- THẦN TÀI GÕ
CỬA
- Huỳnh Trung Chánh
Thời "choai choai" theo học trường Chu Văn
An, chú Năm vốn là tay du côn ngoại hạng, thường hay nổi máu anh
hùng bênh vực kẻ yếu thế cô đơn. Sự kiện đó đã dung rủi
chú Năm kết giao với hai thằng bạn tính tình khắc nhau như nước
với lửa. Chú che chở cho Hoàng, người bạn hiền lành chăm chỉ
hạt bột, khỏi bị bạn bè bắt nạt. Lần khác, chú can thiệp cho Thịnh
"ma lanh" thoát khỏi trận "bề hội đồng" của đám
bạn toan trừng trị trò lếu láo gian manh của hắn. Lớn lên mỗi
người mỗi ngả, nhưng liên hệ bạn bè không vì thế mà phai lạt.
Chú Năm vào quân đội. Hoàng chọn ngành hành chánh và tiến thân
rất nhanh trên quan trường. Chỉ trong vòng sáu năm cần mẫn, anh đã
được chọn làm Phụ tá đặc biệt cho vị Tổng Trưởng rồi. Thịnh
lỡ dở học hành, nhưng hắn vốn láu lĩnh nên chạy được ngay
giấy miễn dịch vì lý do sức khỏe, rồi ngất ngưỡng ở Sài Gòn,
cà phê thuốc lá lai rai tại góc đường Lê Thánh Tôn và Nguyễn
Phi để sống nghề "cuộc chê" xe và chạy "áp phe". Áp
phe linh tinh nhiều loại, có thể là chuyện tẩu tán một lô hàng ăn
cắp, trung gian hối lộ xin môn bài, chạy chọt một chân lính kiểng,
đấm mõm hội đồng y khoa hoãn dịch
, tựu trung loại nào cũng
có hơi hám bất hợp pháp và lường gạt, và do đó, nếp sống
của hắn trồi sụt bất thường, "áp phe vô" thì phong lưu
tiêu xài, còn "áp phe bể", đôi khi cũng đói rách tội tù.
Những lúc lâm nguy, dĩ nhiên Thịnh phải réo đến Hoàng cầu cứu,
khiến Hoàng sợ tai tiếng, kêu trời như bộng, mà kết cuộc vẫn
không nỡ bỏ rơi người bạn thuở hàn vi. Trong biến cố 1975, chỉ
có Hoàng là bị kẹt lại và chịu học tập dài dài, vì anh ta vốn
có tinh thần trách nhiệm, nên cho vợ con di tản, còn phần mình thì
cương quyết giữ nhiệm sở đến giờ phút cuối cùng. Thịnh sang Mỹ,
định cư tại miền Nam Cali, và sống chật vật với đồng lương tối
thiểu của một người thợ không chuyên môn. Chỉ quen đi "cà
nhỗng", tà tà thả rểu bắt áp phe, nay phải chôn chân chịu
đựng với đồng lương chết đói, Thịnh chịu đời sao thấu. Hắn
thoạt đặt hi vọng vào các sòng bạc Las Vegas, trong một sớm một
chiều có thể giúp hắn giàu nhanh mà không mệt nhọc. Sau những
chuyến thắng lợi, hắn bị cháy túi tan tành đến nôăi không còn
tiền trả góp chiếc xe. Một người bạn cờ bạc gốc Mễ bày vẽ cho
hắn dàn cảnh đụng xe, rồi nhờ luật sư kiện bảo hiểm làm tiền.
Từ đó, Thịnh khám phá ra nghề dắt mối các vụ tai nạn xe cộ cho
luật sư và bắt đầu làm ăn phát đạt. Mấy tháng sau, Thịnh lại
nghĩ đến giải pháp, tự mình mở văn phòng dịch vụ, mướn luật
sư đứng tên ăn chia, rồi đích thân móc nối bác sĩ, trực tiếp
thương lượng bảo hiểm, và như vậy thì hắn "đớp" gọn
hết một phần ba tiền thù lao, chưa kể phần móc nối ăn chia với
bác sĩ nội khoa, bác sĩ phòng dịch vụ còn bao thầu luôn các vụ xin
trợ cấp thuê nhà, lo hồ sơ bệnh tâm thần
cho đồng bào tị
nạn ăn tiền đầu, rồi thừa thắng xông lên, hắn mở cả văn
phòng bác sĩ, nha sĩ mướn người khai thác ăn chia. Văn phòng dịch
vụ thành công ngoài sức tưởng tượng. Chỉ trong vòng mấy năm.
Thịnh trở thành triệu phú, làm chủ nhân ông vài mươi văn phòng
đặt dài dài từ Los Angeles đến San Diego. Thương bạn, Thịnh cam kết
truyền hết bí mật nghề nghiệp cho chú Năm, để thúc đẩy chú bắt
chước làm giàu, mà chú Năm lại yêu cái nghề công nhân ba cọc
ba đồng, nên cứ khăng khăng từ chối. Dù vậy, Thịnh vẫn liên
lạc thường xuyên với chú, nài ép chú về Nam Cali chơi cho thỏa
tình hàn vi chí thiết, nhưng chú Năm bận rộn chẳng mấy khi đáp
ứng. Lần nầy, Thịnh vừa tìm ra tông tích của Hoàng, nên mới
"hú" thì chú Năm đã vội vã lên đường.
Vì "lý do kỷ thuật", chú Năm tìm đến nhà
Thịnh trễ hơn bốn mươi phút. Khi đó, buổi họp mặt dưới danh nghĩa
"thương nhớ quê hương" đã chuyển sang tiết mục chính yếu
"mượn rượu thịt để phôi pha đời tị nạn". Không khí vui
nhộn, "chén chú chén anh" vô cùng xôm tụ; tiếng tây tiếng
u, chữ nho "xổ" ra có chùm. Thịnh mừng rỡ đón bạn, ân
cần giới thiệu từng người hiện diện : vài khuôn mặt cũ cùng
với nhiều nhân vật lạ. Tuy nhiên, Hoàng, người bạn mà chú tha
thiết tìm kiếm lại vắng mặt.
- Hoàng chưa đến sao Thịnh ?
- Tao thuyết phục cách nào nó cũng từ chối ! Nó bị
vợ đá đít buồn đời chẳng muốn gặp ai !
- Mầy cho địa chỉ tao đi tìm nó liền mới được !
- Nó dấu biệt tông tích chẳng cho ai biết điện thoại,
địa chỉ gì ráo !
nhưng tao vô tình gặp nó đang hành nghề bán
xăng cho hãng Exxon cách đây 20 dậm, mầy đến đó, họa may gặp
được nó !
Thấy chú chộn rộn muốn đi ngay, Thịnh tiếp lời :
- Làm gì lính quýnh nhặng xị vậy ! đến 12 giờ khuya
thì mới tới "ca" thằng Hoàng làm việc. Vả lại, mầy phải
ở đây nhậu một trận sanh tử với anh em cho trọn tình trọn nghĩa,
rồi mới có quyền đi đâu thì đi
Dân làng nhậu đặc biệt hiếu khách, chỉ vài câu
chuyện tầm phào, là anh em đã thông cảm ngay người bạn mới tới,
ai cũng lớn tiếng đòi cụng ly với chú. Một anh chàng rót đầy
tràn ly rượu màu đỏ như máu, lè nhè :
- Hích !
Hích !
đến trễn thì bị phạt rượu !
Anh "vô một trăm phần trăm" mới điệu nghệ với anh em !
Chú Năm cầm ly rượu ngần ngừ, thì Thịnh bồi thêm :
- Uống đi mầy ! loại bổ dương thượng hảo hạng hiệu
nghiệm như thần đó ! rượu Martell cổ lùn pha với tiết dê, không
phải có tiền là mua được đâu !
Thời trai trẻ, chú cũng hẩu món tiết canh, nhưng từ
ngày đụng với mụ vợ nhà quê, kỵ các món thịt cầy, tiết
canh
, nên chú kiêng cữ dần, nay không còn thấy hạp khẩu nữa.
Do đó, nghe đến tiết dê, chú hơi nhợn, chú quanh co tránh né :
- Đặc biệt quá ha ! Mấy cha tìm đâu được huyết dê
mà pha rượu như vậy !
- Ha ! ha ! Tao và hai thằng nữa phải lái xe đến nông
trại cách đây 60 dậm thỉnh "ông thầy" về, cột chưng, nhét
giẻ khóa mồm, rồi treo lên cây cam sau nhà để chuyên viên sáu
Ngầu thọc huyết
Chuyên viên sáu Ngầu, mặt đỏ ngầu ngầu, đắc chí
tiếp lời :
- Hạ "ông thầy" theo đúng truyền thống thì
phải rượt đập ông thầy như tử, đợt cho chạy ít nhứt nửa
giờ, mồ hôi đổ ra, thì thịt mới không còn mùi dê. Qua đây, tôi
cải tiến cho "ông thầy" dộng một ly vodka, ông "đã
đời" lả mồ hôi cũng công hiệu như thường. Cắt tiết cũng
không phải dễ ! Tay mơ cắt nhằm động mạch thì huyết ít, lại đục
và tanh rình ! phải biết chọn đúng tĩnh mạch, thì tiết vừa nhiều,
vị thơm và bổ dưỡng nữa. Một phần tiết pha rượu, phần còn lại
đánh tiết canh, hai món nầy hợp lại là thứ thuốc cường dương
ngoại hạng đó !
Chú Năm đành phải hớp một ngụm rượu,
"hà" một cái ra vẻ hài lòng :
- Rượu nầy coi bộ "dẫn" ghê à !
- Đây là thịt dê bảy món ! thứ nào cũng ngon đặc
biệt hết, nhưng tiết canh dê độc đáo mới chính là món ruột của
sáu Ngầu ! chưa nếm qua chết không nhắm mắt đó nhe !
- Xin giới thiệu với anh, sáu Ngầu là tổ sư tiết
canh tại vùng Nam Cali, anh lừng danh nhờ đánh tiết khéo, ngon đặc
biệt, mà tài nhứt là bất cứ lúc nào bạn bè đến chơi cũng
biến hóa ra ngay dĩa tiết canh vịt thơm phức để đãi đằng !
- Thế thì lúc nào anh ấy cũng nuôi cả bầy vịt ở
nhà à !
- Anh ta chỉ nuôi năm, sáu con vịt nhưng lại phát minh ra
kỷ thuật lấy tiết thần sầu quỷ khốc, không ai ước lường nỗi !
Khi cần anh dũng ống tiêm rút mỗi con một ống đủ để đánh tiết,
trộn với lòng gà, thành món nhậu hấp dẫn ngon lành ! Còn mấy con
vịt bị rút máu hả ? mất một ống máu thì nhằm nhò gì ! chúng chỉ
siểng niểng một chút, cho ăn uống bình thường thì mấy ngày sau có
thể tái diễn món tiết canh nữa được rồi !
Thuở nhỏ, chú Năm nghe thân nhân kể chuyện, vài nơi
ngoài Bắc, nông dân làm tiết canh bò bằng cách cho đĩa trâu bám
vào cổ bò hút máu no nê, đoạn rạch xẻ đĩa vắt máu làm tiết
canh. Chuyện đó nghe đã rùng rợn rồi, nhưng xem ra vẫn chưa mang
được tính chất ma quái "dracula" như phương pháp rút máu
tân kỳ của sáu Ngầu.
Chú Năm lợm giọng buồn nôn, chú nhờm gớm các
món ăn thực hiện bởi bàn tay tàn nhẫn lạnh lùng của sáu Ngầu,
chú bực bội khó chịu với mọi người : thực khác nào chẳng
đồng lõa với trò ăn uống ác độc đó ! Chẳng muốn nhìn mặt ai,
chú lơ đảng rồi bàn tiệc đi rửa mặt, vô tình chú thấy tượng
Phật Di Lặc(1) được gia chủ thờ trong cái trang thần tài
đặt trệt dưới thảm hại phòng khách. Tượng tạc chân dung vị hòa
thượng mập mạp, mặc áo phơi ngực, bày bụng to, chung quanh có sáu
đứa bé quấy nhiễu
, mà vẫn hoan hỉ mỉm cười. Nụ cười Di
Lặc có công năng xoa dịu tức khắc phiền não vô cớ của chú.
Chú than thầm : "Bồ tát thỏng tay vào chợ độ đời mở toang
sáu căn : tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý, tiếp xúc với trần cảnh
mà vẫn ung dung tự tại, trong khi mình mới nghe chuyện trái ý một
chút thì sân si đã rậm rật rồi ! Mỗi người mỗi ý, ai có sở
thích nấy, có lề lối hưởng thụ khác nhau, sao mình khắc khe thắc
mắc chuyện người ! Huống chi, anh sáu Ngầu tuy có lối phục vụ
miếng ăn cầu kỳ một chút, nhưng anh là kẻ cần cù, tận tụy dùng
trăm phương ngàn cách, cốt tạo ra món ngon dâng hiến bè bạn. Công
lao cực khổ, lòng hi sinh của anh, lẻ ra mình phải thấy để tùy hỷ
công đức tán thán, chớ đâu thể vô ơn bất mãn như vầy được
!". Chú vui vẻ hội nhập với anh em, rồi cất tiếng :
- Cảm tạ anh sáu Ngầu ! món ăn nào của anh đều
độc đáo và ngon đặc biệt cả !
Xây qua Thịnh, chú ra vẻ trêu ghẹo :
- Bộ hết chuyện chơi ! sao mầy đem thờ Bồ Tát Di Lặc
ở dưới đất vậy Thịnh!
- Đó là tượng Thần Tài ! mầy không biết sao hỏi
lếu láo vậy ?
- Ai chỉ dẫn mầy thể thức thờ phượng đúng sai tao
không lạm bàn ! nhưng theo tao hiểu thì đó là tượng Bồ Tát Di Lặc
chớ không phải là Thần Tài !
Tao là kẻ làm ăn, dĩ nhiên thờ Thần Tài, chớ mắc
mớ gì tao đi thờ Di Lặc ! chuyện thờ phượng mà mầy đùa dai chi
lạ thế ?
Người Trung Hoa tạc tượng Di Lặc và Thần Tài giống
nhau về hình dáng mập mạp, miệng cười tươi, áo phơi ngực, lộ
bày bụng to tròn
, nên rất dễ làm lẫn, nhưng thật ra, họ cũng
tạo ra những điểm sai biệt rõ rệt, diễn tả ý nghĩa thâm trầm
khác nhau. Tượng Di Lặc ngồi ngay thẳng, có đám con nít hoặc năm,
sáu, mười tám đứa leo trèo, chọc phá. Tượng đứng thì có mang
túi vải, có hoặc không có trẻ nít. Dù đứng hay ngồi, tượng Di
Lặc với nụ cười từ bi hỉ xả, thể hiện tinh thần nhập thế độ
đời mà không nhiễm bụi trần. Tượng Thần Tài không có con nít
và túi vải. Tượng ngồi tại hơi nghiêng một bên hoặc hơi ngửa ra
sau vững chải thoải mái; tượng đứng vươn vai hai tay ngửa lên
trời khỏe khoắn đã đời; nét chính nổi bật của tượng thần
tài là tính chất may mắn, thành công và thỏa mãn hưởng thụ.
Tượng Thần Tài rất hấp dẫn ở Hoa Kỳ, người ta gọi là Lucky
Buddha
Một anh đang ngồm ngoàm món dê hầm thuốc Bắc, hào
hứng góp ý :
- Đúng rồi ! tôi đọc tuần báo News, thấy họ quảng
cáo rùm beng tượng "Lucky Buddha", họ tuyên bố là mỗi ngày
chỉ cần xoa bụng tượng van vái thì cầu xin gì được nấy, không
công hiệu hoàn tiền lại trăm phần trăm. Quảng cáo còn đăng tên
tuổi địa chỉ cả trăm nhân chứng xác nhận đã hốt bạc nhờ xoa
bụng tượng. Thằng Mỹ trưởng phân xưởng tôi, đạo công giáo
gộc, mà cũng tin như điên. Hắn rinh về hai ông, thường khoe từ
ngày có tượng, công danh lên như diều
Một người khác, có lẽ thuộc hàng đệ tử gia chủ,
cũng lên tiếng :
Đại ca ạ ! Con nít là thứ phá hoại, hao tài tốn
của chớ đâu phát tài được ! anh bạn nầy bàn nghe có lý phải
không đại ca !
Thế thì bỏ mẹ tao rồi ! tao chê tượng thần tài cũ
nhỏ, mới thỉnh tượng mới nầy ! Lầm lộn như vầy chẳng biết có
"xúi quẩy" không ? Nè ! theo mầy thì thờ tượng Di Lặc có
hên không ?
Tao chỉ biết đặc trưng tượng Di Lặc là đức hỷ xả
vô lượng, thờ Ngài để học hạnh buông bỏ hận thù, buông bỏ
thành kiến cố chấp, buông bỏ lòng tham đắm tiền tài, danh
vọng
tao nghĩ thờ Di Lặc để học được hạnh buông bỏ là may
mắn đặc biệt đó, nhưng thật ra, hên xui là tùy theo quan niệm riêng
của mỗi người, tao chẳng dám có ý kiến a !
Trời đất ơi ! làm ăn ai chẳng mong phát đạt, tiền
bạc thâu vô càng nhiều càng tốt ! buông bỏ gì nỗi mà buông !
Thịnh cất tiếng thở dài thậm thược, rồi tiếp tục rên rỉ :
Ôi ! thảo nào từ ngày rước tượng về, công việc
làm ăn của tao đình trệ hẳn ra, còn chuyện hao tài tốn của thì ào
ào đưa tới ! Mầy nghĩ coi, bạn bè thân quyến, ngay cả thứ bà con
xa lắc "bắn cà nông không tới", ai cũng than thở, kêu réo
xin tiền, riết rồi tao chịu đời hết thấu !
Câu chuyện khởi đầu như trò đùa, không ngờ lại
khiến gia chủ rầu rĩ, sợ sệt thất thần, và do đó, thực khác
cũng chịu vạ lây, ăn nhậu ngại ngùng, ngưng trệ. Chú Năm đành an
ủi bạn :
- Hơi sức đâu mầy lo lắng thái quá vậy Thịnh ! Thờ
lộn thì thờ lại ! Mai mầy ra phố Tàu, để chắc ăn mầy mua ngay hai
tượng Thần Tài, một đứng một ngồi, thờ lủ khủ gỡ gạc lúc
thờ lộn cũng được mà !
Ngưng một lúc, chú Năm thân mật và chân tình tiếp
lời :
Nói cà rởn với mầy vậy thôi ! chớ thật ra, tao
nghĩ cái gì cũng không qua thuyết "nghiệp báo", họa phước do
mình tạo, đã gieo hạt giống nào thì phải lãnh quả nấy, chớ không
phải do tượng linh hay không linh đâu !
Một anh chàng trẻ tuổi, phách lối thô lỗ chận ngang :
Đ
mẹ ! ở xứ Mỹ nầy, khôn sống dại chết,
mạnh được yếu thua
, giàu sang do bàn tay và đầu óc của mình
chớ chẳng do nghiệp báo, Trời Phật gì ráo ! Tui chỉ tin tui, chớ
đếch có tin Trời Phật gì hết ! Trời Phật có ngon, báo cho thằng
nầy biết sáu số lô tô, cho thằng nầy trúng ngay mười triệu thì
họa may thằng nầy mới tin nỗi ! hà ! hà !
.
Lời nói ngang bướng của tay nhậu nầy, nếu vài năm
trước chú Năm nghe có lẽ chú khó chịu, giờ đây nhờ suy gẫm
tinh thần Di Lặc, chú bình thản mỉm cười thông cảm. Chú nghĩ mỗi
người hình dung Phật mỗi khác. Anh ta đồng hóa Phật như loại thần
hạ cấp, sẵn sàng ăn hối lộ ban phước họa, và có lẽ, anh đã
dụ dỗ "Phật !", hứa hối lộ nồng hậu để được báo
mộng lô tô hoài mà chẳng thấy nên mới nổi nóng như vậy. Dĩ
nhiên "Phật !" theo kiểu của anh ta, không dính líu gì với
Đức Phật, vị đạo sư mà chú Năm nguyện nương tựa học tập hạnh
nguyện của người để tìm đạo giải thoát. Chú Năm yên lặng,
nhưng Thịnh lại lên tiếng gây :
- Xì tốp dùm tao đi Quan ! Đừng phát ngôn bừa bải
tại nhà tao ! Xui xẻo cả lũ thì sao ?
Thịnh chỉ sợ xui thôi, chớ trong thâm tâm chắc hắn
cũng tán đồng với tên Quan nầy. Hắn rất khoái châm ngôn mạnh
được yếu thua và rất tự hào về tài ba xảo thuật giúp hắn
thành công tại xứ người, hắn chỉ nghĩ đến Trời Phật chẳng qua
là để lợi dụng : chỉ bỏ chút đỉnh công thờ cúng mà được
lợi to, vậy thôi.
Bất ngờ, sáu Ngầu, con người vốn lầm lì ít nói,
bỗng tò mò hỏi :
- Hồi nảy, anh nói thờ tượng Di Lặc để học buông
bỏ, nhưng buông bỏ cái gì nỗi với đám con nít leo trèo phá phách
vậy anh ?
- Thưa, sáu đứa con nít là tượng trưng cho sáu căn :
tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý. Khi tiếp xúc với đời, sáu căn
lăn xăn quay cuồng, khiến cho thương yêu, ganh ghét, vui buồn, hờn
giận phát sanh. Bồ Tát cũng tiếp xúc với đời, cũng thả lỏng
sáu căn tức sáu đứa con nít ra, nhưng không bị sáu căn quay cuồng
làm loạn động, vì biết buông bỏ không đắm nhiễm, do đó, nụ
cười lúc nào những tỏa ra niềm an lạc, từ bi và hỷ xả
Thờ tượng Di Lặc nhằm học hạnh buông bỏ thù hận, thương yêu
ganh ghét
, để biết sống an lạc trong hiện tại.
- Nầy anh Thịnh ! anh không thờ tượng Di Lặc, thì cho
tôi xin vậy !
Tên đồ tể khát máu mà đòi thờ Phật ! Chú Năm
thoáng nghe hơi lùng bùng lỗ tai, vì không hiểu mình đang mơ hay tỉnh.
Quan cười sặc sụa, hổn hào ré vang :
- Ối trời đất ơi ! tận thế đến nơi rồi ! sáu
Ngầu đòi tu bà con cô bác ơi !
Không đếm xỉa gì đến lời trêu ghẹo của Quan, sáu
Ngầu nghiêm trang hướng về chú Năm cất tiếng :
- Tôi có mối hận thù hơn hai mười lăm năm nay vẫn
đeo đẳng tôi, khiến con người tôi luôn luôn bị ray rức dằn vật,
khổ sở triền miên. Tôi hy vọng tượng Di Lặc sẽ nhắc nhở tôi
buông bỏ để an vui với nếp sống bình thường
Trầm ngâm thả hồn quay về dĩ vãng, sáu Ngầu chậm
rãi kể lể :
- Đêm hôm đó, anh ruột tôi, một nhà giáo hiền
lành tại Cầu Voi, Tân An bỗng bị bọn sát nhân tràn vào nhà, lên
án tử hình, rồi cắt cổ anh tôi như cắt cổ con vật. Cảnh tượng
rùng rợn đó xảy ra lâu lắm, mà tôi vẫn cảm tưởng như mới
ngày hôm qua. Tôi đã thề nguyện sẽ trả thù, đích thân cắt cổ
bọn chúng từng tên. Tôi rất quyết tâm, nhưng chuyện tầm thù lần
lần trở thành vô vọng, nhứt là sau khi tôi đã lưu lạc đến xứ
nầy. Tuy nhiên, niềm khao khát trả thù vẫn sôi sục, rồi có cái gì
thúc đẩy tôi đổ dồn căm hờn lên đầu những con vật. Khi cắt
tiết dê tôi thích thú như chính mình đang cắt cổ những tên khát
máu ngày xưa, khi rút máu vịt tôi khoan khoái cảm tưởng như đang
hành hạ bè đảng tham ô rút tỉa máu dân lành. Thế nhưng sau giây
phút sung sướng ngắn ngủi đó, tôi luôn luôn trở về với sự
thực, để rồi bao ăn năn, xao xuyến ray rức ngày đêm. Tôi phải
học tập buông bỏ thì họa may mới thoát khỏi ám ảnh ma quái
nầy
Chú Năm rất muốn nhắc lạc câu chuyện của Vô Não
cùng với thiền ngữ "quăng dao đồ tể, ngay đó thành Phật"
để nung chí sáu Ngầu, nhưng ngần ngại rồi chỉ dè dặt
an ủi :
- Tôi thật không ngờ anh Sáu có tâm sự buồn thảm
như vậy ! Đúng đó anh Sáu, chuyện hiện tại vui buồn mình đã nên
buông bỏ rồi, huống chi chuyện xa xưa. Mình ôm ấp thì chỉ mình bị
khổ sở thiệt thòi mà thôi.
Dường như sáu Ngầu còn muốn bày tỏ thêm điều chi
nữa, nhưng chủ nhà đã cười vui, tiệc rượu khởi sắc trở lại,
tiếng hò hét cụng ly rộn ràng, khiến sáu Ngầu im bặt.
Chú Năm từ giả ra đi vào nửa khuya, thoải mái như
vừa thoát khỏi một con trốt mù mịt. Chú hứa cuội với Thịnh sẽ
trở lại nhà bạn ngủ nghỉ, nhưng lặng lẽ đi thăm Hoàng rồi trốn
tuốt về Arizona mất dạng.
Sợ bị Thịnh chưởi, chú êm ru chẳng dám liên lạc
thăm viếng gì cả. Chắc Thịnh cũng phiền chú, nên mãi đến hơn năm
tháng sau mới điện thoại qua :
- Ê ! Năm !, tiếng Thịnh reo dòn tan vui vẻ.
- Tao nghe đây !
- Mầy qua Cali chơi mà được việc cho tao quá !
- Khỉ ! "phá mồi ăn hại thì có !
- Thiệt mà ! nhờ mầy chỉ vẽ cho tao thờ đúng
tượng Thần Tài nên Thần Tài gõ cửa tao lu bù ! Ha ! ha ! tao thỉnh
luôn ba ông, một ông ở văn phòng, hai ông ở nhà. Tại nhà, thì
thắp nhang mỗi ngày, ở văn phòng thì xoa bụng van vái như bọn Mỹ,
có lẽ, nhờ vậy nên hên không tưởng tượng nỗi ! áp phe vô ào
ạt
- Tiền tài vô ngọt như vậy là quá đẹp rồi ! thôi
thì mầy cũng nên bỏ bớt một mớ đem cầu phước, cầu đức đi
mầy !
- Giỡn hoài mầy ! tao chỉ cần tiền ! cầu tiền vô
thôi ! có tiền thì mua tiên cũng được ! còn phước đức thì mua
được thứ gì vậy mậy ?
- Ơ ! thì đề nghị chơi vậy mà !
- Ê Năm ! tao vừa tìm ra một nghề mới cho mầy nè !
khỏe mà tiền vô đều đều hà !
- Nghề gì vậy cha ?
- Nghề "giặt tiền" (3) ! Mấy văn phòng
dịch vụ của bọn tao cần phi tan những tấm chi phiếu của tụi bảo
hiểm trả tiền để khỏi phải khai thuế. Tụi tao cần người tin cậy,
giao chi phiếu đến ngân hàng lãnh tiền mặt ăn hoa hồng. Nghề nhàn
nhã, mỗi ngày tà tà xách samsonite đi chừng hai tiếng, thế mà mỗi
tháng thu vô năm sáu ngàn "đô" như chơi ! chịu không ?
- Nguy hiểm thấy mồ !
- Hừ ! đàn bà người ta cũng làm ào ào mà có sao
đâu ? thân mầy như trâu ai dám phục kích giựt tiền mà sợ !
- Hì ! hì ! sợ là sợ con mụ vợ của tao ! Nó thấy
tao diện kẻng xách samsonite đi mỗi ngày, nỗi cơn ghen phục kích đánh
ghen mới nguy hiểm khôn lường chớ ! thôi mầy biết tính tao mà ! tao
cám ơn mầy thương tao, muốn giúp tao, nhưng tao an phận nghèo với
nghề công nhân mạt hạng mà ! A ! còn sáu Ngầu độ rày ra sao ?,
chú Năm hỏi lảng sang chuyện khác.
- Thật là chuyện kỳ lạ bốn phương, khó tin mà có
thật ! Lưu linh mà nó cai rượu, cai thuốc mầy ơi !
Thịnh kết thúc cuộc điện đàm bằng tràng cười sung
mãn yêu đời.
Cuộc điện đàm tưởng vẫn còn văng vẳng bên tai,
thế mà, chỉ hai tuần sau, chú Năm lại nhận được tin buồn của
bạn. Thịnh bị giết bí mật và thảm khốc. Kẻ gian đã đập đầu anh
ta như một con vật, cột chung trong bao với viên đá to tướng, quăng
xuống biển phi tang, nhưng bằng sức mạnh nào, xác chết của Thịnh
vẫn vọt lên mặt nước, để phô bày ra ánh sáng vụ sát nhân.
Chú Năm tức tốc về Cali để kịp thời dự tang ma bạn. Chú nghẹn
ngào trước cổ áo quan, muốn cất tiếng vỗ về, an ủi mà ấp úng
chẳng nên lời. Một vị đại đức đang đơn độc tụng kinh cầu
siêu, trong khi vợ con khóc lóc kêu gào kể lể từng cơn, và đám
bạn bè tụm năm tụm ba xầm xì bàn tán hàng trăm giả thuyết về
nguyên nhân án mạng. Chú Năm nghĩ giờ nầy có lẽ hồn bạn lẩn
khuất đâu đây, đang nghẹn ngào tức tưởi, căm căm thù hận,
rối ren thương tiếc miên man
, mà thời tụng niệm lại đơn sơ,
lạc lõng thì làm sao có đủ tha lực trợ giúp cho thần thức siêu
thoát được. Chàng chỉ mong Thịnh nhớ lại hình ảnh tượng trưng
của tượng Di Lặc, để buông bỏ tất cả và nhẹ nhàng ra đi, nhưng
âm dương hai ngả làm sao giải bày. Chú thì thầm : "Buông bỏ !
Thịnh ơi ! tất cả đều giả tạm đừng luyến tiếc Thịnh ơi !
".
Thời tụng niệm vừa chấm dứt thì sáu Ngầu len lại
đứng gần chàng nói nhỏ:
- Cảm tạ anh tạo duyên cho tôi thờ tượng Di Lặc.
Tôi đã buông bỏ được hận thù, bỏ được tật nhậu nhẹt và
sống bình thường rồi anh. Niềm vui của tôi bây giờ, là làm việc
có tiền gởi quà cho đám cháu ở nước nhà, ngoài ra, tôi cũng
bắt đầu học hỏi Phật pháp, để tập giữ lòng bình an, thư thái
nhẹ nhàng. Thật tội cho anh Thịnh không biết có phải vì việc cho tôi
tượng Di Lặc mà ảnh gặp chuyện chẳng may không ?
- Không đâu ! anh ấy điện thoại cho tôi khoe là nhờ
thay đổi tượng Thần Tài mà anh ấy hên vô cùng, còn vụ nầy thì
kể ra
- Thần Tài cũng lại gõ cửa nữa !
Cũng tên Quan lấc cấc quen tật phát ngôn bừa bãi,
ồn ào chen vào. Hắn thô lỗ chẳng giữ gìn ý tứ, cứ ong óng như
chỗ không người, mặc cho thiên hạ bực bội, phớt lơ tiếp tục
câu phê phán "xanh dờn" :
- Thần Tài linh ứng quá cỡ đa ! ảnh mới đóng bảo
hiểm nhân mạng cách nay một tuần lễ, thì Thần Tài đã gõ cửa
cái rụp
, tiền bạc lại vô cái ào !
Rồi nhỏ giọng như than thở một mình, hắn nói tiếp :
- Có điều tiền vô bằng cách nầy thì cũng hơi trớ
trêu một chút !
Tháng 8.1993
Ghi chú :
1. Bồ Tát Di Lặc, người Nam Ấn, thuộc gia đình Bà La
Môn, sau theo Phật xuất gia tu hành, và từ trần trước khi Phật nhập
Niết bàn. Phật cho biết Bồ Tát Di Lặc thọ sanh về cung trời Đâu
Suất trụ bốn ngàn muôn năm, sau đó hạ sanh về thế giới ta bà, tu
tại vườn Hoa Lâm, dưới cội cây Long Hoa, thành Phật hiệu là Di
Lặc. Đức Phật Di Lặc sẽ thuyết pháp ba kỳ nơi cội cây Long Hoa,
độ vô số chúng sanh. Tính theo quyển Phật tổ thống ký, thời gian
từ lúc Đức Phật Thích Ca nhập diệt cho đến khi Đức Di Lặc hạ
sanh tính ra là tám triệu mười vạn tám ngàn năm (8.108.000) năm. Chư
Đại Bồ Tát thường phân thân khắp mười phương thế giới để
thuyết pháp độ sanh, nhưng Bồ Tát hóa thân chân chính xuất hiện
âm thầm hoằng dương chánh pháp, chỉ để lại bài kệ tiết lộ tông
tích mình khi sắp tịch diệt. Đó là trường hợp của Bồ Tát Di
Lặc, mà theo sử liệu Trung Hoa tin tưởng, thì Ngài đã hóa thân
tại Song Lâm, với tên là Phó Đại Sĩ, và tại Nhạc Lâm, nước
Lương, với pháp hiệu là Bố Đại hòa thượng. Tượng Di Lặc, có
đám trẻ con quấy nhiễu đã tạc dựa trên sự tích của Bố Đại
hòa thượng. Ngài ăn mặc xốc xếch, mang bị lớn, ai cho chi cũng dồn
vào bị, rồi đem phân phát cho trẻ con. Ngài vui tươi chơi đùa với
trẻ nên chúng rất thích, thường bu quanh Ngài phá khuấy.
Hạnh nguyện hỷ xả của Ngài thể hiện qua những mẫu
đối thoại sau đây :
Một hôm hòa thượng Bạch Lộc hỏi : "Thế nào
gọi là : cái túi vải ?". Ngài nghe hỏi liền bỏ túi xuống
đứng khoanh tay. Bạch Lộc hỏi thêm : "Công việc của túi vải ra
làm sao ?". Ngài liền mang túi vải mà đi, không nói một lời
nào cả.
Lại một lần khác, hòa thượng Bảo Phước thỉnh ý
Ngài : "Đại ý Phật Pháp như thế nào ?".
Ngài buông bị lớn rơi xuống đất, đứng thẳng khoanh
tay.
Bảo Phước hỏi tiếp : "Chỉ như vậy hay có gì
hướng thiện không ?".
Ngài mang bị vải lên vai mà đi
Một vị khác, Trần cư sĩ hỏi Ngài :
- Bạch hòa thượng ! Ngài có pháp hiệu hay không ?
Ngài đọc bài kệ trả lời :
- Ta có cái tủi vải,
- Rỗng rang không quái ngại,
- Mở ra khắp mười phương,
- Thâu vào Quán tự tại.
Trần cư sĩ lại hỏi :
- Hòa thượng vân du có mang theo hành lý chi không ?
Hòa thượng lại đọc kệ :
- Bình bát cơm ngàn nhà
- Thân chơi muôn dậm xa,
- Mắt xanh xem người thế,
- Mây trắng hỏi đường qua.
Trần cư sĩ thỉnh Ngài ở nhà một đêm để cúng
dường. Sáng lại Ngài ra đi, lưu lại bài kệ dán nơi cánh cửa :
- Ta có một thân Phật,
- Có ai đặng tường tất,
- Chẳng vẽ cũng chẳng tô.
- Không chạm cũng không khắc,
- Chẳng có chút đất bùn.
- Không phải màu thể sắc;
- Thợ vẽ, vẽ không xong,
- Kẻ trộm, trộm chẳng mất,
- Thể tướng vốn tự nhiên,
- Thanh tịnh trong vằng vặc;
- Tuy là có một thân,
- Phân đến ngàn trăm ức.
- Khi sắp tịch Ngài để lại bài kệ :
- Di Lặc thật Di Lặc,
- Phân thân trăm ngàn ức;
- Luôn luôn chỉ người đời,
- Người đời tự chẳng biết.
Kể từ đó, người Trung Hoa tạc tượng Bồ Tát Di
Lặc dựa theo hình dáng Bố Đại hòa thượng, chung quanh có năm, sáu
hoặc mười tám đứa trẻ bu quanh chọc phá. Sáu đứa nhỏ tức
lục tặc (sáu tên giặc) tượng trưng cho sáu căn : mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý. Vì sáu căn tiếp xúc với ngoại cảnh, đắm nhiễm
vọng động mà muôn điều tội lỗi phát sanh, nên đối với kẻ tu
hành sáu căn cũng là sáu giặc. Bố Tát cũng mở rộng sáu căn
tiếp xúc ngoại cảnh, nhưng không đắm nhiễm nên được an nhiên
tự tại. Còn 18 đứa con nít là tượng trưng cho 6 căn + 6 trần + 6
thức; tượng năm đứa con nít, có lẽ chủ trương chỉ tạo hình ảnh
tượng trưng của năm căn thô, còn ý căn không lộ ra ngoài nên
đứa nhỏ thứ sáu cũng ẩn dạng.
(trích dẫn dựa theo Thâm ý qua hình tượng Phật, Bồ
Tát của hòa thượng Thanh Từ và Sự tích Đức Di Lặc Bồ Tát
trong Từ bi Âm).
2. Phóng hạ đồ đao lập địa thành Phật, sự tích
của đồ tể Quảng Ngạch, quăng dao mổ heo, liền tại đó ngộ đạo.
3. Giặt tiền (money luandering) : Giặt tiền là loại dịch
vụ nhằm xóa sạch dấu vết tiền bạc thu được. Có hai dịch vụ
giặt tiền hoàn toàn khác nhau :
- tiền mặt trong các vụ buôn bán bất hợp pháp như
xì ke, ma túy
chuyển vào ngân hàng trực tiếp hay gián tiếp qua
các loại tiệm thực dụng, cây xăng, food to go
, để biến thành
tiền hợp pháp an toàn trong các chương mục ngân hàng.
- tiền chi phiếu của các văn phòng dịch vụ nhận
được (thường từ các hãng bảo hiểm), phối trí cho cá nhân lãnh
thành tiền mặt, để mất dấu khỏi lập hồ sơ khai thuế. Loại nầy
chính là loại được đề cập trong truyện ngắn này.