- Còng
già bỏ tổ
T iết trùng dương mới chớm, trời se lạnh.
Mặt sông sáng lên dưới ánh trăng khuya như cố giao hòa một lần cuối
cùng trước khi trời sáng. Bóng đêm lẫn trốn dần. Vài mạch nước nhỉ
bò ra từ kẽ đá làm chứng cho âm thanh róc rách suốt đêm qua. Ở đầu một
mỏm đá, một chú sóc con nhảy phóc lên, cuộn chiếc đuôi tròn vo như cuốn chiếu, giương đôi
mắt bé tí nị như hai giọt sương nhìn liếng thoắng, kêu lên vài
tiếng rồi lại trốn vào hang.
Dưới
cội thông già, Sư ngồi tréo chân chữ ngũ, quần dính đầy hoa cỏ may lẫn
hơi sương, đăm chiêu. Đôi vai rộng nhưng gầy, bất động trong mảnh áo
màu hạt dẻ. Đôi tay dài, ngón tay thon nhưng gân guốc, lần một cách vô
tình tràng hạt to, đen nhánh. Chưa có một tia nắng đầu ngày nào tìm đến,
nhưng trời đã nhá nhem. Sao trốn dần vào khoảng trời rộng, đùn đẩy một
áng mây chùng xuống thấp, xám xịt, rồi ửng dần. Sáng.
- Ngươi đã đi suốt đêm
qua? Một giọng nói phát ra từ sau lùm cây, trầm ấm, đầy nhân từ. Liễu
Đạt giật mình khi câu hỏi chen vào dòng tâm tưởng. Từ mỏm đá trước
mặt, bóng một người bước lên, nhô cao, cắt ngang một khoảng trời xanh
lơ. Dường như không có gì làm cho Sư chú ý, xâu chuỗi trên tay vẫn
nhích dần từng hạt trong vô thức. Sự im lặng như một câu trả lời nhũn
nhặn, bất kể câu hỏi ấy của ai.
- Chưa yên sao?
- Ba cõi như mộng, có gì
không yên! Liễu Đạt đáp như đang ở trong mộng.
- Thế thì cần gì phải
đi suốt đêm?
- Ngắm màu ngọc của trăng,
ngửi mùi hương của đất, nếm khí lạnh của trời.
- Đất trời đâu lại chẳng
có, hà tất phải lội ra đến đây?
Câu
hỏi dồn dập kéo Liễu Đạt ra khỏi cơn nói mộng. Sư ngước nhìn lên,
ngạc nhiên khi thấy Đại sư Viên Quang. Một ánh mắt sáng rực bị đôi
lông mày dài chận xuống, chiếu thẳng vào tận tâm can Liễu Đạt. Một
thoáng bối rối, Sư đứng lên, hai tay chắp lại, cúi đầu:
- A-di-đà Phật!
Mới
gắn được một câu Phật lên môi là Liễu Đạt lại thấy toàn thân tê
cứng. Chỉ có một thứ chất lỏng nào đó chạy rần rần châu thân. Đại
sư Viên Quang thật ra chỉ là sư huynh của Liễu Đạt, đệ tử của Thiền
sư Phật Ý Linh Nhạc, nhưng tuổi tác và đạo phong đều đáng bậc thầy
của Liễu Đạt. Sư thầm nghĩ: Vị trụ trì Tổ đình Giác Lâm làm gì mà
xuất hiện giữa rừng rú Trấn Biên giờ này, một sự ngẫu nhiên trùng hợp?
- Chẳng có gì là ngẫu
nhiên cả! Giảng Phật lý bao nhiêu năm rồi lại tin rằng có cái gì nằm
ngoài nhân duyên sao?
Liễu
Đạt lạnh toát mình khi thấy Đại sư Viên Quang đọc được cả suy nghĩ
của mình. Sư cúi gập người xuống, miệng lẩm bẩm:
- Bần tăng hổ thẹn,
hổ thẹn …
Viên Quang phóng tiếp một
ánh nhìn vào tận sào huyệt cuối cùng của lớp ngôn ngữ hào nhoáng kia:
- Hà cớ phải xưng là
bần tăng. Phú tăng thì đã sao nào! Bần phú mà làm gì, phú bần thì tự
thầy biết lấy mà thôi!
Bao
nhiêu năm làm Giảng chủ chốn kinh kỳ, giờ bị một lão tăng tước sạch
nhuệ khí, Liễu Đạt líu ríu, khoát tay ngang hông Đại sư Viên Quang thỉnh
Ngài ngồi xuống tảng đá của mình, rồi tự ngồi bên cạnh, tỏ vẻ
nhún nhường. Viên Quang đổi giọng:
- Nghe nói Thầy đã
lìa khỏi Kinh đô Huế, vào lại Gia Định trụ trì chùa Từ Ân. Lão tăng
chưa có dịp đến thăm. Nay Thầy lại băng rừng lội suối ra đây giữa
đêm hôm khuya khoắt, chắc là có điều gì trắc ẩn? Hòa thượng Bổn sư
viên tịch cả năm rồi!
Câu
hỏi chưa được trả lời, Viên Quang đã nhắc đến Hòa thượng Bổn sư.
Dường như trong cách nói của Đại sư Viên Quang có nhiều ẩn ý. Liễu Đạt
tỏ vẻ phân trần:
- Bạch Hòa thượng! Đường
xá quá xa xôi cách trở, Hòa thượng Bổn sư viên tịch mà bần đạo chẳng
hay biết gì. Sau nhận được tin mới có cớ xin phép Hoàng thượng về thọ
tang, coi sóc chùa Từ Ân. Việc trụ trì chùa Linh Mụ ở kinh đô giao lại
cho vị khác.
Viên
Quang cúi nhặt vài nhánh lá khô trước mặt gom lại nhóm lửa. Liễu Đạt
vội tìm mấy gốc cây gần đó thêm vào. Từng cụm khói trắng cuộn lên,
nhưng ánh lửa không làm sáng hơn không gian quanh đó bởi mặt trời đã
ló dạng. Viên Quang nhìn kỹ khuôn mặt người huynh đệ út oi của mình.
Vài nếp nhăn ở đuôi mắt có dấu hiệu của tuổi tác, nhưng ánh mắt
thì không lẫn vào đâu được, sáng rực, đen tuyền, đầy cảm tính, lấp
lánh dưới cặp mày ngài rậm và sắc; mũi cao, môi đỏ, da dẻ vẫn mịn
màng và tươi rói. Đại sư thầm nghĩ: “Chà! Cái khuôn mặt này và cái
tài giảng thuyết kia, các cung phi mỹ nữ ở hoàng cung không chết mê chết
mệt thì thôi!”
Liễu
Đạt cố ý phá vỡ cái yên ắng trống vắng nãy giờ, nhỏ nhẹ thưa:
- Bạch Hòa thượng!
Trước khi Bổn sư viên tịch có dạy bảo điều gì chăng?
Viên
Quang cúi đẩy một khúc củi khô vào đống lửa vừa cháy bén, ôn tồn đáp:
- Hòa thượng bảo với lão
tăng rằng Ngài rất lo cho Thầy. Tổ có tiên đoán rằng Thầy khó tránh khỏi
mối dây ràng buộc của nghiệp duyên, nhất là khi mỗi tháng 8 ngày vào nội
cung giảng thuyết, gần nhiều với nữ sắc quyền quý.
- Quan trọng là tâm chí của mình. Sắc tức
thị không. Phật đạo cao thâm, cư trần bất nhiễm trần. Chẳng phải
trước khi bần đạo ra đi, Hòa thượng đã dạy như thế!
Đại sư Viên Quang
nói thẳng:
- Chỉ sợ pháp nhược ma cường. Danh vọng và
quyền uy, từ xưa đã làm bao kẻ choáng ngợp. Huống chi Thầy đường đường
là một Quốc sư đương triều, bao người ngưỡng mộ.
Liễu Đạt chống chế:
- Bần đạo đã
bình yên trở về đấy thôi!
Câu trả lời của
Liễu Đạt làm cho sự cố gắng chia sẻ của Viên Quang trở nên thiếu
tác dụng. Đại sư đi thẳng vào vấn đề, mạnh mẽ hơn:
- Và sau đó là Hoàng cô Tế Minh Thiên Nhật
đã vào Gia Định?
- Bạch Hòa thượng! Chùa Từ Ân vốn là nơi
Tiên đế từng ẩn cư trong thời chạy loạn Tây Sơn, đó cũng là nơi hạ
sanh Hoàng tử Đởm, tức đương kim Hoàng thượng. Việc triều đình phái
Hoàng cô vào chùa Từ Ân cúng dường và chiêm lễ cũng là việc hiển
nhiên.
Viên Quang bỗng phá
lên cười ha hả, rồi cất giọng ngâm:
“Đời
ẩn sĩ con còng già bỏ tổ
Lên
non cao còn sợ nước triều dâng
Bụi
lấm áo phủi hoài tay cũng mỏi
Nên đôi khi ẩn sĩ
cũng ưu phiền”
Ngâm
đến câu thứ tư, Viên Quang nhìn thẳng vào mặt Liễu Đạt, vừa dò xét,
vừa trêu chọc. Liễu Đạt cảm thấy vị đại sư huynh này đã thấu rõ
tâm ý của mình. Im lặng giây lâu, Liễu Đạt xuống nước:
- Thực ra khi giảng thuyết
trong nội cung, có Hoàng cô, tuy đã lớn tuổi, nhưng cứ mãi theo nhận làm
đệ tử và hết sức hầu cận bần đạo. Bần đạo biết Hoàng cô có
tình ý nên một mực nghiêm minh. Hôm trước nghe nói Hoàng cô vào Gia Định,
bần đạo đã có ý đi tránh ra vùng Biên Hòa này nhập thất, một phần
để lánh duyên, một phần để hạ thủ công
phu, tăng tiến đạo nghiệp, nhưng sợ rằng sẽ làm mếch lòng triều đình,
xảy ra chuyện không hay, nên đành phải ở lại tiếp Hoàng cô.
Viên
Quang lại phá lên cười, đùa cợt:
- “Anh
sợ anh mau thành chánh quả
- Nghìn
năm không thấy dấu chân em”.
Chưa
bao giờ Liễu Đạt thấy mình bị tấn công mạnh mẽ như vậy. Đó là sự
xúc phạm một Quốc sư đương triều, một gáo nước lạnh tạt vào ngọn
lửa đang hừng hực cháy. Tài giảng thuyết thao thao bất tuyệt ngày nào
trốn đi đâu mất. Trước vị đại sư huynh được Bổn sư giao phó chăm
sóc những huynh đệ còn lại, Liễu Đạt xem Viên Quang như bậc thầy của
mình. Giờ phút này, đúng là Viên Quang thấy rõ từng đường tơ kẽ tóc
những ngổn ngang trong lòng mình, Liễu Đạt phải từ bỏ lớp mặc cảm
cuối cùng để được chia Xẻ:
- Hôm nay Bần đạo đã bỏ
đi.
- Đó là một sự chạy
trốn!
- Tam giới duy tâm, vạn
pháp duy thức.
- Lại là khẩu nghiệp của
giảng sư.
- Giảng Phật lý mà cũng
bị khẩu nghiệp à?
- Nói cho sướng mồm, cố
nói cho hay, cho đúng, khiến người khác phải nghe theo, phải bái phục, đó
chẳng phải là khẩu nghiệp đó sao?
- Nếu không thế thì làm
sao xiển dương Phật pháp?
- Nếu không biết phải
làm sao thì làm sao mà giảng?
- Trước hết phải làm
cho họ tín thuận.
- Biết làm vừa lòng là
biết cách gạt gẫm.
Liễu
Đạït toát mồ hôi, nhìn sững Đại sư Viên Quang như một lời thú tội.
Sư sửa lại tư thế ngồi, ngước nhìn Đại sư Viên Quang đầy khẩn khoản:
- Bạch Hòa thượng! Bây
giờ bần đạo phải làm sao?
Viên
Quang đổi giọng, đầu gật gật, đầy thiện ý:
- Thầy là một vị tăng
sĩ tốt. Lão tăng nãy giờ có hơi quá lời, nhưng nếu không như thế thì
làm sao thấy được vấn đề. Thầy có trí tuệ hơn người, giới hạnh
nghiêm minh, đạo nghiệp vững vàng. Chắc thầy tự biết phải làm gì.
- Bần đạo chỉ sợ Hoàng
cô tình ý sâu nặng. Nếu một phen đoạn tuyệt, e rằng Hoàng cô liều
mình quyên sinh, như thế sẽ xảy ra chuyện lớn.
Viên
Quang tỏ vẻ thấu hiểu, lựa lời phân giải:
- Ngày xưa Thượng hoàng
Nhân Tông bỏ triều đình lên Yên Tử, biết bao cung phi đã nhảy xuống suối
tự vẫn để biểu hiện sự trung thành. Điều Ngự Giác Hoàng vẫn cương
quyết xả tục xuất gia, sau thành Tổ sư khai sáng một Thiền phái. Nơi các
cung phi nhảy xuống trầm mình, sau triều đình phải lập đàn giải oan.
Tên suối Giải Oan nay vẫn còn. Bậc đại trượng phu phải biết tự mình
dứt đường ái nhiễm. Còn nghiệp cảm của chúng sanh mỗi mỗi phải tự
mang, đâu có ai thay thế cho ai được. Thầy chẳng thể tự cứu thì làm
sao cứu được ái nghiệp nặng nề của kẻ khác ?
Liễu
Đạt cúi đầu suy ngẫm hồi lâu, toan bày tỏ ý định của mình. Khi ngước
lên, Đại sư Viên Quang đã biến đâu mất, chỉ nghe gió phần phật một
luồng như cánh hạc lướt qua. Cỏ vẫn còn ngậm hơi sương, trăng hạ huyền
nhạt dần rồi mất hẳn giữa thu không. Bên kia sông, nắng mới đã tươi
non màu lá mạ. Bóng chim tăm cá vẫn thi thoảng vẽ giữa trời nước yên
bình những nét thật thanh tân. Đến giờ này Liễu Đạt mới chứng kiến
được thần thông quảng đại của Viên Quang, Đại sư đã đến kịp thời
kịp lúc độ cho mình vượt qua một cửa ải vô cùng khắc nghiệt. Liễu
Đạt chắp hai tay hướng về một phương, mắt nhắm nghiền thành khẩn như
đang đảnh lễ mười phương mây trắng nhiệm mầu.
Trời
vừa lên cao, Liễu Đạt cũng thấy thân
mình thấm mệt, Sư ngả người trên mặt đất đầy hoa dại, hai tay vòng
ra sau, đặt dưới ót. Lâu lắm Sư mới được dịp nằm ngửa nhìn trời
cùng với cỏ hoa. Đời chật quá, nào phải dễ đâu đâu cũng kiếm được
một chỗ nằm. Mây đổi từ trắng sang hồng, rồi tản ra. Đằng kia một
cụm, lẻ loi hơn, nhưng được cái ít vướng víu, bay thong thả giữa nền
trời xanh. Không biết lan man được mấy phút giờ, tự dưng Liễu Đạt thở
dài, nửa như muốn trút bỏ, nửa hãy vẫn còn vương. Sư hồi tưởng lại
những cuộc tiếp kiến với Hoàng cô mấy hôm trước. Những ngày Hoàng
cô đến chùa Từ Ân cúng dường, mọi thứ đều được sắp xếp tươm tất
theo yêu cầu của các mệnh quan triều đình. Mỗi sáng Sư trụ trì phải
ra tiếp trà như đề nghị. Khách đường được bài trí đơn sơ một cội
lão mai không hoa ít lá, được cắm trong chiếc độc bình màu xanh ngọc, dưới
cổ bồng vài nét thảo thư cùng triện son hình quả đậu. Ngoài di ảnh Tổ
sư trên cao, vách ngoài treo buông thả một bức mặc trúc vẽ trên giấy
xuyến chỉ, bồi cẩn thận trên nền lụa màu mỡ gà. Bức tranh này do
chính Hoàng cô Tế Minh Thiên Nhật vẽ tặng sư Liễu Đạt trước lúc từ
biệt kinh đô về lại Gia Định. Bộ trường kỷ bằng gỗ mun là quà của
quan Tổng trấn thành Gia Định cúng dường cho Thiền sư Phật Ý Linh Nhạc
thời Ngài còn tại thế, vốn được xem như tự bảo, được bài trí khá
trang trọng giữa Khách đường mỗi khi có trầm và nến thắp lên để tiếp
thượng khách. Nghi thức tiếp vị Hoàng cô của đương kim Hoàng thượng
cũng chỉ đơn sơ có bấy. Chỉ có khác là vị khách quý này được ngồi
ngắm chính bức họa của mình, thay vì từ vị trí đối diện với Tự chủ
như đã an bài, lại là trên một chiếc đôn thấp bên cạnh Thiền tăng. Bấy
nhiêu thôi cũng là điều bất ổn, khi mà các quan và thị tùng “được
phép lui ra”, miễn hầu khi Hoàng cô hầu trà Trụ trì mỗi sáng. Buổi
sáng thứ tư, dường như việc thỉnh an hay mạn đàm thi họa không còn
nhã hứng, Hoàng cô chợt hỏi:
- Đệ tử đã quấy rầy
thầy nhiều quá?
- Không dám, đó là một
vinh hạnh của bần tăng.
- Nếu đệ tử muốn được
thầy tự tay thế phát cho xuất gia, được sớm hôm hầu hạ, chẳng hay ý
Thầy thế nào?
Liễu
Đạt hơi bị sốc bởi đề nghị ấy. Sư bối rối, ra hiệu cho thị giả
Mật Dĩnh lui ra. Tỳ nữ đang đứng hầu bên Hoàng cô cũng ra ngoài. Khách
đường thoang thoảng hương trầm, Sư nhấp một ngụm trà như cố che giấu
sự bối rối. Trên vách Khách đường, di ảnh Tổ sư Phật Ý Linh Nhạc
nhìn xuống đầy uy nghiêm. Sau khi ngước nhìn từ dung của Bổn sư, Liễu
Đạt xoay qua Hoàng cô, nhỏ nhẹ:
- Bần tăng tài hèn đức
mọn, chưa dám nhận đệ tử xuất gia. Tế Minh có thể đến thọ giáo với
Hòa thượng Tổ Tông Viên Quang chùa Giác Lâm, hay làm đệ tử Tăng cang Tổ
Ấn Mật Hoằng chùa Linh Mụ, gần hoàng cung, mọi bề tiện lợi hơn.
Hoàng
cô cúi mặt xuống, đôi má ánh lên dưới ngọn bạch lạp nơi góc tường.
Dường như có hai giọt châu đính trên lưỡng quyền hồng phấn. Tuy tuổi
tác đã lớn, nhưng rõ ràng các cung nữ trong triều không ai sánh nổi nét
đài các của Hoàng cô. Tuổi cập kê thì khuê cung băng giá, gác tía lầu
son im ỉm một niềm kiêu bạt. Giờ xuân qua mấy độ thì tim rung loạn nhịp,
thổn thức quàng xiên giữa trơ vơ nến lụn tơ chùng. Tế Minh lẩm bẩm
như nói với chính mình:
- Đệ tử chỉ theo Thầy,
không chịu theo ai khác đâu ! Có đến chết cũng không rời Thầy !
Câu
nói lí nhí, ra chiều nhỏng nhẻo và lả lơi, nhưng chắc hẳn Liễu Đạt
nghe không sót một chữ. Sư choáng váng đứng dậy, gọi thị giả Mật
Dĩnh ra châm thêm trà, rồi xin phép Hoàng cô vào phương trượng, hôm khác
sẽ tiếp kiến nữa.
Đêm
ấy Liễu Đạt bỏ đi.
* * *
Chùa
Đại Giác nằm giữa cù lao Phố, tỉnh Biên Hòa. Đó cũng là một Tổ đình
lớn giữa vùng Đồng Nai - Gia Định này. Tổ sư Nguyên Thiều cũng đã từng
trác tích tại đây. Phía sau chùa có một thảo am nhỏ, vách đất, nền gạch
Tàu, rất xinh xắn và thoáng mát. Liễu Đạt sau một giấc ngủ dài trên
đồi cỏ hoang đã lần đến chùa Đại Giác. Trời đã xế chiều, Sư xin
vào tá túc, gặp lại mấy vị Tăng quen trước kia đã từng xuống Gia Định
tham dự trường Hương ở Giác Lâm. Được vị Thủ tọa ở chùa dắt đi
xem các phòng ốc, Liễu Đạt nhã ý xin mượn tịnh thất sau chùa để nhập
thất một thời gian, không ngờ được hứa khả. Ngay đêm ấy Sư vào thất
quét bụi và xông trầm cùng khắp, rồi đến bàn Phật thắp hương phát
nguyện: “Nếu không dứt được nghiệp ái sâu dày, quyết sẽ không bước
ra khỏi thất”.
Về
phần Hoàng cô Tế Minh Thiên Nhật, sau khi Trụ trì chùa Tứ Ân đi mất thì
cứ nằm trầm tư buồn BÃ, không màng ăn uống. Ba ngày trôi qua, sức khỏe
sa sút trầm trọng. Sợ Hoàng cô quá buồn thảm, tuyệt vọng, gây chuyện
không hay ở chùa, Sa-di Mật Dĩnh đành phải cho hay Trụ trì nhập thất ở
chùa Đại Giác. Từ Huế vào Gia Định mà Hoàng cô còn vào được, huống
hồ Gia Định với Biên Hòa. Hoàng cô cấp tốc báo cho quan trấn Gia Định
là sẽ ra chùa Đại Giác để cúng dường. Sau khi lễ Phật, Hoàng cô nhờ
Sa-di Mật Dĩnh đưa đến tịnh thất.
Cửa
thất vẫn đóng kín, im lặng như tờ. Hoàng cô đi quanh mấy vòng, rồi đến
trước cửa lễ ba lễ, quỳ xuống nói vọng vào:
- Bạch thầy! Đệ tử sắp
hồi cung nên đến đây xin thầy cho diện kiến lần chót trước khi lên
đường.
Bên
trong vẫn im lặng. Hoàng cô vẫn mãi quỳ trước cửa. Nắng chiều chếch
qua mái hiên, hắt một chiếc bóng khẳng khiu lên ngạch cửa. Dáng dấp
thon thả vẫn làm nền cho những đường cong uyển chuyển. Đường ngôi rẽ
cao, sóng mũi thẳng, khuôn mặt trái xoan lấm tấm mồ hôi. Nắng yếu dần,
bóng người quỳ càng dài ra, trễ xuống. Hoàng cô vẫn quỳ đó, chờ đợi,
thử thách lòng kiên nhẫn. Chưa bao giờ trong đời, Hoàng cô phải quỳ
lâu như thế. Chưa bao giờ trong đời, trái tim vị Hoàng muội của vua Gia
Long lại thổn thức đến thế. Chưa bao giờ trong đời, vị hoàng cô của
vua Minh Mạng nghĩ rằng một cô gái của Hoàng gia lại phải quỳ mọp nhiều
canh giờ để xin một chút lòng thương tưởng của một vị Thích tử xưng
bần. Gió chẳng buồn thổi giùm cho xiêm y đẫm mồ hôi ráo bớt. Nắng chẳng
buồn soi nữa để bóng chiếc tường rêu đỡ phải nhạt nhòa. Tế Minh
đuối sức, đổ xuống bên thềm trăng chập choạng. Khi tiếng chuông trước
chùa Đại Giác ngân lên báo hiệu tới giờ Tịnh độ, Tế Minh hướng vào
trong tịnh thất, khẩn khoản:
- Bạch thầy! Nếu thầy
không tiện ra tiếp, xin thầy cho đệ tử nhìn thấy bàn tay thầy thôi cũng
được, đệ tử cũng hân hoan mà ra về.
Ba
lần nói vọng vào. Im lặng giây lâu, một khoảng thời gian đủ dài để
người ta hiểu được thế nào là giá trị của sự chờ đợi, một bàn
tay thon thả từ từ đưa ra cửa nhỏ, nơi mà hằng ngày đưa thức ăn vào
thất. Hoàng cô lao đến, ôm lấy bàn tay một cách mừng rỡ, hôn lấy hôn
để lên từng ngón nồng nàn, nước mắt ràn rụa.
Bóng
đêm đã phủ dày quanh ngôi cổ tự. Hoàng cô được đưa về nghỉ tại
phòng khách của chùa. Bên thềm trăng của thảo am nhỏ bé, sương nhỏ từng
giọt xuống đám hoa thạch thảo chen lẫn chùm hoa tỷ muội, rồi lan ra, ướt
lạnh cả thềm hiên. Bên trong leo lét một ngọn đèn, lắt lay trước luồng
gió loạn. Nhưng bầu dầu vẫn đầy, vách phên vẫn kín, ngọn đèn rồi
trở lại yên tĩnh, sáng hơn. Như một lần rùng mình đối diện với hư vô
ngát lạnh, ảo hình của tam giới mộng cũng vừa tan. Như một vực thẳm
vừa khơi mào thách thức khí lực bình sinh, một bước nhảy vừa phóng
đi vượt qua mọi miền huyễn hóa. Như dòng sông man mác xác đào trôi, lữ
khách vân du qua bến bờ thực tại. Một thoáng vô cùng, bờ bên kia nhìn lại,
ai đứng đó mỉm cười.
Đêm
khá sâu, bỗng có tiếng kêu to ở hậu liêu chùa Đại Giác, mọi người
choàng dậy. Thảo am phía sau chùa bốc cháy, lửa khói dâng cao ngùn ngụt,
sáng rực cả một góc trời. Cuối chân mây, bóng một người lướt đi cùng
Thiền trượng trên vai, nhẹ nhàng như gió thoảng.
Mọi
người tìm mọi cách để dập tắt lửa, nhưng đành bất lực. Gió bốn
phía thổi loạn, tường rêu cũng ngả đổ. Thảo am cháy rụi, chỉ còn thấy
ngay chính giữa những ngổn ngang than hồng hừng hực, dáng một người ngồi
đoan nghiêm trong tư thế Thiền tọa an nhiên, châu thân một vầng lửa
sáng thuần thanh tạo thành hình ngọn đuốc, ngùn ngụt bốc lên cao. Khi rơm
mục và đất khô đang ngún dần mảng tường cuối cùng, người ta kịp phát
hiện một bài kệ Niết Bàn viết bằng mực đen còn tươi rói. Bức thảo
thư vừa mạnh mẽ, rắn rỏi như dao cùn chém đá, vừa nhẹ nhàng, trôi chảy
tợ lưu thủy hành vân, phóng khoáng cõi tâm, trong ngần nét đạo:
- “THIỆT
đức rèn kinh
vẹn kiếp trần
- THÀNH không vẩn đục vẫn
trong ngần
- LIỄU tri mộng huyễn chân như
huyễn
- ĐẠT
đạo mình vui đạo mấy lần”.
Mùa An Cư
năm Tân Tỵ