- Cu Tí Đi Tu
- Thích Nguyên Hùng
Thằng Cu Tý đi tu. Trời ơi, tin ấy
làm bà con trong làng ngạc nhiên lắm! Ai cũng ngờ vực, bán tín, bán nghi.
Thằng Cu Tý đi tu ? Chắc không phải đâu !. Hắn là thằng quậy phá nhất
làng. Mới mấy tuổi đầu mà làng trên xóm dưới ai cũng biết hắn, chỉ
vì hắn phá phách đến … động trời. Đến nổi, bà con gọi hắn là …
"Ông thần". Ông thần phá phách đấy mà. Cu Tý, mà bọn trẻ con
trong làng gọi hắn là "Tý chưởng môn", quậy phá vậy nhưng không
phương hại chi đến ai và lấy của ai bất cứ vật gì. Hắn chỉ dẫn đầu
một đám trẻ năm bảy mười mấy đứa suýt soát tuổi nhau đi lục lọi
khắp nơi, hễ nhà ai có vườn trái cây là … "ghé thăm". Người
lớn đi làm hết. Bọn trẻ chỉ đi học một buổi, một buổi ở nhà
trông nhà. Hắn tập trung tất cả lại chơi … đồ hàng. Bẻ cây mì dựng
nhà, cắt lá chuối mà lợp, rồi đóng thành từng cặp "vợ chồng",
"con cái" của nhau và … tập sống cuộc sống của người lớn.
Chơi trò này chán, chúng lại chia phe đánh nhau, phá nhà lấy cây mì làm
súng, cũng bắn đùng đùng, đạn bay vèo vèo đến … khô cả miệng, rượt
chạy cùng làng, la hét ầm ĩ khiến trẻ con đang ngủ phải giật mình
khóc, các bà lại ra rầy…
Đùng một cái, hắn đi tu. Lúc đầu
không ai tin, nhưng mà hắn đi tu thiệt, ai cũng thấy thương thương. Hắn còn
nhỏ quá mà, biết gì. Ba hắn dẫn hắn đi đến một ngôi chùa xa, nơi hắn
chưa hề biết đến. Hình như thầy trụ trì và ba hắn đã quen biết từ
trước. Lạ thiệt, có khi nào hắn thấy ba đi chùa đâu. Hai người lớn nói
chuyện với nhau. Hắn đứng ở gốc cửa, lâu lâu thấy thầy nhìn hắn
có vẻ thăm dò. Đoạn ba hắn gọi :
- Cu Tý, lại đây thầy dạy. Hắn
rụt rè bước đến. Thầy hỏi :
- Răng con ưng đi tu ?
- Con cũng không biết nữa, tự
nhiên con ưng đi rứa. Hắn ngây thơ trả lời, giọng run run. Thầy hỏi tiếp
: - Ưng đi rồi có… ưng về không ?
- Dạ, con cũng không biết nữa ! Thầy
cười xoa đầu hắn :
- Đi tu cực lắm, phải thức khuya
dậy sớm, học kinh, giữ giới, không được chơi đùa, phá phách nghịch
ngợm như ở nhà, không được ăn thịt cá, con có chịu nỗi không ?
- Dạ nỗi ! Hắn ngẩn đầu nhìn
thầy trả lời giọng dứt khoát. Thầy cười, vổ vổ vai hắn :
- Được ! Thế là Cu Tý được ở
lại chùa. Ba hắn về. Lúc chia tay, ông cầm tay thầy giọng nghẹn ngào :
- Con cũng không biết cháu nó có tu
được không, nhưng ở nhà nó cứ đòi đi cho bằng được. Nó nghịch lắm
thầy ạ. Con thì không quen biết ai ngoài thầy, thôi thì trăm sự nay nhờ
thầy dìu dắt, âu đây cũng là nhân duyên từ kiếp trước … Thầy đưa
ba hắn ra cổng, ân cần nói:
- Anh cứ yên tâm. Tôi xem cháu nó
có nhân duyên với Phật pháp lắm đó, nếu không sao biết chuyện đi tu
được. Từ nhỏ cháu đâu đã đi chùa và đâu đã thấy thầy tu lần
nào, phải không ?… Thầy cười hoan hỷ. Cu Tý đứng ở cửa chùa nhìn
hình bóng người cha khuất dần ở cổng tam quan, tự nhiên lòng buồn rười
rượi, khoé mắt cay cay, lần đầu tiên chú xa nhà, xa người thân, bạn
bè. Đêm nớ, chú nhớ nhà chi lạ. Nhớ mạ, chú gục đầu vào gối khóc
rưng rức, không ai biết, rồi thiếp đi… Cu Tý đi rồi, làng trên xóm dưới
lặng ngắt, trái cây trong vườn chín mọng, bọn trẻ con cũng ít ra đường
chơi… Mọi người như thấy thiêu thiếu cái gì. Không có tiếng cười đùa
của trẻ thơ cuộc sống của người lớn hình như trở nên tẻ nhạt. Ai
cũng thấy buồn buồn. "Cha thằng Cu Tý! Có hắn ở nhà rứa mà
vui" – mấy cụ già mắng yêu. Mấy tháng sau Cu Tý được thầy cho xuống
tóc, đặt pháp danh Hạo Nhiên.
Hôm ấy mẹ chú khóc rất nhiều,
ba chú không khóc nhưng buồn buồn. Chú cũng cảm thấy buồn. Sao mẹ khóc
nhiều thế!. Thời gian lặng lẽ trôi. Cuộc sống nơi quê nghèo, sớm hôm
với ruộng vườn nương rẩy, chẳng mấy chốc, hình bóng Cu Tý rơi vào sự
quên lãng trong xóm nghèo này. Chỉ có mẹ Chú là ngày đêm nhung nhớ. Mấy
năm sau, Hạo Nhiên được thầy gởi vào Nam học. Hơn mười năm sau. Cuộc
sống của dân trong làng khá hơn. Mọi người đều có cái ăn, cái mặc
cái để dần khi ốm đau. Họ lại nhớ đến chùa, nghĩ đến việc xây dựng
đời sống tâm linh. Dân trong làng họp lại, họ muốn làm chùa. Hồi đó,
làng này cũng có một ngôi chùa nho nhỏ, nhưng chiến tranh đã làm đổ nát,
dân làng chạy giặc ngược xuôi, không ai chú ý đến. Ngày đất nước độc
lập, dân trở về làng, cái ăn cái mặc đè nặng trên vai, không ai nhớ
đến Phật, đến chùa; chính quyền hồi đó rất khó khăn, họ lấy đất
chùa làm hợp tác xã, cấm dân làng thờ Phật, tụng kinh. Dân trong làng trở
về với đời sống "Phật tại tâm." Bây giờ họ muốn "Phật"
là của làng, của nước, của truyền thống văn hoá tâm linh ngàn đời mà
con cái họ phải biết để kế thừa, để giữ gìn giềng mối đạo đức,
nhân luân của xã hội. Chính quyền cũng thấy được giá trị đó, họ trả
đất lại, cho phép xây dựng chùa. Họ nói "để có nơi con em đến đó,
tìm về bản sắc văn hoá dân tộc, tìm về cội nguồn…".
Thế là chùa được xây dựng, mỗi
người mỗi ít, kẻ công người của, chẳng mấy khi chùa được xây xong,
tuy không được lớn lắm. Ngày làm lễ khánh thành chùa, mấy bác trong ban
hộ tự đi vô tới trong Huế thỉnh thầy ra chứng minh. Nghe nói có thầy từ
trong Nam về nữa, đều là người xuất thân từ Quảng Trị. Trong đó có
chú Hạo Nhiên. Chú Hạo Nhiên trở lại quê hương lần đầu tiên sau hơn
mười lăm năm xa cách, tất cả đều đã đổi thay. Các cụ già ngày xưa
không còn, các bậc cha chú ngày xưa bây giờ râu tóc đã bạc phơ, bọn trẻ
chơi với chú ngày xưa giờ đã có gia đình… không còn ai biết chú. Khung
cảnh làng quê, nơi chú chào đời, hình như còn nhớ chú, mặc dù có đổi
thay, nhưng hương đồng cỏ nội, hương mùi đất mẹ vẫn còn âm ấm dưới
lòng bàn chân. Cái hơi ấm như hơi thở và lòng bàn tay của mẹ cứ cuốn
lấy đưa đẩy chú về cái thuở thơ ngây hồn nhiên trong trắng đến diệu
kỳ. Cảm giác thân quen quá, gần gũi quá.
Chú bước đi trên con đường quen
thuộc dẫn về làng trong nắng ấm ban mai với những làn gió nhẹ từ ruộng
lúa xanh rì mơn trớn làn da mát rượi. Trong chú xốn xang khó tả. Sắp
được gặp lại mạ rồi. Không biết mạ chừ có nhận ra chú không. Hôm
ấy bà con trong làng nô nức đi cung đón quý thầy về, ra tận cổng làng.
Họ nhỏ to, nghe nói có con bác trưởng ban hộ tự (ba chú Hạo Nhiên) về
nữa, thầy của làng mình đó. Mọi người ai nấy hân hoan. Từ xa, Hạo
Nhiên đã thấy cờ lộng tung bay, bà con xếp thành hai hàng ngay ngắn trên
con đường dẫn vào chùa. Đến nơi, mọi người đều chấp tay thành
kính, Hạo Nhiên đi sau cùng hoà quyện trong những chiếc y vàng rực rỡ,
trang nghiêm, chú thấy ba chú bưng khay lễ đi đầu, hình như ông đang tìm
đứa con của mình, nhưng ông phải thỉnh quý thầy đi vào chùa nên đành
cung kính đi trước. Bất chợt, một bà mẹ già nua còm cõi lao ra ôm
choàng lấy chú
- C…o…n, Th…ầ…y ! Bà khóc rưng
rức, không biết những giọt nước mắt ấy là vui hay buồn. Không đó là
những giọt thương yêu dịu ngọt mà chỉ có nơi người mẹ.
Hạo nhiên nghẹn ngào: - Mạ! Chú cũng
khóc. Quý thầy nhìn lui, cảm thông, điềm đạm bước. Ai cũng thấy bùi
ngùi: "Thầy mình, thầy mình đó, Cu Tý ngày xưa đó", mọi người
thầm thì, ba chú cũng trộm nhìn lui. Phút giây hội ngộ sau bao tháng năm
xa cách của đứa con xa nhà, nay là một người xuất gia uy nghi trong lớp
áo ca sa làm cho không khí của buổi cung nghinh trở nên sâu lắng nghiêm
trang. Hai hàng rào người nối theo sau quý thầy đi vào chùa. Hạo Nhiên
dìu mẹ cùng đi bên cạnh, không nói năng chi mà ngàn lời cũng khó tả.
Sau lễ khánh thành chùa là lễ chẩn tế, kỳ siêu bạt độ. Tối hôm đó
quý thầy lớn quyết định cho chú Hạo Nhiên thuyết pháp. Lần đầu tiên
trở về làng sau hơn mười lăm năm xa cách, Hạo Nhiên lúng túng không biết
mình xuất hiện trước bà con, vốn là những chú bác, bạn bè thân thuộc
của làng mình, với tư cách gì. Người thầy? Người con? Một chút bâng
khuâng. Phải rồi, với tư cách người con. Ngày xưa không phải đức Phật
thuyết pháp cho vua cha cùng với gia tộc với tư cách người con là gì, nhưng
đó là người con đã giác ngộ, đã tìm được chân lý và hướng dẫn mọi
người cùng tiến đến mục đích đó, hạnh phúc và giải thoát. Hôm nay Hạo
Nhiên sẽ đến với bà con với tư cách của người con tìm thấy con đường
đi đến hạnh phúc bằng thương yêu và hiểu biết.
Lần đầu tiên gặp lại Cu Tý nghịch
ngợm ngày xưa, bây giờ là một người thầy uy nghi trên pháp toà, bà con
ai nấy đều ngạc nhiên với bài pháp thoại của chú. Giọng nói thanh tao,
nhẹ nhàng, truyền cảm làm ấm lòng người. Bài nói chuyện giản dị, gần
gũi, rứa mà ai nghe cũng cảm thấy rung động, sâu xa.
Đó là bài pháp thoại về thương
yêu và hiểu biết như chính lúc chú mới chào đời, bài học mẹ dạy
đơn sơ, mộc mạc đầu tiên mà cũng là bài học lớn nhất của cả cuộc
đời, đó bài học về tình yêu thương. Buổi thuyết pháp chấm dứt. Mọi
người như vẫn còn say sưa với hương vị pháp mầu huyền nhiệm. Xong lễ,
Hạo Nhiên từ biệt ba, mẹ và gia đình cùng bà con trong làng vào nam. Ngôi
chùa làng trở nên yên lắng, tịch mịch. Bà con trong làng lại mong ước có
được một thầy về trụ trì, hướng dẫn tu tập. "Không biết khi
mô thầy mình về lại, giá mà thầy về đây ở luôn…" Hạo Nhiên ngậm
ngùi ra đi. Mạ lại khóc như ngày tiễn con đi tu…
http://www.buddhismtoday.com/viet/truyen/045-cutiditu.htm