. Sơn môn đơn
chiếc, thương thầy già yếu và sư đệ dại khờ, sư Viên Thắng không mảy
may nghĩ đến việc ra đi. Đêm nay, nhìn sang núi Lạn Kha, thấy hàng ngàn
bó đuốc của khách hành hương sáng rực góc trời, hốt nhiên sư cảm thấy
niềm hối tiếc vương vấn trong lòng. Sư bỗng ước mơ ngày sư có cơ hội
thi thố tài năng tụng niệm của mình. Giây phút huy hoàng ấy, thỉnh thoảng
vẫn được sư phát họa trong tâm, là cảnh tượng sư đang lẫm liệt uy
nghi cử hành nghi lễ trọng thể cho những bậc vua chúa tại ngôi chùa vĩ
đại chốn đế đô. Giấc mơ tương lai cứ vẩn vơ ám ảnh khiến sư trằn
trọc bất an suốt đêm và thời tọa thiền cũng lơ mơ loạn động.
Sau thời công phu sáng, sư cụ Tịnh
Chiếu nghiêm trọng gọi hai đệ tử vào tăng phòng dạy việc. Sự kiện bất
bình thường khiến hai đệ tử Viên Thắng, Viên Thông lo lắng, căng thẳng
chấp tay chờ đợi thầy quở trách. Bất ngờ, sư cụ biểu lộ vẻ tươi
vui, rồi ngọt ngào lên tiếng :
- Thắng con ! Con hầu thầy hai mươi
năm kể ra là quá đầy đủ ! Thầy dự định đến ngày rằm sẽ làm lễ
hạ sơn cho con xuống núi đem sở học để hoằng dương chánh pháp !
Sư Viên Thắng nghĩ đến vọng tưởng
hư đốn của mình vừa qua, vội vã dập đầu thành khẩn thưa :
- Bẩm thầy, con xin sám hối đã loạn
tưởng buông lung khi hành thiền. Xin thầy thứ tha cho con được tiếp tục
ở lại tu tập !
- Thắng con ! Hễ rời vọng tưởng
chấp trước là chứng được chân tâm. Các pháp môn Phật giáo sai khác đều
qui về một mối là chỉ bày hành giả phương pháp diệt trừ vọng tưởng
mà thôi. Phương pháp thẳng, gọn của lục tổ là : "Vạn duyên buông
hết, một niệm không sanh", nói khác, nếu biết buông bỏ toàn thân như
người chết : căn trần thức tan biến, tham sân si diệt sạch, họa phước
vinh nhục danh lợi chẳng màn, thì sao chẳng xa lìa được vọng tưởng, chân
tâm chẳng hiển bày…
Lặng yên giây phút cho đệ tử lắng
tâm suy gẫm, sư cụ ôn tồn tiếp lời :
- Thắng ạ ! Con vốn có duyên hoằng
pháp chốn đế đô, thầy nghĩ đã đến lúc con nên tùy thuận ra đi gánh
vác Phật sự. Sư cụ chùa Trấn Quốc (1), sư thúc tổ của con, bấy lâu
nay khẩn thiết yêu cầu thầy giới thiệu một môn sinh tín nhiệm đỡ đần
Phật sự, và thầy đã hứa cử con về hầu người. Nay mùa chè đã hoàn
mãn, đến lúc con có thể lên đường nên thầy thông báo con chuẩn bị
hành trang. Ngoài ra, nhân dịp nầy thầy cũng muốn cho hai con biết vài điều
bí ẩn trọng đại của sơn môn ta. Sơ tổ, trong thời gian du phương cầu
đạo tại Ngũ Đài Sơn đã được một vị thánh tăng vô danh tặng viên
ngọc ma ni vô giá…
Sư cụ mở cái hộp gỗ lim để
dưới bộ kinh Đại Bát Nhã, chỉ hai đệ tử xem viên kim cương lớn bằng
trứng chim sâu long lanh sáng chói, rồi nói tiếp :
- Ngọc có đặc điểm là tùy tâm
người cầm giữ mà ảnh hiện màu sắc. Tâm trong sáng thì ngọc trong
sáng, tâm nhơ bẩn xấu xa thì ngọc cũng đen đủi xấu xa. Vì vậy, nên mới
được gọi là như ý châu tức ma ni châu. Đây là tín vật chưởng môn,
dành trao truyền cho người tiếp nối trụ trì ngôi Thanh Hư thiền viện.
Xây qua Viên Thắng, sư cụ dặn dò
:
Con là đại đệ tử là người kế
vị thầy tiếp nhận viên ngọc nầy, nhưng con còn duyên hoằng hóa chốn
đế đô, nên ta đành đình hoãn mười năm, chờ ngày con trở về mới
chuyển giao trách nhiệm môn phái.
Viên Thắng bùi ngùi :
Thầy hứa với sư thúc tổ thì con
phải vâng lời đến chùa Trấn Quốc một thời gian. Tuy nhiên, con hy vọng
trong vài năm, khi sư thúc tổ có người khác đỡ đần thì con xin về, chớ
xa thầy đến mười năm thì lâu quá !…
Viên Thông cũng cất tiếng năn nỉ
:
Thầy can thiệp với sư thúc tổ
cho sư huynh trở về sớm thầy nhé !
Ơ ! Việc đó tùy duyên mà thu xếp,
đề cập lúc nầy có phần quá sớm. Vả chăng, thầy muốn dành thời giờ
kể hai con hiểu rõ nguyên nhân tục lệ lên xuống núi khắc khe của sơn môn
ta, để mà suy gẫm. Truyền thống này liên hệ đến câu chuyện thầm kín
từ năm mươi năm trước. Ngày đó, Thanh Hư đang thời hưng thịnh, tăng chúng
hàng trăm vị, do tổ thứ tám, pháp danh Từ Nhẫn làm viện chủ. Tổ cao
đức trọng, tuổi đã bảy mươi mà vẫn không ngừng phát triển sơn môn,
đào luyện tăng tài. Một hôm, tổ khẩn cấp truyền gọi các đệ tử vân
tập đến rồi long trọng cử người đại đệ tử kế vị viện chủ,
sau đó tổ tường thuật họ nghe câu chuyện bí mật trọng đại của mình.
Tổ tham thiền nhập định tự biết mình sắp nhập diệt, nên hai ngày trước,
nhân đêm trăng sáng đã đi dạo quanh tu viện để giả từ. Vô tình tổ
đi lần xuống chân núi, rồi dừng chân bên bờ suối, ngắm bóng trăng in
trên mặt nước. Thình lình có cô bé, tuổi chừng đôi tám, te te đến bên
giòng suối, yên chí đó là chốn không người, nên cổi phăng chiếc váy,
thản nhiên xuống tắm. Diễn tiến xảy ra thật bất ngờ, không cách gì
ngăn chận kịp, khiến tổ phải giữ yên lặng, cho cô bé đỡ thẹn thùng.
Tổ nhắm mắt lại, nhưng không biết do oan nghiệp tự kiếp nào, trong một
thoáng tổ bỗng mống niệm ý nghĩ hiếu kỳ là muốn nhìn cho rõ. Vọng niệm
phát khởi từ sự tò mò tưởng chừng vô hại mà hậu quả nguy hiểm
không phương cứu vãn. Trở về hậu liêu tọa thiền nhập định, tổ khám
phá mình sẽ sớm lìa đời với cận tử nghiệp ác hại đeo đuổi khiến
tổ phải đọa sanh làm thân con rận, sông trong chiếc váy cô bé để thỏa
mãn vọng niệm nhìn cho rõ trước kia. Kết luận tổ khẩn thiết yêu cầu
chúng đệ tử hoàn thành hai điều tâm nguyện giúp tổ sớm được siêu
thoát (2). Trước hết, tổ ủy thác người đại đệ tử, chờ đợi đúng
ba ngày sau khi tổ mệnh chung, phải đích thân tìm đến nhà người tiều
phu ngụ dưới chân núi mua chuộc chiếc váy cô bé đang mặc, đem về đặt
bên cạnh thi thể tổ, luân phiên tụng kinh nghiệp báo bốn ngày, đoạn
đem hỏa thiêu chung với nhục thân người. Thứ đến, tổ dặn dò chôn
bình hài cốt tổ trên lối đi duy nhất lên xuống núi, hầu mỗi khi dẫm
chân lên đó, chúng đệ tử sẽ nhớ đến oan nghiệp của tổ mà xa lìa vọng
niệm sàm sỡ. Chúng đệ tử nghe thầy kể chuyện vừa kinh dị, vừa
thương cảm, mà chỉ biết răm rắp tuân lời. Thương thầy, các đệ tử
nghĩ đến việc hạn chế đi lại dẫm trên bình hài cốt thầy. Lệ không
tiếp khác tăng lẫn tục và lệ ngăn cấm đệ tử chưa làm lễ hạ sơn
chánh thức lên xuống núi được đặt ra.
- Thưa thầy ! chú Viên Thông bức rức
lên tiếng, tổ Từ Nhẫn trọn đời tu hành chân chính, chỉ mống tí vọng
niệm tò mò mà rơi vào ác đạo thật là khó hiểu?
Các con ạ ! Cận tử nghiệp là yếu
tố quyết định hướng dẫn thân trung ấm trôi nổi theo lục đạo luân hồi.
Giới tu hành thường nhắc nhở chuyện một vị lão hòa thượng, trọn đời
tu hành chơn chất, nhưng khi sắp chết lại mống niệm tiếc rẽ bụi mía
tươi tốt trồng mà chưa ăn được, nên đã đọa lạc làm thân con sâu
mía để thỏa mãn nguyện vọng lúc lâm chung. Vào thời Đức Phật tại thế,
có vị Tỳ kheo vừa được thí chủ cúng dường bộ y mới, chưa kịp mặc
thì trúng gió chết, nên luyến tiếc chẳng rời. Cận tử nghiệp đó đã
lôi kéo vị tỳ kheo nầy thác sanh thành ngạ quỷ lẩn quẩn bám giữ của.
Biết rõ sự kiện trên, Đức Phật dạy chư tỳ kheo phải chờ đến bảy
ngày, sau khi kẻ mạng chung nguôi ngoai lòng tham tiếc, thiện căn phục hồi
thoát kiếp ngạ quỷ, thác sanh lên cõi trời, mới được phân chia tài sản
người chết.
Viên Thông chống chế :
Thưa thầy ! Trường hợp của tổ
không thể kể là cận tử nghiệp, vì sau đó tổ vẫn còn giữ vững
chánh niệm để tọa thiền, để họp chúng kia mà !
Viên Thắng cũng góp ý :
Con lại tin tưởng câu chuyện nầy
chỉ là một phương tiện, một khế cơ, mà tổ nhằm sử dụng để giáo
huấn đệ tử !
Quan niệm của con rất hợp ý thầy.
Đúng vậy ! ngay thời Đức Phật còn tại thế, chư thánh tăng đôi khi đã
cố tình tạo điều lầm lỗi, hầu Đức Phật có cơ hội nhắc nhở, khuyên
dạy và đặt giới luật ngăn ngừa kẻ phàm nhân vấp phải. Thuở ấy, đệ
tử bản môn thường bị nữ sắc quyến rủ, do đó, có lẽ tổ đã cố
tình tạo ra biến cố này, như một phương pháp "khổ nhục" để
giáo hóa đệ tử tinh tấn tu tập, xa lìa vọng niệm mà thôi. Có điều tự
phỉ báng thanh danh mình để làm bài học sống động cho kẻ hậu sinh, thì
chỉ có tâm nguyện của bậc Bồ tát không còn chút ngã chấp mới hành xử
nỗi !
Tuy vẫn ước mơ ngày hạ sơn vùng
vẫy ngang dọc một phen, nhưng khi sắp ra đi, sư Viên Thắng vẫn cảm thấy
bùi ngùi tấc dạ. Sư thương thầy, mến sư đệ chẳng rời. Sư quyến luyến
tự viện, đỉnh núi, đồi thông. Sư tần ngần ngắm từng khóm đá, gốc
trà, gốc đào, cội mai… tất cả đều chứa chan bao kỷ niệm ấm êm. Thời
giờ trôi nhanh quá, lật bật đã đến ngày rằm, sư cụ Tịnh Chiếu cử
hành lễ hạ sơn cho đệ tử, rồi đích thân tiễn đưa đệ tử thương yêu
lên đường. Khi sắp chia tay nhau bên giòng suối Tiền Định, Viên Thắng bịn
rịn thỉnh cầu thầy ban cho một lời ẩn ngữ làm hành trang tu tập sau
cùng. Sư cụ lơ đảng nhìn cuộn mây trắng đong đưa bay đến, thò tay hí
hoáy thảo vài nét vô nghĩa trong không khí, rồi khoác tay giã biệt. Sư Viên
Thắng ngẩn ngơ quán sát thông điệp lạ lùng đó. Sư biết thầy vừa
trao truyền cho mình một thứ công án thâm sâu, nhưng trong cơn xúc động
xa thầy xa bạn, lòng dạ rối ren, tạm thnời sư chưa nghĩ ra được. Sư
đành rưng rưng nước mắt, lặng lẽ quì lạy từ tạ thầy, rồi lấy hết
can đảm, theo đúng tục lệ bản môn, khắc khoải lê gót dẫm lên bình
hành cốt của tổ Từ Nhẫn mà ra đi.
- *
- * *
Sư cụ chùa Trấn Quốc có lẽ thiếu
duyên lành nuôi đệ tử. Sư cụ dễ dãi thâu nhận đệ tử xuất gia khá
đông, nhưng những kẻ tạm có tư cách, tinh tấn tu hành lại cứ rơi rớt
lưới tình hoàn tục. Người đệ tử duy nhất mà sư cụ đặt trọn niềm
tin, thì bất ngờ lại yểu mệnh. Sư Viên Thắng được thầy cho xuống núi
về với sư thúc tổ thật đúng lúc. Sư cụ tuổi trên bảy mươi, bệnh
hoạn yếu đuối, mà bấy lâu phải vất vả với bao Phật sự đa đoan nên
sức lực mỏi mòn như ngọn đèn cạn dầu. Viên Thắng chững chạc đạo
đức, mà kỹ thuật tụng kinh, sử dụng chuông mõ lại siêu việt, nên sớm
thu phục cảm tình Phật tử các giới. Sư cụ liền chuyển giao lần lần
công việc trụ trì cho sư Viên Thắng, để dành thời giờ lo phát họa kế
hoạc tái thiết ngôi chùa thêm khang trang đẹp đẽ. Ngờ đâu, công tác
xây cất chưa kịp khởi công, thì sư cụ trở bệnh nặng, nên chỉ biết
ủy thác tất cả mọi việc cho Viên Thắng rồi lìa trần.
Chùa Trấn Quốc là ngôi chùa cổ
kính, dính liền với sự thịnh suy của đất nước. Chùa đã được xây
dựng từ đời Lý Nam Đế, với danh hiệu Khai Quốc, tọa lạc tại bãi An
Hoa, giáp sông Hồng Hà. Đến triều đại Hậu Lý, công nghiệp khai quốc,
- dựng nước -, thuộc về chùa Cổ Pháp, nên ngôi chùa nầy được đổi
tên là Trấn Quốc. Khi đất nước lâm cảnh ly loạn huynh đệ tương tàn,
thời Trịnh Nguyễn phân tranh, bờ sông Hồng lở khuyết làm sụp đổ chánh
điện, chùa phải di tản về một giải đất nổi trong hồ Tây, tức Hồ
Lăng Bạc, thuộc xã Yên Phụ, phía Bắc ngoại thành Thăng Long. Ngôi chùa tạm,
mái tranh vách đất sơ sài, tọa lạc giữa vùng trời nước mông mênh,
thanh nhã núp sau hàng cây anh đào, cội mai, khóm trúc… hiện hữu mờ ảo
như cảnh mộng. Sư thúc tổ đã trụ trì vào thời điểm chùa suy sụp,
nên bao nhiêu năm trời hành đạo, đã bền bĩ quyên góp, cân nhắc chi
tiêu, tiện tặn từng đồng xu một, để tích lũy thành một số tiền to,
hầu hoàn thành tâm nguyện phục hưng ngôi chùa cổ. Tiền của nầy đã
gây phiền nhiễu cho sư cụ không ít. Sư cụ khổ sở lo lắng đám đệ tử
thâm lạm, phí lạm của tam bảo nên không thích gần gũi ai. Sư cứ nghi ngờ
đánh giá mãi nên không bao giờ tìm được một kẻ kế thừa vừa ý. Trường
hợp sư Viên Thắng là một ngoại lệ đặc biệt. Có thể vì sư cụ không
còn cách chọn lựa nào khác, mà cũng có thể vì Viên Thắng là một sơn
tăng, quen nếp sống đạm bạc, lại là hậu bối bản môn, có căn bản tu
học vững chắc, xứng đáng được tín nhiệm.
- Thế là chỉ xuống núi trong một thời gian ngắn
sư Viên Thắng đã nghiễm nhiên thừa hưởng trọn vẹn cơ nghiệp cả đời
của sư thúc tổ. Không phụ lời ủy thác của sư thúc tổ, sau khi lo tang
ma cho người, sư Viên Thắng liền nghĩ đến công cuộc trùng tu toàn diện
ngôi chùa. Thoạt đầu, sư âm thầm tiến hành việc xây dựng cổng tam
quan uy nghi, lộng lẫy nên danh hiệu Trấn Quốc tự màu hoàng kim, với những
câu đối hàm súc ý đạo. Mái tam quan ba từng uốn cong phơn phớt, lợp ngói
âm dương sơn đỏ au, trên có cặp rồng xanh biếc tranh ngọc, vừa cổ
kính vừa đẹp xinh. Cổng tam quan nổi bật giữa vùng trời nước Hồ Tây
tạo tiếng vang khá sâu rộng. Phật tử khắp huyện Thọ Xương đồng tán
thán công đức vị sư trẻ, rồi đua nhau tận lực yểm trợ công của cho
chùa. Từ đó, bao năm trời liên tiếp sư chỉ cần cù lo kiến thiết
chùa. Vừa hoàn thành chánh điện khang trang, mái ngói, vách gạch, cột gỗ
chạm trổ công phu, sư đã nghĩ đến việc tu bổ hậu đường, tòa thiên
hương, bảo tạng, gác chuông, gác trống… Âm vang bàng bạc của chuông
chùa Trấn Quốc đi sâu vào lòng người, thoát thành tiếng hát dân gian :
- "Gió đưa cành trúc la đà
- Tiếng chuông Trấn Quốc, canh gà Thọ Xương"
(3)
Để tạo thêm nét trang nhã, sư
cũng sắp xếp lại khu vườn cây kiểng phía trước, tô điểm vài cụm
lan, trồng hàng cây si lá xanh mướt dọc bờ hồ, thả sen mọc chen chúc,
hoa trắng, hoa đỏ nở nhởn nhơ tỏa hương thoang thoảng. Chùa càng xinh đẹp
thì khác hành hương càng rộn rịp. Phật tử của chùa không còn thu hẹp
trong phạm vi Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch nữa, mà còn lan rộng đến nội thành.
Rồi giới danh gia vọng tộc cũng lục tục hướng về qui ngưỡng. Khi Chúa
Trịnh Sâm thích cảnh chùa, hàng tháng tổ chức du ngoạn hồ, sư liền cho
xây cất ngôi thủy đình rộng rãi để Chúa có nơi đón gió mát trăng
thanh. Để thỏa mãn nghệ thuật thưởng thức trà Tàu của Chúa, sư cũng
nhờ bọn lái buôn tìm cho được loại ấm Nghi Hưng vô giá, tuyển mua loại
trà Long Tĩnh thượng hảo hạng giá mắc hơn vàng, mà cung phụng. Sư cũng
lo thủ sẵn loại rượu "mai quế lộ" đặc biệt để tươm tất
hầu Chúa. Nhờ gần gũi với Chúa mà uy danh của sư Viên Thắng và chùa Trấn
Quốc lấn áp các ngôi tự viện đồ sộ trong nội thành. Chùa sung túc, tiền
cúng dường thu được tràn ngập, mà việc tái thiết chùa đã hoàn mãn,
khiến sư Viên Thắng không tìm phương pháp gì tiêu xài cho hết. Sư ăn xài
phong lưu, chỗ xây cất nào không vừa ý thì đập phá làm lại, nếu phải
đập phá nhiều lần cũng chẳng ngại ngùng. Từ lâu, sư đã chuyển giao mọi
công tác Phật sự cho đám đệ tử phụ trách, sư tiêu dao nhàn nhã tháng
ngày. Sư chỉ phải bận bịu tíu tít một cách thích thú khi tiếp đãi giới
cao sang quyền quí. Gần gũi họ sư cảm thấy cũng phải tự sửa sang, tô
điểm hình tướng đôi chút. Sư tung tiền cho đám thương gia qua tận Trung
Hoa thỉnh cho sư một xâu chuỗi cẩm thạch màu thiên thanh to tướng, mấy
bộ y hậu gấm nhung trang bị khoen móc y hậu vàng chạm trổ tinh vi, mũ hiệp
chưỡng gấm thêu, cùng với chiếc chăn vô giá thêu trọn bài "Tâm
kinh bát nhã"… Ngoài ra, tuy mới hơn bốn mươi tuổi, sư tự chăm sóc
sẵn sàng phần hậu sự : tích trữ tấm đà la ni và trầm hương dược liệu
lẫn liệm đắc giá, đồng thời cũng xây dựng một bảo tháp nguy nga cho
chính mình. Một hôm nhìn thấy viên kim cương đính trên mũ chúa Trịnh
lóng lánh, bất giác lòng sư rúng động. Sư bỗng ao ước trên mũ hiệp
chưỡng của mình cũng hiện hữu viên ngọc tương tợ. Điều nan giải là
tuy sư đã vận dụng đủ mọi cách nói úp úp mờ mờ mong đệ tử tại
gia cúng dường ngọc mà đợi hoài vẫn chưa tìm ra được thí chủ đáp
ứng. Sư dự định nhờ bọn lái buôn mua giúp, nhưng lại lo sợ tiếng xấu
đồn xa là sư mua nữ trang cho gái nên đành thao thức thèm thuồng. Sư
đang buồn rười rượi thất vọng, thì bỗng vụt nhớ đến viên ngọn ma
ni trấn sơn của Thanh Hư thiền viện ngày trước. Sư mừng khấp khởi thầm
nhủ : "Bản sư Tịnh Chiếu đã hứa khả trao truyền viên ngọc chưởng
môn cho ta kia mà !. Viên ngọc ma ni đó "chễm chệ ngự" trên mũ hiệp
chưỡng thật danh chánh ngôn thuận, nó tạo nên nét quyền quí cao sang của
hàng vương giả mà cũng phô trương được đạo đức ngất trời của bậc
tôn sư".
- *
- * *
Sư Viên Thắng rộn ràng, tiền hô
hậu ủng, thẳng đường quay trở về núi Nguyệt Hằng. Mười lăm năm
trước, dưới chân núi chỉ lấp ló vài chiếc lều tranh xệch xạc của bọn
tiều phu, không ngờ ngày nay quanh chân núi lại là một thôn xóm trù mật,
với những căn nhà xinh xinh ngăn nắp xúm xích bên nương khoai, nương sắn.
Điểm lạ lùng nhất là nhà nào cũng trồng trà, những vườn trà xanh um
thẳng tắp trải dài lên tận sườn núi, đỉnh đồi. Tần ngần trước một
ngã ba vắng vẻ, sư Viên Thắng đảo mắt tìm người hỏi thăm đường,
chợt nghe tiếng trẻ con văng vẳng hát ca :
- "Ta có thần châu một hạt
- Lâu nay bụi mờ che khuất
- Giờ đây sạch bụi sáng trưng
- Soi thấy nghìn trùng non nước" (4)
Nhìn qua hàng dậu thưa, sư khám
phá ra cảnh vui nhộn của đám trẻ con đang cười giỡn, ca hát với một
thanh niên áo nâu, đầu trọc. Thanh niên cũng chợt nhìn thấy đoàn người
xa lạ vội chấp tay kính cẩn chào. Bất ngờ, sư Viên Thắng nhận diện
ngay được người quen, vội vàng lên tiếng :
- Phải chú Viên Thông đó không ?
- Ô ! không ngờ lại là sư huynh ?
sư huynh hồng hào và sang trọng quá ! nên em nhìn không ra…
Mấy ngày đi đường, hồi tưởng
thuở hàn vi, Viên Thắng chợt nảy sinh chút tình huynh đệ, thầm dự định
sẽ đua sư đệ về thành đô mà an hưởng giàu sang, nay diện kiến cảnh
sự đệ quê mùa, ăn mặc lôi thôi lếch thếch, chẳng lộ chút uy nghi đức
độ của giới tu hành, nên đại sư ngao ngán đổi ý…, tuy vậy, người
vẫn vui vẻ lên tiếng :
- Ta về thăm sư phụ và sư đệ đây
!
- Sư huynh ơi ! Thầy đã thị tịch
gần hai năm rồi ! Em có nhờ người đưa tin cho sư huynh mà !
Thật ra, thì Viên Thắng cũng được
báo tin, nhưng thời gian đó Chúa Trịnh thường tổ chức du ngoạn Tây Hồ,
sư cần phải chầu chực đón rước Vương gia đâu rảnh rang rời thành đô
về lo tang ma thầy được. Sư dửng dưng đáp :
- Thế à ! Ta co hay biết gì đâu !
Thôi lỡ rồi thì ta đành lên núi, lạy mộ thầy sám hối vậy… Đệ hướng
dẫn huynh lên đường nhé !
Viên Thông ngại ngùng nhìn phái đoàn
hành hương, rồi ấp úng đáp :
- Vâng ạ ! nhưng chắc sư huynh vẫn
nhớ truyền thống dè dặt tiếp đón khác của sơn môn…
Thiếu thốn kẻ hầu hạ thật khó
chịu, nhưng về đến chốn nầy, Viên Thắng không thể bất chấp tục lệ
xưa, đành phải sắp xếp cho đám tùy tùng chờ đợi dưới chân núi, rồi
uể oải bước theo chân sư đệ.
Trên đường đi, Viên Thắng thuật
cho pháp đệ sự nghiệp của mình tại Thăng Long thành, đồng thời cũng hỏi
han tìm hiểu những diễn biến của sơn môn sau ngày sư giã biệt :
- Lạ nhỉ ! Chỉ mười mấy năm mà
vùng núi đồi nầy đã biến thành vườn chè xanh tốt !
- Gia chủ những vườn chè đó
nguyên là những gia đình nghèo lam lủ dưới chân núi ngày trước. Thời
gian sau khi huynh rời núi, sư phụ ốm yếu liên miên, nên đệ thường xuống
núi lo thang thuốc nhờ vậy mời tiếp xúc với họ. Nhận thấy đời sống
họ kham khổ, tăm tối, chỉ biết an phận với nghề đốn củi hoặc bẫy
thú rừng sống qua ngày, đệ khuyên họ phá rừng núi làm rẫy, thỉnh cầu
thầy ban cấp cho họ hạt giống, rồi hướng dẫn họ phương pháp trồng
chè, hái và xấy ướp chè… Thoạt tiên, mỗi gia đình trồng vài khoảnh
chè nho nhỏ làm thí điểm, gặt hái được hoa lợi khả quan nên họ thi
đua nhau bành trướng thêm mãi. Dân chúng vùng khác cũng lục tục kéo đến
lập nghiệp, nên chẳng bao lâu vùng nầy đã biến thành xóm làng thịnh vượng…
Vào những ngày mà dân làng đổ xô lo vụ mùa, đệ thường xuống núi
trông nom dùm con cái họ, và nhờ vậy hôm nay mới may mắn đón gặp sư
huynh…
Ai đời thiền viện chỉ độc quyền
về trà, mà thằng bé vô dụng bày vẽ hết cho người ngoài thật là quá
đổi khờ khạo. Bực bội người pháp đệ ngu xuẩn Viên Thắng im lặng
chẳng thèm hỏi han gì nữa. Vả chăng, đường núi cheo leo, đại sư lại
quá đẫy đà và bẵng một thời gian không vận động, nên chỉ đi một
phần ba đoạn đường là kiệt sức. Sư thở chẳng ra hơi nên đâu còn bụng
dạ nói năng đối đáp nữa. Mệt quá, sư muốn bỏ cuộc, quay xuống núi
ngay, nhưng nghĩ đến viên ngọc vô giá, sư đành gắng sức lê lết. Nhờ
Viên Thông hết lòng nâng dắt và cuối cùn cõng vác một đoạn đường dài,
khi vầng thái dương vàng ửng trời tây thì ngôi Thanh Hư thiền viện bắt
đầu xuất hiện.
Viên Thắng được sư đệ đưa vào
tăng phòng của sư phụ ngày trước nghỉ ngơi. Sư vừa đó vừa mệt, nằm
lả người rên rỉ. Bỗng Viên Thông mang vào một khay nhỏ chỉ có vài củ
khoai mì gầy guộc, rồi lên tiếng :
- Mời sư huynh sơi sắn đỡ đói !
Tưởng không thể ngóc dậy nỗi,
không ngờ mấy củ khoai mì lại có giá trị như loại sâm thượng hạng,
khiến sư cảm thấy khỏa khoắn trở lại. Đúng lúc đó, sư đệ lại
mang vào chung trà nghi ngút khói.
- Sư huynh sơi chè nhé !
- Sư đệ cứ tự nhiên. Ta nào phải
là người lạ mà phải khách sáo ! Đệ ạ ! Trời sắp tối mà huynh cũng
nhọc mệt, có lẽ ngày mai mình mới ra thăm mộ sư phụ được !
- Vâng ạ !
- Nầy sư đệ ! bỗng dưng sư huynh
muốn nhìn lại những kỷ vật của thầy ! Ơ! viên ngọc chưởng môn cất
nơi nào vậy đệ !
- Sư phụ vẫn giữ trong hộp gỗ
dưới bộ Đại Bát Nhã đó huynh !
Chờ Viên Thông bước ra ngoài,
Viên Thắng bồn chồn mở hộp lấy ngọc. Viên ngọc biến mất, và bị
thay thế bằng hòn sỏi nhỏ đen đen. Liên tưởng đến lời ca khoe ngọc mà
đám trẻ ca hát, Viên Thắng tin chắc rằng sư đệ đã tráo ngọc, tuy vậy
sư chẳng chút bối rối. Sư sớm tiên liệu trường hợp nầy, nên đã chuẩn
bị kế hoạch vẹn toàn đối phó mọi bất trắc. Sư vốn bon chen chốn phồn
hoa đô hội, nắm vững uy lực của đồng tiền, nên đã mang sẵn một số
tiền khá to nhằm lung lạc sự đệ, mua chuộc ngọc. Ngoài ra, trong trường
hợp không sử dụng được phương thức mềm mỏng, sư cũng dự phòng
phong thơ gởi gấm của Chúa cho viên Tri Phủ địa phương. Do đó, nếu cần
đến biện pháp mạnh, nhờ thế lực của triều đình hỗ trợ, sư vẫn vận
dụng được. Điểm Viên Thắng hơn khó chịu là cảm giác bị sư đệ lường
gạt, "hắn" giả dạng khù khờ quá tài tình khiến sư lầm lạc
tin là kẻ thật thà chân thật. Sư vội đóng hôﰠlại, nhỏ nhẹ mà lạnh
lùng, cất tiếng :
- Nầy sư đệ ! dường như viên ngọc
nầy có điểm gì khác lạ phải không đệ ?
Viên Thông trở vào phòng, mở hộp
gỗ, chỉ cho Viên Thắng thấy viên kim cương sáng chói lóng lánh màu sắc,
lễ phép thưa :
- Em chẳng thấy điểm nào khác lạ
cả ! Vẫn viên ngọc ngày xưa mà huynh !
Viên Thắng sửng sờ nhìn viên ngọc
long lanh, gượng gạo đáp :
- Ờ ! Ờ !
Chờ cho sư đệ bước ra ngoài,
Viên Thắng mới dám cầm hộp gỗ xăm xoi viên ngọc lần nữa, và đúng như
sư lo sợ, viên ngọc lại biến đổi thành viên sỏi đen như trước…
Viên Thắng choáng váng chết lặng
người. Sư không muốn tin mắt mình, không tin viên ngọc ma ni kỳ quái lại
ảnh hiện tâm sư tối đen như vậy ? Bấy lâu nay sư luôn luôn được mọi
người tranh đua nhau cung thỉnh, tán tụng sư là bậc chân tu, đạo cao đức
trọng. Sư cũng yên chí mình đạo đức ngất trời, dẫu đi, đứng, nằm,
ngồi, hay phán dạy điều gì cũng không ra ngoại đạo, nên chẳng hề thấy
có nhu cầu tu sửa tâm gì nữa. Sư bối rối ngồi bệt xuống giường, hồi
tưởng lại những hành vi của mình trong mười mấy năm qua. Ngày mới về
chùa Trấn Quốc, sư luôn thực hành lời dạy của chư tổ là đề cao cảnh
giác không để tâm buông lung theo trần cảnh, một niệm tham sân si vừa khởi
là sư đã thấy rõ chân tướng nên không bị cuốn lôi theo vọng niệm thường
tình. Thấm nhuần gia phong thiền viện, sư sống khiêm cung đạm bạc, một
mảnh cơm vụn dính vào chén còn không dám phí phạm, huống chi hoang phí của
tín thí. Sự tận tụy chăm lo hoằng dương đạo pháp, đào tạo tăng tài,
đồng thời, cũng kiên trì tiến hành công cuộc đại trùng tu ngôi cổ tự.
Sư đã tha thiết tu tập đến thế, nhưng chẳng biết lý do gì, nếp sống
tu hành của sư lại rẽ sang hướng khác ? Sư phân vân tìm hiểu nhưng mù
mịt chẳng hiểu rõ nguồn cơn ? Làn gió nhẹ xua đuổi chùm mây trắng len
vào khe cửa, nhắc nhở sư áng mây tan loãng bởi nét chữ vô nghĩa của thầy
trong buổi chia tay ngày trước. Hốt nhiên, một tia sáng vụt lóe lên xóa
tan trọn vẹn mối hoài nghi trĩu nặng. Sư thầm thở than : "Ôi ! Thầy
dạy mình nghệ thuật buông bỏ như người viết chữ trên nước, trên
mây… mà ta, lại ôm ấp, dính mắc như kẻ khắc chữ vào đá (5). Mới bước
đầu thuận duyên, được chút danh vọng hư ảo thì ta bám chặt vào, để
rồi tự cao, tự mãn mà lơ là quán sát tâm tánh, nên tam độc tham, sân,
si… có điều kiện âm thầm bành trướng. Tham, sân, si dấy lên đó, lúc
đầu ta cũng thoáng tự phát hiện được, nhưng ta lại lấp liếm viện dẫn
chiêu bài "vì đạo pháp" bao che, hầu được an tâm "say men chiến
thắng", đến nỗi buông lung như người thế tục…
Càng suy tư, càng hổ thẹn, về những
hành vi lố bịch ngày trước. Sư bức rức bồn chồn, thao thức suốt đêm
không chợp mắt được. Gần sáng, vừa thiêu thiêu ngủ bỗng sư cảm giác
như có điều gì đang biến chuyển lạ lùng tại chánh điện, nên vội
choàng dậy rón rén mò ra tìm hiểu.
Sư đệ Viên Thông đang long trọng
lễ Phật. Thời công phu sáng diễn ra tại Thanh Hư thiền viện là thông lệ
bình thường, nhưng lần đầu tiên trên đời, Viên Thắng bỗng chứng kiến
được khóa lễ tụng sống động nhiệm mầu. Viên Thông chỉ chấp tay
cung kính rồi lễ xuống nhẹ nhàng vậy thôi, thế nhưng Viên Thắng lại
trực nhận được sự tươi mát, an lạc tỏa rộng ra từ động tác chân
thành tha thiết đó. Lạ lùng hơn nữa, là dường như cả thế giới cũng
chuyển mình đổi khác. Đồi núi cỏ cây trở nên lung linh sống động, tiếp
xúc cảm thông với hành giả trong từng nhịp thở. Và tượng Phật bỗng
sáng rực hào quang, mỉm cười từ ái đáp ứng lòng dạ trong sáng của người
hành lễ.
Đọc truyện một vị tổ xưa, thuyết
pháp cho đá nghe mà lòng dạ chân thành cũng khiến những viên đá cảm ứng
đối đáp vang rền, Viên Thắng không cho là thật, không ngờ ngày nay, sự
tương ưng "tình dữ vô tình" lại hiện hữu rõ ràng trước mắt.
Sư nín thở theo dõi từng tiếng
chuông, từng tiếng mõ, từng lời tụng niệm của sư đệ. Càng lúc sư càng
tiếp xúc sâu xa với trạng thái thần bí nhiệm mầu, đến nỗi nước mắt
sư ràn rụa.
Chờ cho sư đệ chấm dứt phần công
phu, Viên Thắng chấp tay vái sư đệ, rồi nói :
Xin cảm tạ sư đệ đã trao cho
huynh kinh nghiệm an lạc ngày hôm nay. Chẳng hay, đệ có bí quyết tu hành
đặc biệt nào mà đạt được những thần thông cái thế như vậy ?
Đệ chỉ biết sông với tâm bình
thường rỗng rang không dính mắc, lấy việc gánh nước, bửa củi làm thần
thông diệu dụng vậy thôi…
Trong trạng thái ray rức vì đã
buông lung đánh mất công án "nét vẽ tan loãng theo mây" của sư phụ,
kế đó lại bàng hoàng chứng kiến thời khóa tụng niệm nhiệm mầu,
Viên Thắng cực kỳ xúc động tìm hỏi sư đệ với tất cả nỗi khẩn
thiết trong lòng. Câu trả lời giản dị bất ngờ cũng xoáy quanh mấu chốt
buông bỏ và dính mắc khiến Viên Thắng sửng sờ. Đúng thời điểm đó,
Viên Thông lại ngâm nga :
- "Ở đời vui đạo, mặc tùy duyên
- Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền.
- Báu sẵn trong mình thôn chạy kiếm !
- Lặng lòng đối cảnh chẳng tham thiền…"
(6)
Sư Viên Thắng mỉm cười. Bao
ngày qua, sư giống như người cùng tử trong kinh Pháp Hoa, lăn lộn ganh đua
tranh dành báu vật bên ngoài, mà quên mất viên kim cương trong nhà. Khám
phá ra kho tàng của mình, sư tràn ngập niềm vui, cất tiếng ca hát mênh
mang :
- "Ta có thần châu một hạt
- Lâu nay bụi mờ che khuất
- Giờ đây sạch bụi sáng trưng
- Soi thấy nghìn trùng non nước."
Tháng 4 năm 1992
Ghi chú
1. Chùa Trấn Quốc khởi dựng từ
triều Lý Nam Đếm tại bãi An Hoa, giáp sông Hồng Hà, với tên Khai Quốc.
Chùa phải đổi danh hiệu là Trấn Quốc vào thời Hậu Lý. Năm 1615, đất
chùa bị lở sụp nên phải dời về địa điểm ngày nay. Vào triều Nguyễn,
Hà thành không còn là kinh đô, danh hiệu Trấn Quốc ngấm ngầm gợi đến
triều đại cũ, nên lại bị dèm siểm. Vua Thiệu Trị ra lệnh đổi tên
chùa là Trấn Bắc, bảng hiệu chánh thức sửa đổi, nhưng dân chúng vẫn
thích gọi tên chùa là Trấn Quốc như cũ. Chùa Trấn Quốc phong cảnh thanh
lịch, nên đôi khi bị các vị Vua Chúa sử dụng làm chốn ăn chơi tiêu
khiển; lầu chuông, nhà thủy tạ trở thành địa điểm đờn địch xướng
ca, và những vị tu sĩ đôi khi cũng phải chạy theo kẻ quyền thế bợ đỡ
để sống còn… Có lẽ đó là lý do mà Bà Huyện Thanh Quan, nhân khi viếng
cảnh chùa Trấn Quốc, đề thơ vịnh cảnh đã buông lời mỉa mai giới tu
sĩ.
Chùa Trấn Quốc
- Ngoài cửa hành cung cỏ dãi dầu
- Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau
- Một tòa sen tỏa mùi hương ngự
- Năm thức mây phong, nếp áo chầu.
- Lớp sóng phế hưng coi đã rộng
- Hồi chuông kim cổ, lắng càng mau.
- Người xưa cảnh cũ đâu đâu tá !
- Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu !
2. Tại Huế, cũng có một trường
hợp tương tự xảy ra cách nay vài mươi năm trước. Vị lão hòa thượng,
trụ trì chùa TT, là một tu sĩ giới hạnh nghiêm minh, khi lâm chung, lại dặn
dò đệ tử tìm đến nhà gia đình nông dân nghèo ngụ cách chùa không xa,
để xin mảnh quần đen của cô bé 15 tuổi về đấp mặt Ôn khi liệm, hầu
giúp Ôn siêu thoát !!!…. Tác giả tin tưởng rằng câu chuyện nầy chỉ
là một phương tiện mà tổ sử dụng nhằm răn dạy chư đệ tử xa lìa nữ
sắc mà thôi.
3. Câu ca dao tương tợ cũng xuất
hiện tại Huế, chỉ có khác tên chùa mà thôi :
- Gió đưa cành trúc la đà
- Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương
4. Kệ của ngài Úc sơn chủ tại
Đồ Lăng. Nguyên văn :
- Ngã hữu thần châu nhất lõa
- Cửu bị trần lao cơ tỏa
- Kim triêu trần lận quang sinh
- Chiếu kiến sơn hà vạn đóa.
Bài kệ đắc đạo của sơn chủ
phát xuất từ câu chuyện như sau :
Một hôm sơn chủ hỏi một thầy
tăng về lời dạy của tổ sư Dương Kỳ, vị tăng đó đáp :
- Tổ sư tôi thường hỏi môn đệ
: "Có một thầy tăng hỏi Pháp Đăng : Trăm thước đầu gậy làm sao bước
tới ? Pháp Đăng chỉ đáp : Á… "
(Trăm thước đầu gậy phát xuất
từ bài kệ của Tổ Trường Sơn Cảnh Sầm :
- Gậy đầu nghìn thước chẳng lung lay
- Dù đã lên đây chưa thật đây
- Chót gậy nghìn tầm còn bước nữa
- Mười phương thế giới thiệt thân nầy)
Người đã lên đến chót vót đầu
gậy làm sao bước tới nữa, đó là một nghi vấn ám ảnh Úc sơn chủ ngày
đêm.
Một hôm, sơn chủ cỡi lừa đi
ngang qua cầu, lừa kẹt chân vào một cái lỗ, hất sơn chủ té nhào. Sơn
chủ bất giác la lên "Á", rồi hốt nhiên ngộ đạo, nhân đó đã
làm bài kệ ghi trên.
5. Trong Tăng Chi Bộ Kinh, Đức Phật
dạy có ba hạng người :
- - Hạng người như chữ khắc trên đá
- - Hạng người như chữ viết trên đất
- - Hạng người như chữ viết trên nước
- (trích từ Nhặt Lá Bồ Đề, Hòa thượng Thanh Từ)
6. Kệ của Sơ Tổ Trúc Lâm (Vua Trần
Nhân Tông), nguyên văn chữ Hán :
- "Cư Trần Lạc Đạo thả tùy duyên.
- Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
- Gia trung hữu bảo hư tầm mích,
- Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền."
http://www.buddhismtoday.com/viet/truyen/024-tanloang.htm