- Một vị Phật khai sinh
- Huỳnh Trung Chánh
Lê lết từng bước, gánh đôi
nước thứ mười trong ngày về đến chuồng heo bên hông nhà, thì sức lực
bé Liên cũng đã rã rời. Em thở hổn hết lấy sức, khỏa nước rửa mặt,
đoạn vốc một bụm đưa lên miệng uống ừng ực. Ngụm nước giếng mát
lạnh len vào tạng phủ, như một chất thuốc bổ kỳ diệu, phục hồi cho
em phần nào sinh lực. Em đã gánh nước giếng liên tục để làm tròn
công việc tắm rửa heo và quét dọn chuồng sạch sẽ mà mẹ đã giao phó.
Đoạn đường lấy nước giếng không xa, nhưng bé mới 12 tuổi, thể chất
gầy gò, chân tay ngắn ngủn yếu ớt, mà phải chịu đựng chiếc đòn
gánh dài thòng, đong đưa cặp thùng nước nặng trĩu, trên lối đi trơn trợt
quả là một cực hình. Gánh nước về, bé lại phải kỳ cọ tắm rửa cả
bầy heo sáu con mập ú, rồi lại phải quét dọn chuồng sạch sẽ, gom hốt
mớ cặn bã hôi thúi mang đổ ra cái hố sau nhà. Sau mấy giờ chật vật,
bé mới có thể nhàn nhã đứng tựa vào cột chuồng heo ngắm nhìn công
trình của mình, vừa thò tay vào túi lấy củ khai luộc, bóc vỏ nhai ngon
lành.
Thình lình, có tiếng la the thé:
- Con quỉ làm biếng! dọn chuồng
không lo, đứng đực ra đó làm gì?
Liên nuốt vội mẩu khoai cuối
cùng, chùi mép, rồi lên tiếng:
- Thưa má! con đã làm xong rồi!
Bà mẹ liếc nhanh về hướng chuồng
heo kiểm soát, rồi mới xoay qua con, gầm gừ:
- Mầy nhai giống gì đó? ăn cắp
ở đâu vậy?
- Dạ!dạ! con đâu dám ăn cắp. Củ
khoai nầy chị Hồng cho con! tự ý chỉ chớ con không có xin xỏ gì hết,
má ạ!
Bốp! Bốp!
Liên bị mẹ tán cho hai tát tay, đập
đầu vào cột xi măng xiểng niểng, mà chỉ rưng nước mắt, chớ không
dám nức nở thành tiếng. Kinh nghiệm dạy bé Liên rằng khóc to thì mẹ sẽ
biết, đòn bộng gia tăng gấp bội. Em chỉ thút thít van lơn:
- Con xin lỗi má! con không dám như
vậy nữa!
Bà mẹ gằng từng tiếng:
- Nè! tao đã dặn: "ở nhà có
thì ăn, không có thì nhịn! cấm tuyệt không được ăn chực, ăn xin",
mà tại sao mầy lại đi xin ăn làm xấu hổ tao vậy hả?
Liên chỉ biết co rút người lại,
tiếp tục điệp khúc van lơn:
- Con lạy má! con lỡ dại! con xin lỗi
má!...
Bà mẹ chụp lấy cái đòn gánh, tưởng
chừng sẽ phang con bé vài hèo nữa, nhưng có lẽ hài lòng với cái chuồng
heo sạch sẽ, nên hồi tâm, chỉ nhịp đòn gánh lên đầu con mấy cái, rồi
lên tiếng:
- Bỏ tật đó nghe không? Chuyện mầy
ăn chực mà đến tai tao lần nữa, thì tao đập nát thây đó nhe!...
Đang hùng hổ la con, bỗng dưng nhớ
đến chuyện gì, bà dịu nét mặt, lên tiếng:
- Nè! mầy chạy lại nhà bà Huế,
hỏi cái ni cô Công Tằng xem bả mời tao dự lễ Phật đản ngày nào? tao
quên mất rồi!
Không ngờ cái vụ Phật đản lại
cứu mạng mình, bé Liên mừng rỡ "ba giò bốn cẳng" chạy một mạch
đến nhà bà Huế. Nhìn cánh cửa khép im lìm, lại nghe tiếng thì thầm là
lạ trong nhà, ngó quanh bốn bề vắng vẻ, Liên bỗng cảm thấy ớn lạnh,
nên đứng khưng lại. Bà Huế mới chết chừng ba tháng nay, tiếng thì thầm
là tiếng người hay ma, Liên muốn lên tiếng kêu cửa mà sợ hãi hai hàm răng
cắn chặt, không mở thành lời được.
Bà Hai Huế tên thật là gì không mấy
ai biết rõ! Bà lưu lạc đến Khánh Hậu lâu đời, khi cô con gái nhỏ xíu
mà lại có tên dài sọc là Công Tằng Tôn Nữ Thị Phương Khanh, chưa tròn
tuổi thôi nôi. Khi tiếp xúc với bà, dân địa phương thoạt nghe cái giọng
trọ trẹ nặng chình chịch, kèm với những tiếng bí hiểm "mô, tê, răng,
rứa" điếc đăïc cả tai, tưởng bà là người ngoại quốc. Đến chừng
biết bà chánh gốc là dân cố đô Huế, họ ùa nhau gọi bí danh bà là Huế
cho "tiện bề sổ sách". Thân gái cô đơn xứ người, vậy mà chỉ
trong một thời gian ngắn, với nồi bún bò cay thấu trời mây chinh phục dễ
dàng khẩu vị người dân địa phương, bà Huế bắt đầu tạo dựng được
nếp sống vững vàng tại chốn nầy. Bà tậu được ngôi nhà xinh xắn tại
xóm lăng Nguyễn Huỳnh Đức, và thừa sức lo cho cô con gái ăn học tại
Saigon. Bà Huế hãnh diện về cô con gái học hành xuất sắc cấp đại học
không được bao lâu, bỗng choáng váng điên đầu khi cô con trở chứng đòi
cạo đầu đi tu. Dĩ nhiên, lúc đầu bà Huế cũng lồng lộng chống đối
cản ngăn, vậy mà, cuối cùng thấy con tha thiết quá, bà cũng phải xiêu
lòng. Có một dạo, bà Huế háo hức tuyên bố với bà con xóm giềng rằng
bà đã chiêm nghiệm được lý vô thường và chán ngán cuộc đời tạm bợ
vô nghĩa nầy, nên "dọa" sẽ bỏ tất cả để cùng với cô con tầm
sư học đạo. Lời dọa nầy, ngay dân ghiền bún bò cũng chẳng ai sợ tí
nào, nhứt là khi mụ sáu Lé, ngụ sát vách nhà bà, te rẹt khắp làng trên
xóm dưới, cười ngặt nghẽo tố cáo:
- Dì Hai hả? bả mà dám đi tu thì
tui cùi sứt móng cho bà con coi! Nè! mỗi năm dì long trọng tuyên bố ăn
chay có ngày mùng một, vậy mà mới chạng vạng đã thấy bà lục đục bắt
gà nấu cháo! Tu theo bả là "tu hú" đó mà!
Không tu được, bà Hai Huế đành sống
thui thủi một mình cho đến ngày, đang mạnh cùi cụi, bỗng ngã bệnh liệt
giường. Sư cô Công Tằng - đúng ra pháp danh cô là Quảng Hạnh, mà dân
quê lại cứ man mán nhớ thành "hoảng hồn, hoảng hốt" gì đó, lộn
xộn quá chừng, bèn cứ gọi sư cô là Công Tằng, cái tên quen thuộc từ
thuở cô còn bé tí ngày xưa cho dễ - vội vã về nhà chăm sóc mẹ. Hai
tháng sau thì bà Hai qua đời. Tang ma mẹ xong, sư cô xin bổn sư cho ở lại
nhà một năm để tiện tụng niệm vãng sanh và chăm nom săn sóc mộ phần
mẹ. Sư cô cũng nhân dịp nầy tạo duyên Phật pháp cho bà con lối xóm: tạm
biến ngôi nhà thành một niệm Phật đường nhỏ, mời cô bác đến tụng
kinh, lễ Phật để tùy duyên hướng dẫn họ vài giáo lý căn bản Phật
giáo.
Trưa hôm đó, sư cô vừa chấm dứt
thời kinh, nhìn qua khe cửa thấy dáng bé Liên lấp ló, vội bước ra nắm
tay em đưa vào nhà. Bé Liên lắp bắp lên tiếng:
- Sư cô à! Má con dặn con hỏi sư
cô mời Phật đản ngày nào, con phải về trả lời liền kẻo má trông!
- Phật đản tổ chức vào ngày mai
con à! Ơ! khoan về đã! con hãy vào nhà chờ cô một chút, cô cùng đi với
con, có cô con đừng lo!
Sư cô xót xa nhìn mặt mũi thê thảm
của cón bé. Cô nhúng khăn ướt lau mặt, thoa dầu lên vết sưng mười ngón
tay còn in trên gò má, đắp nước muối lên cục u trên đầu, rồi như một
bà mẹ hiền, sư cô lại ân cần đem bánh trái ép em ăn.
Sư cô dịu dàng dễ thương quá,
bé Liên cảm động đón nhận tình thương của sư cô, rồi bỗng rụt rè
lên tiếng:
- Tại sao sư cô lại đi tu vậy?
- Cả đời má sư cô phải cam chịu
biết bao nhiêu điều khổ sở, sư cô thương quá muốn đi tu để tìm đường
thoát khổ và cũng để độ má sư cô thoát khổ nữa!
- Sư cô à! con cũng muốn đi tu như
sư cô vậy đó!
- Con muốn đi tu để làm gì?
- Cả đời má con cũng khổ sở quá
chừng hà! Con muốn đi tu để độ má của con hết khổ, giống như sư cô
vậy!
Sư cô ngạc nhiên không ngờ con bé
bị mẹ hành hạ tàn nhẫn, mà vẫn thương mẹ không chút oán hờn. Mà
hành vi ác độc của mụ Tám bánh tầm bì thì đâu có vừa gì! Cả xã
Khánh Hậu nầy ai chẳng kêu rêu bất mãn. Họ lên án, oán trách mụ Tám
đã bắt bé Liên nghỉ học từ năm lớp bốn, để ở nhà lãnh hết mọi
công việc nặng nhẹ trong ngoài, từ việc nấu cơm, gánh nước, giặt
giũ, cho đến những công tác dơ dáy ở chuồng gà, chuồng heo. Ba giờ
sáng con bé đã bị dựng dậy để se bánh tầm cho kịp giờ bán điểm tâm,
tối mịt em vẫn còn phải lốc cốc xách thùng đi khắp xóm sớt cơm thiu,
canh cặn về bổ dưỡng thêm cho bầy heo háu ăn. Hành con bé làm việc bù
đầu suốt ngày vẫn chưa hả nư, mụ Tám bỏ bê con đói rách xác xơ, chửi
mắng thô tục nặng nề và đánh đập nó tàn nhẫn như đối với kẻ tử
thù. Điều làm kẻ bàng quan bất mãn hơn nữa, là chị bé Liên tên Thảo,
lại được mụ Tám cưng yêu chiều chuộng tột bực, ăn ngon mặc đẹp
đi học, không phải động móng tay, vì chỉ cần ọ ẹ thì đã có đứa
em nai lưng ra phục dịch rồi. Sư cô thầm nguyện tìm phương kế giải tai
ách cho bé Liên nên đã đích thân lân la thăm viếng mụ Tám ba lần, cố gắng
gieo hạt giống thương yêu hiểu biết vào tâm mụ, hai người luận bàn
vui vẻ đủ mọi đề tài đạo và đời, nhưng mấy lần ấp úng đắn
đo, sư cô vẫn chưa dám khơi vụ bé Liên ra nói được. Mụ Tám có tính
quái đản là mỗi khi nghe ai lưu tâm đến bé Liên hay khuyên lơn cản ngăn
mụ thì mụ lại đánh đập con bé dữ tợn hơn nữa. Chị ruột của mụ,
thương hại cháu, ngỏ lời xin cháu làm con nuôi, chẳng những mụ Tám phản
đối, mà bé Liên lại bị đòn nát bét mông đít và bị đay nghiến, bỏ
đói cả ngày. Lần nầy, đi theo bé Liên để gặp mụ Tám, sư cô quyết
tâm sẽ đề cập thẳng vằo điều muốn nói, vậy mà, sư cô nghĩ ngợi rối
cả ruột cũng chưa biết phải bắt đầu làm sao cho ổn...
Sư cô đi khoan thai quá khiến bé
Liên bồn chồn lo lắng. Khi còn cách nhà chừng năm mươi thước, con bé sốt
ruột vuột tay sư cô chạy một mạch về trước, hổn hển báo cáo:
"Má ơi! sư cô nói ngày mai!".
Sư cô bỗng nghe tiếng hét:
- Đồ quỉ cái! sao "ôn hoàng dịch
lệ" không vật mầy chết cho tao nhờ! từ đây đến nhà bà hai Huế gần
xịt, mà mầy "chết tiệt" đi đâu mất không chịu về liền!
Nghĩ đến an nguy của bé Liên, sư
cô không thể đủng đỉnh giữ "oai nghi" của người tu sĩ nữa.
Sư cô chạy vội đến nhà mụ Tám hấp tấp lên tiếng:
- Cái vụ nầy, vụ trễ nầy do lỗi
của tôi đó chị Tám! Tôi giữ cháu lại để cùng đi đường cho có bạn,
chị ạ!
Mụ Tám đon đả:
- Chào sư cô! mời sư cô vào nhà
chơi!
Rồi xoay qua con, mụ hất hàm ra lịnh:
- Ra sau xắt chuối cho heo ăn đi mầy!
Mụ Tám vốn bị xóm giềng "tẩy
chay", nay được sư cô viếng thăm nói chuyện, nên dễ sanh cảm tình,
mặc dù, thật ra mụ chẳng mấy ưa các câu chuyện đạo lý ngán ngẩm của
sư cô. Có lẽ, hơi sượng sùng về lời chửi mắng con quá ư thô lỗ của
mình, vừa hướng dẫn sư cô vào nhà, mụ vừa phân bua:
- Cái con bé nầy coi vậy mà ương
ngạnh lắm sư cô ạ! Tôi mà lơ mơ thì nó "quậy" nát tan cái nhà
nầy như chơi hà!
- Bé Liên mặt mũi trông hiền mà,
chắc không đến nỗi khó dạy đâu chị Tám! Đôi khi ..ơ...ơ..., trong đám
con thế nào cũng có đứa hạp, có đứa không hạp... nên đứa thì mình
thấy dễ dạy, đứa khó dạy... phải không chị?
- Đúng đó sư cô! cái con dịch vật
nầy quả không hạp với tôi tí nào. Thật ra, phải nói nó là thứ oan gia
phá nhà hại cửa thì mới đúng! Ông thầy tử vi Nhãn Thần đã giải
thích như vậy đó! Ông nói chồng tôi tuổi dần, nó tuổi thân, mà "dần
thân tị hợi là tứ hành xung", nên sanh nó ra đời thì chồng tôi tử
trận chết, và tôi thì phải lâm cảnh nghèo khổ tàn mạt từ đó cho đến
ngày nay.
- Tôi nói điều nầy mà nếu thấy
sai xin chị đừng giận nghen! Trên thế gian nầy có biết bao đứa bé kị
tuổi cha mẹ mà cha mẹ vẫn sống, cũng có lắm đứa hạp tuổi lại lâm
cảnh mồ côi! Người ta nói "bói ra ma, quét nhà ra rác", thầy bói
họ vẽ vời ra vụ kị vụ hạp, bàn ngang tán rộng, nhằm thăm dò tâm lý
kẻ nhẹ dạ để khai thác mà mưu đồ trục lợi..., tin tưởng làm sao
được chị Tám!
- Đáng tin lắm chớ sư cô! cái anh
Toàn bạn cùng khóa với chồng tôi, anh cũng tuổi dần, sanh đứa con tuổi
ngọ, mà "dần, ngọ, tuất là tam hạp". Từ đó, binh nghiệp ảnh
lên như diều, vỏn vẹn trong vòng bốn năm mà ảnh lên được ba
"lon", bây giờ ảnh đã mang cấp bực đại tá, uy quyền một cõi
rồi. Cái con ba Khòm, vợ của ảnh, đen thui xấu ỉn, vậy mà bây giờ cũng
làm bà nầy bà nọ, đỏng đa đỏng đảnh, thấy ghét dễ sợ! Chỉ vì phận
tôi hẩm hiu, nên mới sanh nhằm thứ con báo đời, để phải khốn khổ
như thế nầy!
- Chị Tám à! hôm trước chị em mình
có thảo luận về lý nghiệp báo và nhân duyên, theo đó, mỗi người tự
mình chủ động trong việc tạo nghiệp cho mình, mình đã gieo nhân thiện
hay ác gì, thì mình phải gánh chịu cái quả phát sanh từ các nhân đó,
không sai chạy đi đâu cả! chị Tám chắc vẫn nhớ điều đó?
- ƯØa, "chiện" gì tôi
không biết chớ cái "chiện" gieo nhân nào gặt quả nấy thì tôi
chịu lắm!
- Như vậy đó chị Tám, nghiệp của
mình do mình tạo ra, lành dữ tự mình gieo nhân, như vậy thì không có ai
dù là thần thánh cũng không thể ban phước hay gây họa cho mình được,
thành thử ra, một đứa con sanh ra, cũng không làm thay đổi nghiệp của mình,
không gây ra chuyện hên xui gì cả, phải không chị Tám?
- Không phải vậy đâu sư cô! đành
rằng có luật nhân quả, nhưng chuyện đứa con tạo hên xui cho mình có thiệt
mà sư cô, vụ anh đại tá Toàn cũng vậy, và còn biết bao vụ khác nữa...,
không tin làm sao được a sư cô!
- Về việc nầy thì tôi xin góp ý
kiến như vầy đây, chị Tám. Hành vi tạo nhân thiện hay ác ở quá khứ của
một người, có thể đã được đóng góp ít nhiều bởi một vài người
khác, liên hệ đó đã tạo cho họ một nghiệp chung, Phật giáo gọi là cộng
nghiệp. Khi nhân chuyển biến thành quả, thì những người đã có dây
liên hệ từ trước, do cộng nghiệp lôi kéo, sẽ hiện diện bên cạnh người
chủ động để cùng nhận lãnh cái nghiệp tương cận với nhau. Nhìn bề
ngoài, mình có thể nhận định rằng sự hiện hữu của một người thân
đã ảnh hưởng đến thịnh suy của mình, nhưng xét kỹ, thì không ai ảnh
hưởng đến số phận của ai hết, mỗi người lãnh cái phần nghiệp của
mình trong cái nghiệp chung mà thôi. Tôi trình bày như vậy, chị Tám có đồng
ý không ạ!
- Sư cô nói vậy thì tôi hay vậy,
chớ tôi vẫn thấy con cái nó cũng gây ra chuyện hên xui cho mình nhiều lắm!
Sư cô nghĩ mớ tà kiến nầy đã
bám rễ lâu đời trong tâm thức mụ Tám nhất thời sư cô khó mà gột rửa
ngay được. Sư cô sẽ trở lại gặp mụ Tám thảo luận đề tài nầy nhiều
lần nữa để giải tỏa từ từ, còn bây giờ, chuyện cấp bách là an
nguy của bé Liên thì tạm thời sư cô sẽ tìm phương cách khơi dậy tình
thương con nơi quả tim khô cằn của mụ cũng được. Sư cô ngần ngừ một
lúc, rồi ra chiều thân mật, lên tiếng:
- Chị Tám ạ! Chắc chị không thể
nào ngờ là ngày tôi sanh ra đời, chính là ngày má tôi khổ đau cùng cực.
Đây là một việc mà bà đã bưng kín miệng bình, không thổ lộ cho một
ai ở xã Khánh Hậu nầy biết!
- Ô! thật vậy sao sư cô! sư cô kể
rõ tôi nghe đi! tôi kín miệng mà!, mụ Tám lộ vẻ hào hứng khi sắp được
nghe một câu chuyện bí mật.
- Cha tôi là con trai duy nhất của một
gia đình hoàng tộc giàu sang tại cố đô Huế. Bà nội tôi đã chọn mẹ
tôi, một cô gái nghèo thuộc gia đình đông con, về làm dâu vì hy vọng sẽ
sớm có cháu trai nối dõi tông đường. Mẹ tôi lại sanh liên tục hai
gái, khiến nội thất vọng, nội cằn nhằn giận dỗi vu vơ, rồi gán cho
mẹ tôi cái tội thiếu đức nên không sanh được con trai. Mẹ tôi cấn
thai lần nữa, nội hi vọng tràn trề nên vừa ngọt ngào với con dâu, vừa
công khai tỏ ý sẽ bắt con trai cưới vợ khác nếu lần sanh nầy vẫn là
gái. Lo âu thái quá, sức khỏe mẹ tôi suy yếu rõ rệt, đó là lý do
chính đáng để ngoại tôi, xin với nội được đem con gái về nhà chăm sóc
khi sanh nở. Sanh con ra, mệt đứt hơi mẹ tôi vẫn ráng thều thào tìm hiểu
đứa nhỏ là trai hay gái. Thật là bất hạnh cho bà, đứa bé đó chính
là tôi, là gái. Bà nhìn con sửng sờ rồi ngất xỉu. Khi bà tỉnh dậy,
ngoại vừa an ủi vừa đề nghị một giải pháp mà ngoại đã tính toán
và thu xếp chu đáo, là đánh tráo tôi với đứa con trai của chị bếp, đứa
bé nầy đã chào đời trước tôi hai ngày. Mẹ tôi phản đối quyết liệt.
Bà ôm cứng tôi, không cho ngoại và cận thi hành ý định. Bà nói thà bà
chịu khổ chung với con, chớ không vì việc củng cố địa vị, vì tham
lam phú quí, mà bỏ con lăn lóc với người dưng nước lã. Đúng như ngoại
tôi tiên liệu, nội tôi chẳng nhìn nhõi gì đến đứa cháu vô phước,
cha tôi thì chỉ viếng thăm một lần, rồi biệt dạng luôn, chẳng hề đề
cập đến việc rước vợ con về nhà. Sau mấy tháng đớn đau tuyệt vọng,
mẹ tôi bồng tôi vào Nam lập nghiệp, thề trọn đời chẳng trở lại đất
thần kinh. Chị Tám thấy không? chỉ vì tôi mang thân gái, mà mẹ tôi phải
đau khổ suốt cả cuộc đời. Thế mà bà chẳng hề ghét bỏ tôi. Bà thương
yêu chăm sóc tôi từng li từng tí, không dám ăn, không dám mặc để nhường
tất cả cho con. Tôi mà ấm đầu hay tay chân bị trầy trụa chút đỉnh thì
bà xót xa như đứt từng khúc ruột. Ôi! tình thương của bà đối với tôi
bao la như biển rộng, tôi dẫu có tan xương nát thịt cũng chưa đền đáp
nỗi thâm ân!...
Sư cô mang tâm sự đời mình thố
lộ cho mụ Tám mong mụ cảm động, rồi tình thương bé Liên sẽ nhen nhúm
trong lòng mụ. Ngờ đâu, khi sư cô sắp dứt lời, mặt mày mụ Tám đang
tươi rói bỗng dưng biến sắc, mụ hậm hực "hứ" một cái, nhổ
bãi nước bọt cái phẹ, rồi ngoảnh mặt hướng khác, không thèm tiếp
chuyện với sư cô nữa. Sư cô bàng hoàng ngớ ngẩn không hiểu việc gì
đã xảy ra. Chừng mươi giây sau, sư cô mới khám phá rằng lời ca tụng
bà mẹ dịu hiền vô tình khiến người mẹ hung dữ nhột nhạt nghi sư cô
kể chuyện với thâm ý chê bai châm chọc.
Sư cô bối rối tự trách mình đa
sự, đạo dức hèn kém đã không cảm hóa nỗi mụ Tám, mà còn đổ đầu
trên lửa, gây tai họa thêm cho bé Liên. Sư cô đứng dậy, dợm thối lui rồi
lại rụt rè muốn mở lời giã lã, nhưng thấy quyết định nào cũng không
ổn cả.
Thình lình mụ Tám quay người lại,
châm bẩm nhìn sư cô gằng từng tiếng:
- Nè! tui nghe nói Phật đản (1) nhằm
ngày rằm, mà sao sư cô lại nói ngày mùng tám, như vậy nghĩa là sao? mấy
người tu hành mà sao ăn nói bất nhất quá vậy?
Sư cô thở phào nhẹ nhõm, lời lẽ
mụ Tám tuy xỉa xói gắt gao, nhưng mụ còn chịu đối thoại thì còn hi vọng,
"còn nước còn tát", sư cô dịu dàng đáp:
- Thưa chị! theo truyền thống Phật
giáo Trung Hoa thì Phật đản nhằm ngày mùng tám tháng tư âm lịch. Phật
giáo Việt Nam, vốn chịu ảnh hưởng Trung Hoa nên cũng tổ chức vào ngày
nầy. Theo truyền thống Phật giáo Nam Tông, thì Phật đản nhằm ngày trăng
tròn tháng tư. Vấn đề sai khác nầy được đặt ra trong một phiên họp
của Hội Phật Giáo Thế Giới; sau khi thảo luận, Đại Hội đã đồng
thanh quyết định thống nhứt ngày Phật Đản là ngày rằm tháng tư. Do đó,
Phật Giáo Việt Nam hiện nay tổ chức lễ Phật đản ngày rằm, tuy vậy
có nhiều chùa vẫn cố gắng giữ chút lệ xưa, nên tổ chức thêm ngày
mùng tám. Tôi tính rủ chị em mình làm cái lễ nhỏ nhỏ trong xóm ngày
mùng tám, vì đến ngày rằm thì tôi phải về Saigon làm lễ chánh thức tại
tu viện. Tôi đã không trình bày rành mạch với chị em vấn đề này, điều
đó quả thật có lỗi.
Thái độ bình tĩnh và mềm mỏng của
sư cô khiến mụ Tám nguôi ngoai cơn giận phần nào, sư cô mừng rỡ tiếp
lời:
- Thật ra, tổ chức lễ chỉ là một
hình thức, thì ngày nào cũng như nhau có khác chi đâu phải không chị
Tám! Vấn đề quan trọng là mình biết vận dụng được ý nghĩa của ngày
lễ Phật đản, biết nương vào ngày đó để tưởng nhớ công ơn Phật và
noi gương ngài dõng mãnh tu sửa thân tâm sao cho xứng đáng là một người
con Phật. Chị Tám biết không? theo niềm tin riêng của tôi, thì ngày Phật
thực sự khai sinh không phải ngày mùng tám hay ngày rằm, mà là một ngày
xa xôi mù mịt vô số kiếp về trước khi đức Phật còn phải chịu hình
phạt ở chốn địa ngục vô gián lận kia...
- Ủa! sao có cái ngày gì lạ quá vậy
ha?, mụ Tám mỉa mai.
- Đây là chuyện tiền kiếp của
Phật (2). Vào những a tăng kỳ kiếp cực kỳ xa xôi, thuở đức Phật
chưa biết tu tập, nên có khi thì tạo nhân lành khi gây nhân ác hổn tạp
với nhau, do đó, cứ bị lăn lộn lên xuống trong lục đạo luân hồi. Cho
đến một kiếp nọ, đức Phật là một đứa con bất nhân, bất hiếu, đã
tàn nhẫn chửi mắng đánh đập mẹ ruột mình nên khi chết bị đọa vào
địa ngục vô gián. Tội nhân trong ngục bị vòng lửa bám trên đầu thiêu
đốt đau đớn, chết lên chết xuống, khổ sở không thể kể xiết. Đức
Phật thăm hỏi ngục tối đến chừng nào mình mới thoát khỏi nơi nầy
thì được bảo rằng, bao giờ trên thế gian có tên nào bất hiếu, bằng
hay hơn ngươi chết xuống đây thay thế chỗ ngươi, ngươi mới thoát nạn.
Đức Phật mống niệm ước mong trên thế giới có càng nhiều càng tốt
những kẻ ác nhân bất hiếu, để sớm có kẻ thế mình. Niệm xấu vừa
khởi, tức thời vòng lửa siết chặt hơn, lửa thiêu đốt dữ dằn hơn,
khiến Phật lăn ra, chết ngất lên ngất xuống. Trong giây phút cực kỳ
đau đớn đó, bỗng nhiên Phật nghĩ chốn nầy khổ sở quá chừng chừng,
thật cảm thương cho ai đã lọt đến chốn nầy, mong thế gian không còn
ai bất hiếu để họ khỏi rơi vào đây, còn phần mình nếu không ai thay
thế thì đành chịu khổ sở hoài vậy. Niệm lành vừa sanh, tức thời Phật
thoát khỏi chốn địa ngục sanh lên cõi Trời, và kể từ kiếp đó, đức
Phật luôn luôn tinh tiến tu hành cho đến ngày thành Phật cách nay hơn hai
ngàn năm trăm năm. Giây phút phát khởi niệm lành "chịu khổ thay thế
chúng sanh" quả là thời điểm đặc biệt! Tôi tin tưởng rằng mầm mống
một vị Phật đã thực sự khai sanh từ đó, chị đồng ý với tôi không
chị Tám?
Câu chuyện tiền thân có lẽ hấp
dẫn mụ Tám nên mụ theo dõi chăm chỉ và góp ý vui vẻ:
- Đúng đa! giây phút đó quả là
khúc quanh lớn, đã biến đổi một kẻ ác thành vị Phật. ƯØa! nói rằng
Phật đã thật sự khai sanh từ lúc đó cũng có lý lắm chớ!
- Chị Tám ạ! tôi xin kể chị nghe
tiếp chuyện nầy, khó tin mà có thật, mới xảy ra ràng ràng tại xóm
mình nè! Hồi nảy đây, tôi đích thân chứng kiến một vị Phật khai sanh
đó chị!
- ???
- Chuyện thật trăm phần trăm mà!
Thì mới hồi nảy đây cháu Liên có thỏ thẻ với tôi là cháu muốn đi
tu. Tôi hỏi lý do thì cháu chân thành đáp: "Thưa cô! con thấy cả đời
má con phải chịu khổ sở quá chừng hà! Con muốn đi tu để độ cho má
con hết khổ". Chứng kiến thái độ thành khẩn của cháu, tôi xúc động
cảm nhận rõ ràng rằng một vị Phật đã vừa khai sanh trong tâm em. Tôi
tin tưởng nguyện vọng của em sẽ thành. Em sẽ thành Phật và em sẽ độ
được mẹ em!
Mụ Tám vụt chạy ra nhà sau và sư
cô cũng lo lắng phóng theo bén gót. Sư cô thấy mụ Tám bước nhanh tới chỗ
con gái đang xắt chuối heo, lặng lẽ nhìn con bé, gương mặt bặm trợn
đanh đá thường ngày bỗng mềm dịu hẳn ra, rồi mụ lên tiếng:
- Liên à! bộ con nói với sư cô
con muốn đi tu để độ má hả con?
Bé Liên không biết chuyện gì sẽ
xảy ra, mặt mày em tái mét, em rụt rè đáp nho nhỏ:
- Dạ! con thấy má khổ sở quá chừng
hà! con thương má! con muốn bắt chước sư cô, đi tu để độ cho má hết
khổ! má à!
Hai hàng nước mắt của mụ Tám bỗng
nhiên ràn rụa, mụ ôm con bé vào lòng..., lúng búng chẳng ra lời:
"Ôi! thương quá! tội nghiệp con tôi quá!".
"Một vị Phật lại vừa được
khai sanh!", sư cô cảm nhận điều đó trong niềm vui mênh mang. YÙ thức
sự hiện diện của mình đã trở thành thừa thải, sư cô lặng lẽ rút
lui; bước ra ngoài nhìn vạn vật mọi loài, sư cô cảm thấy tất cả dường
như đã bừng dậy, để hân hoan chia xẻ niềm vui với sư cô.
Tháng 04.1995
Ghi chú:
1. Khi Phật giáo truyền sang Trung
Hoa, các nhà học giả Phật giáo thời đó đã nghiên cứu và xác định Phật
đản nhằm ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch, đời Châu Linh Vương, năm thứ 7,
tức năm 565 trước Kỷ Nguyên. Theo truyền thống Nam tông, ngày đức Phật
đản sanh nhằm ngày trăng tròn tháng Vesakha tức tháng 5, lịch Ấn Độ.
Truyền thống Nam Tông có lẽ phù hợp với kinh điển đã lưu truyền, vì
tất cả đều xác nhận Phật giáng sanh vào ngày trăng tròn.
2. Tác giả rất tiếc đã không
tìm được bản kinh đầy đủ về chuyện tiền thân nầy, tác giả chỉ
nhớ tinh thần câu chuyện nên đã ghi lại đại khái, chi tiết có thể thiếu
sót và không đúng y nguyên bản. Mong đọc giả thứ lỗi!
- Chân thành cảm ơn Hải Hạnh đã đánh
máy vi tính