- Bước đi
của thiên thần
Lúc nào cũng vậy, hễ nghe ai nhắc
tới cha của Rahula là nét mặt Yasodhara sầm xuống, buồn dàu dàu. Rahula
còn bé bỏng, không làm sao cảm thấu được nỗi buồn của mẹ. Cậu bé
cứ hỏi mẹ về người cha chưa bao giờ thấy mặt của mình. Yasodhara chẳng
biết trả lời sao. Cứ hứa hẹn với con, rằng cha sẽ về, một ngày nào
đó, một ngày rất gần.
Nhiều năm và nhiều lần như vậy
rồi, đến hôm nay tin tức về chồng nàng mới thực sự được đưa về
kinh thành một cách chính xác và đáng tin cậy. Rằng Siddhàrtha chồng
nàng, đương kim thái tử của vương quốc Sàkyas, sau sáu năm lìa bỏ cung
thành xuất gia tầm đạo trong núi tuyết Hymalaya, đã chứng được đạo
quả vô thượng, trở thành một kẻ giác ngộ hoàn toàn, một bậc đạo
sư, một đấng Thế tôn... và sau ba năm kế tiếp thành lập giáo đoàn,
truyền bá giáo lý giải thoát khắp nơi, người đang trên đường trở về
kinh thành để thăm cố quốc. Bây giờ cái tên quen thuộc Siddhàrtha đã
không được người ta dùng để gọi chàng nữa: người ta gọi chàng là
Thế tôn, Như lai, hay đức Gotama.
Từ ngày chồng nàng vượt thành
vào rừng xuất gia, nàng lặng lẽ ở mãi trong tư phòng, chẳng thiết tha
gì với mọi sinh hoạt, lễ lộc, cùng bao cuộc vui ca múa hát thường xuyên
tổ chức trong cung đình. Với nàng, cuộc đời thanh xuân kể như đã khép
lại. Thực ra, hơn ai hết, nàng hiểu rõ tâm trạng, tình cảm cũng như hoài
bão cao xa của chồng mình. Có những điều mà có lẽ chàng chưa nói với
ai, nhưng đã không che giấu nàng. Nàng còn nhớ những lần cùng đi dạo với
chồng trong ngự uyển dưới ánh trăng vằng vặc trải ánh vàng lênh láng
trên ngàn hoa nội cỏ. Trước vẻ đẹp của thiên nhiên và không khí
riêng tư êm đềm ngoài cung đình, nàng sung sướng ôm chặt cánh tay chàng,
tựa đầu vào vai chàng để lắng nghe những lời tình tự mà hiếm khi
chàng bày tỏ. Nhưng chàng cứ im lặng. Mắt chàng vẫn cứ nhìn xa xăm, nhìn
đâu đâu, như thể sự hiện diện của nàng không còn là một sở hữu
vô giá mà chính chàng đã từng nâng niu, từng ra sức thi thố tài năng
trước mọi công tôn vương tử khác để chiếm hữu! Sau những lần dạo
chơi ngoài cung thành để tìm hiểu đời sống nhân dân, chàng đã thay đổi
quá nhiều. Trong mắt chàng, dường như chỉ còn một thứ lửa còn cháy,
cháy dịu nhưng triền miên, đó là thứ lửa bi mẫn mà chàng dành trọn
cho nỗi thống khổ của nhân sinh. Và trong mắt chàng, nàng cũng chỉ hiện
hữu như một biểu trưng của kiếp người khổ bệnh. Nhưng có lẽ nàng
đặc biệt hơn: nàng được gần gũi chàng để lắng nghe, để cảm thấu
bao biến động trong tâm tư và ý chí của chàng. Những lời chàng trao cho
nàng, dù được thốt ra dưới một đêm trăng huyền ảo thơ mộng, hay
được thốt ra trước ánh bình minh rực rỡ trải dài muôn tia nghìn sắc
trên sông núi bao la hùng vĩ, vẫn chỉ là những lời than thở, đau xót cho
nhân sinh khổ lụy. Lần ấy, cùng đứng bên nhau trước bao lơn nhìn ra ngự
uyển đang ngập ánh trăng, chàng nói rằng:
"Yasodhara, nếu một ngày nào đó
ta không còn ở bên em, em có hờn trách ta không?"
Yasodhara cúi mặt không trả lời.
Tim nàng dường như đứng lại. Dĩ nhiên như bao nhiêu thiếu phụ son trẻ
khác, nàng không muốn rời chồng nửa bước. Nàng và chàng chưa hề hục
hặc gây gổ, lời qua tiếng lại với nhau bao giờ. Cuộc hôn nhân của họ
là một cuộc hôn nhân đằm thắm, đẹp, và có thể nói là một cuộc
hôn nhân cực kỳ xứng hợp và toàn vẹn để có thể làm gương cho bao cặp
tình nhân khác. Vậy thì, không có lý do nào, không có trở lực nào có thể
cưỡng ép, lôi kéo, đưa đẩy nàng và chàng phải xa nhau. Nhưng rõ ràng
là chàng đã từng có ý ra đi. Dường như chàng có mặt trên cuộc đời này
không phải là để hân thưởng hoặc đón nhận những gì hiện hữu của
cuộc đời mà có mặt để thực hiện một chuyến đi, một cuộc hành
trình, một sở nguyện nào đó rất cấp thiết cho muôn loài. Tình yêu của
chàng không phải là thứ tình mà người ta có thể đong đầy hay phong kín
trong một trái tim, một tâm hồn mà là thứ tình lan tỏa, trải rộng,
không bến bờ. Tình yêu đó đã lan thấm nhè nhẹ vào lòng nàng một cách
êm mát, dễ chịu và thanh thản, nhưng mặt khác, nó đánh bạt đi độc
quyền chiếm hữu của nàng. Nó không phải là cái gì có thể chiếm riêng
được. Đôi lúc nàng sung sướng đón nhận cái tình yêu bao la và trong
sáng đó, nhưng thoạt khi, nàng cũng muốn chối bỏ nó, để chỉ được vớt
vát lại cái tình cảm giới hạn dù rằng rất là tầm thường của thế
nhân. Nàng muốn chàng cứ yêu mình như một người chồng yêu thương một
người vợ. Một người vợ duy nhất. Tình yêu đó không cần phải san xẻ
cho ai. Tình yêu đó, không ai khác trên thế gian này có thể được chung
hưởng...
"Siddhàrtha yêu dấu, em biết,
em có thể nhìn thấy trước điều đó trong mắt anh. Một ngày nào đó anh
sẽ ra đi. Nơi anh đến sẽ không cần có em. Em biết anh muốn tìm cái gì.
Cái đó không có ở nơi em. Cái đó không phải cho riêng anh, cũng không phải
cho riêng em..." Yasodhara nghẹn ngào giây lát rồi bật khóc.
Siddhàrtha ôm choàng lấy vai nàng,
không nói. Úp mặt trên vai chồng, Yasodhara thỏ thẻ:
"Muôn loài sẽ hân hoan an lạc
nếu anh tìm thấy ánh sáng và lối đi của anh. Cùng với muôn loài, em cũng
sẽ đượcchung hưởng niềm vui đó. Nhưng... làm sao em có thể chịu đựng
nổi sự ly biệt này, hỡi Siddhàrtha yêu dấu của em..."
Siddhàrtha vỗ về nàng, giọng
chàng ấm và dịu như ánh trăng vàng đang trôi trên lá cỏ:
"Đừng khóc em yêu. Nhân loại
đang chờ đợi ta. Không phải chỉ chờ đợi riêng ta, mà còn chờ đợi
em nữa đó. Trên và trước tất cả mọi người, em là kẻ đầu tiên có
thể chia xẻ cùng ta sứ mệnh thiêng liêng này."
Chính đêm ấy, Yasodhara thọ thai.
Và cũng từ đêm ấy, nàng ý thức rất rõ ngày ra đi của Siddhàrtha càng
lúc càng kề cận. Chàng trầm tư nhiều hơn, tọa thiền nhiều hơn, cả ngày
lẫn đêm.
Khi nàng sinh hạ Rahula, phụ vương
Shuddodhana cùng hoàng thân quốc thích, thần dân trong kinh thành đều hết sức
hoan hỷ. Đức vua Shuddodhana tổ chức lễ tiệc linh đình để ăn mừng sự
ra đời của vương tôn Rahula. Nhưng đối với Yasodhara, sự ra đời của
Rahula như là sự báo hiệu của một cuộc biệt ly đoạn trường mà nàng
từng tiên cảm. Trong tư phòng, nàng gượng gạo đón tiếp những người
thân thay nhau bước vào thăm hỏi sức khỏe mà mắt nàng cứ đăm đăm nhìn
về hướng cửa phòng để mong ngóng chồng mình. Đến tối, khi chỉ còn lại
một mình nàng, Siddhàrtha mới lặng lẽ bước vào. Không nói gì. Chàng ngồi
bên mép giường, cầm tay nàng. Rồi đưa tay vén nhẹ những sợi tóc lòa
xòa trên vầng trán cao của nàng, đặt bàn tay ấm của chàng lên đó.
Yasodhara bỗng nghẹn ngào khóc. Nước mắt nàng ràn rụa trên gương mặt
xanh xao. Nước mắt nàng cứ chảy mãi, chảy mãi như thể phút phân kỳ đã
kề cận, không còn mơ hồ nữa. Siddhàrtha cúi hôn lên đôi mắt đẫm lệ
của nàng.
Rồi chàng ẵm Rahula lên, nhìn ngắm
đứa con sơ sinh với thương yêu đầy tràn trong ánh mắt. Chàng ôm con đi
vòng vòng trong phòng. Nàng nằm trên giường nhìn theo, ngắm bóng dáng
chàng, quan sát đôi mắt và nụ cười của chàng. Mắt chàng ánh lên niềm
vui, miệng chàng đã nở được nụ cười. Cũng là ánh mắt và nụ cười
hạnh phúc của một người cha. Chàng đã trở thành một người cha rồi
đó. Rahula bụ bẫm dễ thương hơn bất kỳ đứa bé nào có mặt trong kinh
thành này. Chàng đã cười vui. Có lẽ... có lẽ chàng sẽ quên. Có lẽ
chàng sẽ quên. Chàng sẽ không rời xa nơi này nữa. Rahula xinh đẹp, kháu
khỉnh quá. Rahula thừa hưởng tất cả nét đẹp thanh cao quý phái của cha
nó. Ô kìa, chàng đang sung sướng ẵm con. Chàng sẽ quên, chàng sẽ quên...
Bỗng Rahula khóc ré lên. Chàng không biết làm gì cho nó nín khóc. Chàng
lúng túng nhìn nàng vừa cố gắng đu đưa hai tay dỗ con. Nhưng Rahula cứ
khóc. Chàng bèn đem con đến giường, đặt con nằm bên cạnh nàng.
Yasodhara ôm lấy con. Rahula ệ ạ vài tiếng rồi nín khe. Chàng ngồi bên
mép giường, nhìn hai mẹ con, cười nhẹ. Rồi mặt chàng bỗng sầm xuống.
Niềm vui không bao giờ kéo dài được trong chàng. Chàng ngồi im lặng thật
lâu, rồi đứng dậy, rời khỏi phòng.
Tối nào cũng vậy, chàng ghé tạt
vào phòng của hai mẹ con như để thăm hỏi, vài ba phút thôi, rồi rời khỏi
phòng. Chàng có phòng riêng để tọa thiền và nghỉ đêm một mình. Thỉnh
thoảng vào nửa đêm, Yasodhara bước nhẹ đến trước phòng của
Siddhàrtha để thăm chừng giấc ngủ của chồng và nàng thấy chàng ngủ
trong tư thế tọa thiền. Nàng không biết phải làm sao. Nàng không muốn đánh
thức chàng. Sự tĩnh tâm hàng giờ, hàng ngày của chàng càng lúc càng tạo
nên một khoảng cách giữa hai vợ chồng khiến đôi lúc nàng có cảm tưởng
chàng như một vị thầy, một đạo sư của nàng chứ không còn là một người
chồng đã từng chia xẻ tình cảm vui buồn với mình như trước đây nữa.
Tối hôm đó, khác với mọi khi,
chàng đến thăm hai mẹ con sớm hơn, vừa sau giờ ăn tối. Chàng ngồi nơi
chiếc ghế nạm ngọc, chống cằm nhìn nàng cho con bú. Chàng vẫn im lặng,
không biểu lộ tình cảm nào rõ nét. Một chốc, chàng bảo Yasodhara đưa
con cho chàng bồng. Chàng bồng Rahula thật lâu, bước quanh trong phòng, rồi
đến bên cửa sổ chỉ cho Rahula mảnh trăng non vừa lú lên ở cửa thành
phía đông. Rahula bé bỏng không hiểu gì, chỉ cười. Rồi chàng lặng yên
đứng mãi bên cửa sổ, tay vẫn ôm con mà mắt nhìn xa xăm. Rahula tựa đầu
lên vai cha nó, mút ngón tay. Yasodhara ngồi trên giường quan sát hai cha con,
vừa hạnh phúc, vừa lo sợ.
Khi chàng quay lại để trao Rahula
cho nàng, Yasodhara thấy mắt chàng long lanh. Chàng nhìn nàng một cách trìu mến,
nhưng vẫn không nói gì. Rồi chàng rời khỏi phòng.
Vào khoảng nửa đêm, khi Yasodhara
còn đang trằn trọc ưu tư về cuộc sống chung giữa nàng và Siddhàrtha
thì chàng xuất hiện. Chàng vào phòng, có vẻ ngập ngừng một lúc rồi bước
nhẹ đến bên giường của hai mẹ con. Yasodhara vờ ngủ say, nhưng với
ánh đèn dầu mờ đặt trên bàn và ánh trăng thượng tuần nhợt nhạt hắt
vào song cửa sổ, nàng có thể nhìn thấy được nỗi xúc cảm của chàng
hiện lên trên nét mặt vốn nhiều trầm tư đó. Chàng cúi xuống hôn
Rahula. Rồi khẽ ngồi xuống giường, đặt nhẹ bàn tay ấm của chàng lên
má nàng. Bàn tay ấm đặt lên má và để yên như vậy vài phút. Yasodhara
nín thở, nén xúc động. Chàng không hay biết nàng đang thức. Chàng nhìn
ngắm nàng, nhìn ngắm con, thật lâu. Rồi chàng đứng dậy. Nước mắt
Yasodhara lăn dài, lăn dài. Nàng nằm yên nhìn chàng vén màn bước ra khỏi
phòng. Bóng chàng nhạt nhòa qua làn nước mắt của nàng. Nàng vẫn cứ nằm
yên, nước mắt lăn mãi, lăn mãi. Nhưng chàng bỗng quay trở lại, bước vào
phòng, đến cạnh giường, nhìn vợ con lần nữa. Hình như mắt chàng long
lanh, nàng cảm thấy vậy. Nàng muốn ngồi bật dậy để ôm lấy chàng, nhưng
nàng không thể. Và nàng cứ nằm đó, vờ nhắm mắt ngủ. Chàng khẽ nâng
nhẹ bàn tay nàng lên, hôn nhẹ. Chàng không biết nàng đang khóc. Chàng quay
qua vuốt tóc Rahula. Rahula cười hồn nhiên trong giấc ngủ. Chàng hôn lên
trán con rồi bước ra khỏi phòng. Lần này, bước đi chàng mạnh dạn hơn.
Nhưng đến cửa phòng, chàng lại dừng, quay đầu nhìn vợ con trước khi
khuất nhanh sau màn cửa. Yasodhara cứ nằm yên mà khóc một cách thầm lặng.
Nàng biết chàng đã lên đường, sẽ không quay lại nữa, trừ phi chàng
có thể tìm được một con đường, một phương thuốc để đem lại hạnh
phúc và lợi lạc cho muôn loài. Nàng đứng dậy bước đến bên cửa sổ,
nhìn ra ngoài trời đêm bao la. Một lúc lâu, có tiếng vó ngựa gõ vang ở
xa xa, đâu đó ngoài kinh thành.
*
Bây giờ, chàng đang trên đường về.
Cả hoàng thành nhốn nháo. Quốc vương Shuddodhana hân hoan thấy rõ. Ông lăng
xăng lui tới trong hoàng cung rồi đích thân cùng với Maha Pradjapati (dì của
Siddhàrtha) ra ngọ môn quan để đón rước Siddhàrtha vào thành. Ông cũng
cho người gọi Yasodhara cùng đi, nhưng nàng cáo bệnh, từ chối. Nàng ở lại
một mình trong phòng. Vén rèm nhìn qua cửa sổ. Nơi đây, nàng không thể
nhìn thấy được tận cổng thành. Chỉ nghe tiếng trống, tiếng kèn, tiếng
hò reo hân hoan của thần dân vương quốc Kapilavastu. Nàng biết quốc vương
Shuddodhana vẫn còn ảo tưởng, vẫn còn hy vọng rằng một khi Siddhàrtha đã
chịu trở về kinh thành, chàng cũng sẽ đồng ý gánh lấy sứ mệnh nối
ngôi vua cha để cai trị xứ này. Ông chỉ mong đợi chừng đó. Bây giờ,
nghe rằng chàng đã giác ngộ và trở thành một đạo sư du thuyết khắp
nơi, ông vẫn không từ bỏ niềm hy vọng của ông. Ông vui mừng đi đón
Siddhàrtha. Ông cho rằng, một bậc thế tôn—như người ta xưng tụng—cũng
có thể thay ông cai trị vương quốc Kapilavastu chứ không gì trở ngại cả.
Đức độ của vị thế tôn đó càng làm tăng thêm uy tín cho ngai vàng cũng
như càng làm vững mạnh thêm cho vương quốc này. Yasodhara không tin như vậy.
Nàng biết chàng đã tìm được con đường của chàng. Chàng đã tìm thấy
chơn lý. Và như vậy, chàng sẽ không bao giờ từ bỏ con đường của chàng
để trở về với những phù hoa ảo ảnh của cuộc đời—cho dù là cuộc
đời vương giả. Chàng đã tìm được thuốc hay và chàng sẽ mang thuốc
đó đi chữa bệnh cho nhân loại. Chàng đã kết thúc cuộc tìm kiếm của
chàng, nhưng chỉ mới bắt đầu con đường chữa trị cho kẻ khác. Chàng
vĩnh viễn không thuộc về tộc họ đế vương hạn hẹp này nữa. Chàng
là một đạo sư cao cả của thế gian—một kẻ mà những sợi tóc óng mướt
của nàng sẽ không bao giờ có thể cột trói được nữa—vậy thì nàng
đi đón chàng với tư cách gì đây. Ngay khi chàng còn bên cạnh, nàng đã cảm
nhận rằng chàng không thuộc về mình nữa. Huống chi giờ này, chàng đã
trở nên một con người khác, một con người với trí tuệ siêu việt, một
bậc thế tôn—tiếng đồn đã lan đi như vậy.
Yasodhara đứng bên rèm cửa sổ, lặng
yên nhìn hoa nở, lặng yên nhìn mây bay qua bầu trời. Lòng nàng lặng yên
một lúc rồi cuồn cuộn dâng dậy bao xúc cảm bình thường của một người
vợ. Đã mười năm rồi, xa cách nhau, không biết bây giờ chàng đã thế
nào? Chàng có được khỏe mạnh không? Bao năm lăn lóc với sương tuyết
trên núi cao, trong rừng thẳm, không biết chàng có mang bệnh trong người
không. Chắc là chàng phải gầy hơn xưa nhiều. Đôi mắt chàng, sáng đẹp
nhưng buồn làm sao! Nhưng chắc bây giờ chúng không còn vương buồn nữa vì
chàng đã tìm thấy những gì chàng mong đợi kiếm tìm. Càng suy nghĩ,
Yasodhara càng nghe rạo rực nôn nả trong lòng. Nhưng cuối cùng, nàng gạt
phắt đi tất cả. Nàng quỳ xuống bên cửa sổ. Hai tay vịn vào khung cửa,
gục mặt trên đó, tự nhắc nhở chính mình:
"Không, không, ta không thể ngăn
trở bước đi của chàng. Phải can đảm. Phải dứt khoát. Phải chia xẻ
cùng chàng sứ mệnh thiêng liêng đó."
Tuy đã tự nhủ như vậy mà mắt
nàng vẫn cứ đoanh lệ. Nàng cố nén tất cả nỗi đau trong lòng, ngước
nhìn lên trời cao như mong đợi sự tiếp sức của một thần linh nào để
nàng đủ nghị lực vượt qua những đau khổ thường tình hạn hẹp. Bất
chợt Rahula chạy xông vào gọi:
"Mẹ ơi, mẹ."
Yasodhara vội vàng lau nước mắt,
quay lại với con:
"Gì vậy Rahula, sao con không đi
đón cha?"
"Con đi với chú Ananda ra tuốt
ngoài kia rồi, nhưng con không muốn đi nữa, con muốn về đây với mẹ.
Sao mẹ không đi đón cha hở mẹ? Mẹ buồn hở mẹ?"
Nghe Rahula hỏi, Yasodhara cố nén tiếng
khóc, nói:
"Mẹ đâu có buồn. Cha con về
thì mẹ vui chứ. Con ngoan thì đi đón cha, vào đây với mẹ làm gì!"
"Mẹ đi thì con mới đi. Không
có mẹ con sợ cha quá à!"
"Đừng có vậy mà. Cha con hiền
lắm, ai gặp cũng quý mến. Mẹ thường kể cho con nghe rồi, con không nhớ
sao! Cha con thương người thương vật, tại sao con phải sợ chứ!"
"Thương người thương vật chứ
đâu có thương con!" Rahula phụng phịu nói.
"Nói bậy! Cha chỉ có mình con,
cha thương con lắm," nói ngang đây thì Yasodhara nghẹn ngào muốn ứa nước
mắt.
Nàng có thể hy sinh dâng tặng chồng
mình cho nhân loại, nhưng đứa con thơ Rahula này phải hy sinh người cha thì
đáng thương cho nó quá. Ngay từ lúc sơ sinh nó đã mất đi người cha này
rồi. Bây giờ, cha nó trở về... nhưng cũng không còn là cha nó như một
người cha thông thường nữa. Có thể sự trở về của chàng hôm nay càng
làm cho con buồn tủi hơn, vì chàng về rồi chàng sẽ đi. Đây không phải
là nơi chốn dừng nghỉ vĩnh viễn của chàng. Đã có lần chàng tâm sự với
nàng như vậy. Chàng nói rằng nếu một ngày nào đó chàng tìm được chân
lý, chàng sẽ đi muôn phương, đi khắp nơi nào có bóng dáng của khổ đau
để giáo hóa, vỗ về, đem lại hạnh phúc và an lạc cho tất cả mọi người.
Vậy thì, chàng sẽ lên đường sau khi thăm viếng và giảng dạy cho nhân
dân kinh thành Kapilavastu. Nếu chàng có dự tính thiết lập một nơi chốn
cố định để truyền đạo và phát huy tư tưởng giải thoát của chàng
thì nơi chốn đó sẽ không bao giờ là hoàng cung này. Một bậc thế tôn sẽ
không bao giờ làm như thế. Và trước tất cả mọi người, nàng biết rất
rõ rằng chàng không còn là sở hữu của riêng quốc gia nào, dòng dõi
nào, giai cấp nào, hay của riêng một người nào, dù người đó đã từng
là vợ chàng, Yasodhara, hay là con chàng, Rahula.
Nghẹn ngào một lúc, nàng gắng gượng
nói tiếp:
"Rahula à, cha thương con lắm,
nhưng cha cũng thương nhân dân đau khổ nữa. Chính vì vậy mà cha đã rời
hoàng cung để xuất gia tìm đạo đó. Mẹ đã nói con nghe điều này rồi,
phải không?"
"Dạ phải, mẹ đã nói. Mẹ
còn nói rằng cha đã trở thành một sa môn, một tu sĩ không nhà, chỉ sống
trong rừng sâu, dưới gốc cây, đúng không mẹ?"
"Đúng, nhưng bây giờ cha đã
trở thành một đức thế tôn, nghĩa là một vị đạo sư cao cả xứng đáng
cho mọi người trên thế gian kính ngưỡng quy phục."
"Như vậy... như vậy... cha có
trở về hoàng cung để làm vua không hở mẹ? Cha có về với mẹ, với con
không hở mẹ?"
Yasodhara ngập ngừng một chốc rồi
nói với hy vọng rằng Rahula cũng sẽ vui lòng chấp nhận sự vắng mặt của
Siddhàrtha nơi cung điện này:
"Một vị vua tài đức như ông
nội con cũng chỉ đủ sức đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân
Kapilavastu chứ không đem lại hạnh phúc cho nhân dân thuộc các vương quốc
khác. Ông nội con cũng chỉ có thể cai trị vương quốc này trong vòng mấy
mươi năm hạn cuộc chứ không thể cai trị vĩnh viễn. Ông nội con không
chăm sóc, không giải quyết được những đau khổ riêng lẻ của mỗi người
trong vương quốc này. Một bậc thế tôn thì khác. Khác lắm. Nhưng... con có
hiểu mẹ nói gì nãy giờ không vậy Rahula?"
Rahula nhanh nhẩu đáp:
"Thưa mẹ con hiểu. Con hiểu mẹ
nói rằng cha con đã trở thành một đức thế tôn thì cha con sẽ làm nhiều
việc to lớn hơn cả ông nội con nữa."
Yasodhara sung sướng ôm con vào
lòng:
"Ôi con thương yêu của mẹ,
con thông minh biết bao! Con mới được mười tuổi đầu mà tâm trí sáng
láng như vậy thực chẳng kém sút gì cha con thời ấu thơ. Mẹ kể con nghe
rồi phải không? Đúng, cha con thực là phi thường ngay từ thuở bé. Dù
lúc ấy còn nhỏ, mẹ cũng đã nghe được tiếng đồn về một đứa bé
trai đặc biệt ngang tuổi mẹ mà đã tỏ ra thông minh tột đỉnh. Sau này
mẹ còn nghe các hoàng thích, các cung nhân lớn tuổi kể lại nữa. Con thừa
hưởng tất cả những cái phi thường của cha. Nhưng... cha con thì đã... vậy
con phải..."
"Mẹ không muốn con theo cha, phải
không mẹ? Vì cha đã làm sa môn, cha đâu có làm vua thay thế ông nội. Mẹ
muốn con thay thế cha làm vui lòng ông nội, phải không hở mẹ?"
Yasodhara giật mình nhìn Rahula. Nàng
không ngờ con mình lại tinh ý đến như vậy.
"Rahula, con thật là hiểu chuyện.
Đúng, thay cha, thay ông nội trị vì vương quốc này chính là trách nhiệm
của con đó. Nhưng... điều mẹ muốn hỏi là..." ngưng một lúc,
Yasodhara quyết định hỏi thẳng, "nếu cha về thăm chúng ta xong rồi sẽ
ra đi trở lại thì con có buồn không?"
Rahula suy nghĩ một lúc rồi nói:
"Con buồn chứ. Con muốn có cha
bên cạnh mẹ để mẹ không buồn, để mẹ khỏi đến bên cửa sổ nhìn
ngóng hoài. Con cũng muốn có cha để cha dạy con bắn tên, múa kiếm, cưỡi
ngựa và học đọc sách nữa. Chú Ananda nói cha giỏi tất cả những môn
đó. Không có cha con buồn lắm. Mẹ cũng sẽ không vui được. Nhưng con
nghĩ lâu nay cha cũng đã xa chúng ta rồi mà. Nay biết được cha khỏe mạnh
và thành đức thế tôn thì con vui mừng rồi. Con không dám đòi cha về đâu,
để cha lo làm công việc của đức thế tôn."
Yasodhara nhìn Rahula, nàng khóc sung sướng.
"Đừng khóc nữa mẹ. Mẹ đi với
con ra đón cha đi."
"Mẹ không buồn đâu Rahula ạ.
Mẹ đang sung sướng đấy chứ. Nhưng mẹ không đi đâu. Con ngoan thì nghe lời
mẹ, hãy đi đón cha. Con sẽ thu thập được từ cha con nhiều điều hay đẹp
có lợi cho cuộc sống hằng ngày của con cũng như trong việc cai trị
vương quốc về sau này. Cha con có một kho tàng vô tận mà không ai trên thế
gian này có được."
"Kho tàng hở mẹ! Ô, thật
thích quá!"
Yasodhara mỉm cười:
"Ừ, một kho tàng vô giá, chỉ
riêng cha con mới có."
Rahula khuất dạng rồi mà nàng cứ
nhắc đi nhắc lại mãi câu ấy trong lòng. Một kho tàng vô tận mà không
ai trên thế gian này có thể có được.
*
Rahula ra khỏi dãy hậu cung, băng
ngang một dãy hành lang dài dẫn đến tiền cung. Khi Rahula đến nơi thì đức
Gotama (tức Siddhàrtha) cùng các đệ tử đã vào hẳn cung điện rồi. Từ
bên ngoài lén nhìn vào, Rahula thấy khoảng mười vị sa môn cạo nhẵn râu
tóc, mặc ca-sa bạc màu, lem luốc hoặc vá chùm vá đụp. Rahula ngạc nhiên
lắm. Cậu không ngờ rằng phụ thân mình—một thái tử—lại là một
trong những vị sa môn khổ hạnh bần hàn như vậy. Trước đây Rahula chỉ
nghe mẹ nói cha mình trở thành sa môn; nghe thì nghe vậy chứ không bao giờ
hình dung nổi là cha mình cũng ăn bận và sống đời đơn giản khổ hạnh
như các sa môn khác. Từ xa, Rahula không nhìn thấy rõ mặt cha, nhưng biết
cha mình đang ngồi trò chuyện cùng đức vua Shuddodhana. Các vị sa môn khác
thì đứng vây quanh. Rahula ngần ngại đứng bên ngoài một lúc, rồi hít mạnh
một hơi, mạnh dạn bước vào.
Đức vua Shuddodhana là người trông
thấy Rahula trước hết. Ông đang buồn lòng vì đứa con thân yêu
Siddhàrtha ăn bận y phục nghèo nàn của các sa môn mà đi khắp các vương
quốc, rồi trở về cố quốc cũng bằng thứ y phục nghèo nàn đó. Ông tiếp
Siddhàrtha và các sa môn mà trong lòng như tan vỡ. Ông không cần một đức
thế tôn. Ông chỉ cần một thái tử nối ngôi ông mà thôi. Siddhàrtha là
đứa con trai duy nhất cho ông nhiều hy vọng và cũng làm ông thất vọng
đau khổ nhiều nhất chỉ vì đứa con ấy không bước đi bằng những bước
chân bình thường của một người trai thế tục. Nay thấy Rahula bước vào,
ông như sực tỉnh. Ông biết rằng chỉ có Rahula mới là niềm an ủi duy
nhất, là người mà ông có thể tin tưởng để giao phó vương quyền trước
khi lìa đời. Ông biết rằng Siddhàrtha con ông sẽ không bao giờ chịu từ
bỏ đời sống phạm hạnh của sa môn để trở về cung điện này nữa.
Ông nói với Sidhàrtha khi Rahula còn từ xa bước đến:
"Nếu con nhất quyết như vậy,
ta cũng không còn cách nào khác hơn. Thôi thì để Rahula thay con nối nghiệp
ta vậy. Rahula kia kìa, nó mới mười tuổi mà thông minh đĩnh ngộ chẳng
khác chi con ngày xưa."
Siddhàrtha quay nhìn về hướng
Rahula, điểm một nụ cười chờ đợi.
Rahula quỳ xuống chào đức vua
Shuddodhana trước rồi quay sang Siddhàrtha, phụ thân của mình. Siddhàrtha
đưa tay vẫy, từ tốn gọi:
"Rahula, đến đây."
Rahula rón rén bước đến bên cha.
Cậu hãy còn ái ngại không biết phải xưng hô và biểu lộ cử chỉ như
thế nào cho thích hợp với sự liên hệ giữa mình và cha, giữa một người
thế tục và một đức thế tôn. Rahula không dám nhìn thẳng vào mắt cha.
Cúi đầu, bước nhẹ, Rahula đến đứng một bên Siddhàrtha. Siddhàrtha xoa
đầu con, nói những lời có vẻ như không có tình cảm đặc biệt riêng tư
gì nhưng thật là cảm động và đầy thương yêu:
"Rahula đây sao! Con thật mau lớn
ngoài sức tưởng tượng của ta!"
Đức vua Shuddodhana ứa lệ. Các sa
môn hầu cận Siddhàrtha cũng không khỏi nghẹn ngào.
Chỉ một câu nói đó, một cái xoa
đầu đầy thương yêu đó của Siddhàrtha, Rahula đã trở nên dạn dĩ, quỳ
xuống dưới chân cha, ngước nhìn cha. Rahula cảm thấy trong lòng tươi mát
hân hoan như thể được trầm mình trong dòng suối trong veo vào một ngày nắng
cháy. Nơi cha mình, Rahula cảm nhận một tình thương bao la bát ngát vượt
hẳn thứ tình cha con mà cậu hằng mong đợi. Nỗi hân hoan trong lòng Rahula
như kéo dài, lan tỏa ra, khiến cậu muốn quỳ mãi dưới chân cha và được
gần gũi cha mãi mãi. Một chốc, Rahula buột miệng nói:
"Cha ơi... ồ không... Thế tôn
ơi, con muốn theo Thế tôn suốt đời."
Siddhàrtha mỉm cười xoa đầu con,
nói riêng vào tai Rahula:
"Nếu con thực sự muốn, có
ngày con sẽ ở bên ta."
Vừa lúc đó, Yasodhara xuất hiện.
Mọi người cùng quay lại nhìn. Không khí trong cung bỗng như lắng lại.
Yasodhara đẹp một cách đằm thắm và đức hạnh. Nàng ăn mặc đơn sơ,
không mang đồ trang sức, không xông ướp hương hoa, chân trần bước nhẹ
vào cung, đứng lặng im một lúc hướng nhìn Siddhàrtha, người chồng yêu
dấu xa cách mười năm của mình. Đức vua Shuddodhana lâu nay có mặc cảm
là tộc họ mình đã không mang lại hạnh phúc cho công nương Yasodhara này
nên vừa thấy Yasodhara, ông liền nói, vừa đủ cho Siddhàrtha nghe:
"Khốn khổ thay cho Yasodhara, con
dâu ta! Mười năm nay nàng lặng lẽ trong cung phòng chờ đợi, nghe ngóng từng
ngày từng giờ những tin tức về con. Nàng đã từ chối tất cả những
tiệc vui, bỏ hết những trang sức xa hoa, bỏ luôn cả những bữa ăn thịnh
soạn của hoàng cung... Nàng muốn chia xẻ với con đó. Khi con tu khổ hạnh
trong rừng thì chính nơi cung phòng, nàng cũng đã sống một cuộc sống khổ
hạnh không kém. Ta thật đau xót cho nàng! Nhưng ta biết làm sao bây giờ!
Con... con hãy an ủi nàng. Chỉ có con mới xoa dịu được nỗi buồn của nàng
mà thôi."
Nói rồi, đức vua đứng dậy, bảo
rằng ông mệt cần nghỉ ngơi: ông muốn để Siddhàrtha và Yasodhara gặp gỡ
nhau trong không khí tự nhiên. Các quần thần hiểu ý cùng đứng dậy hộ
giá đức vua rời hoàng triều.
Yasodhara bước đến gần Siddhàrtha
hơn. Nàng nhìn chàng thật kỹ, nhìn từng nét. Chàng vẫn vậy, vẫn đôi mắt
đen láy ẩn sâu hai bên sóng mũi cao quý phái, vẫn đôi chân mày dài và
đen sẫm nổi bật dưới vầng trán cao ngất thông minh. Nàng run run bước
thêm vài bước gần chàng hơn. Vẫn không rời mắt nhìn chàng, nàng phát
giác có một vài đổi thay: chàng gầy và da xạm đen hơn xưa, và trong mắt
chàng, trên vầng trán chàng đã mất đi những nét ưu tư khắc khoải ngày
xưa. Chàng đã tìm thấy, đã nắm được một cách chắc chắn những gì
chàng hằng tìm kiếm.
Siddhàrtha ngồi yên không nói gì.
Chàng đưa tay ra dấu mời Yasodhara ngồi ở chiếc ghế đối diện. Nhưng
Yasodhara không ngồi. Nàng đứng im một lúc lâu, vẫn nhìn chàng. Rồi nàng
sụp xuống ôm lấy chân chàng. Nàng bật khóc nức nở. Nước mắt nàng rơi
trên bàn chân chàng. Những kỷ niệm xa xưa bất chợt trỗi dậy, trỗi dậy,
tuần tự theo thứ lớp thời gian: từ khi nàng nghe tiếng đồn về những
tài năng xuất chúng của chàng; từ khi nàng cùng vua cha và mẫu hậu ngồi
xem chàng thi văn võ cung kiếm với các hoàng thân của các lân bang để
được kết hôn nàng; từ khi hôn lễ được cử hành trọng thể với sự
ăn mừng của thần dân của hai vương quốc; từ khi nàng và chàng tham dự
các cuộc vui thâu đêm suốt sáng của triều đình; từ khi nàng và chàng dạo
chơi nơi ngự uyển mỗi đêm sáng trăng; từ khi nàng phát giác nàng có
mang Rahula; từ khi chàng nắm lấy tay nàng lần cuối trước khi rời hoàng
cung xuất gia; từ khi chàng tu khổ hạnh trong rừng sâu và nàng ngày đêm
ở lại hoàng cung nuôi con chờ đợi... Tất cả những kỷ niệm đẹp đẽ
thiêng liêng đó, không sót một chi tiết nào, lần lượt trôi qua tâm tưởng
nàng như một dòng sông êm. Dòng sông đó, nàng đã trải qua với bao hạnh
phúc của sự chiếm hữu, bao âu lo về sự gãy đổ chia ly của cuộc sống
chung. Bây giờ nó được chảy lại, chỉ trong vài khoảnh khắc thôi, nhưng
thật rõ nét như thể chính nó tự biết rằng nó sẽ không còn có thể chảy
trôi lại như thế được bao giờ. Nàng biết, nàng thấy rất rõ rằng tuổi
xuân, ái tình, những mộng đẹp và cả những hy vọng hão huyền cuối
cùng của nàng gần đây—rằng chàng sẽ trở về mãi mãi bên mẹ con
nàng—tất cả đã thực sự trôi đi rồi. Trôi đi như dòng sông kỷ niệm
kia, trôi đi theo dòng lệ nóng này. Phải, nàng đã cho chúng trôi đi. Nàng
chia xẻ cùng chàng. Nàng hy sinh, vui lòng hiến tặng chàng cho nhân thế, cho
niềm hạnh phúc hân hoan của muôn loài. Nhưng nàng vẫn cứ khóc và thấy
đau buốt thế nào ấy trong lồng ngực mình.
Các sa môn đệ tử của Siddhàrtha
chứng kiến cảnh này đều bối rối nhưng cũng không khỏi bùi ngùi cho người
vợ trẻ của thầy mình. Có người nghĩ rằng Yasodhara thật đáng thương,
nhưng công nương không nên ôm chân đức thế tôn và nhỏ những giọt lệ
nhi nữ trên chân người như vậy. Siddhàrtha thì điềm tĩnh, để mặc cho
nàng khóc và ôm lấy chân mình. Chàng biết nàng hành động như vậy là đã
cố gắng lắm rồi. Nàng là một thiếu phụ đức hạnh, nhiều nghị lực,
nhưng điều đó không có nghĩa rằng nàng sẽ dễ dàng chấp nhận một cuộc
chia tay vĩnh viễn với chồng ngay khi chàng đang còn sống và đang đối diện
mình. Chàng ôn tồn nói:
"Yasodhara, ta thật không biết
nói sao để cảm ơn nàng. Trong đời học đạo và hành đạo của ta, không
phải rằng nàng là người đã chia xẻ cùng ta một cách lặng lẽ và ý nhị
nhất đó sao! Những gì ta cống hiến cho thế gian này đều có ẩn tàng
bên trong sự đóng góp thầm lặng cao cả của nàng. Hãy tiếp tục chia xẻ
cùng ta sứ mệnh đó hỡi Yasodhara!"
Yasodhara không nói gì, chỉ biết
khóc. Rahula nhìn mẹ nghẹn ngào. Không khí lúc ấy bỗng im phắc, chỉ nghe
tiếng nấc của Yasodhara.
Nghe thầy nói những lời vừa khen
tặng, vừa an ủi với người vợ xưa như vậy, các sa môn có mặt đều xúc
động và tin tưởng sự trong sáng thanh cao của cả thầy mình lẫn công nương
Yasodhara. Một vị sa môn bỗng bước ra trước Siddhàrtha cung kính nói:
"Kính lễ đức Thế tôn, hàng
môn đồ chúng con cũng nghiêng mình cảm tạ ân đức của công nương
Yasodhara. Chính nhờ sự hy sinh đóng góp một cách cao cả và thầm lặng của
công nương mà đức Thế tôn vượt qua được những ràng buộc tình cảm,
dõng mãnh hơn trên đường tìm đạo để cuối cùng chứng thành đạo quả
vô thượng, dìu dắt chúng con và nhân loại tiến đến giải thoát giác ngộ."
Siddhàrtha cúi xuống Yasodhara nói:
"Đúng vậy, Yasodhara đã chia xẻ
cùng ta từ phút đầu, và sẽ tiếp tục chia xẻ cùng ta mãi mãi sứ mệnh
đó. Phải không, Yasodhara? Nàng hãy nói đi."
Yasodhara rời Siddhàrtha, vẫn quỳ dưới
nền đất, chậm nước mắt rồi ngước lên nói:
"Kính lễ Gotama... đức Thế tôn...
người tìm thấy bình an giải thoát là Yasodhara mãn nguyện rồi. Xin hân
hoan chúc mừng Thế tôn."
Rồi Yasodhara đứng dậy, cáo lui.
Siddhàrtha và các đệ tử đều thấy rất rõ nét mãn nguyện trong sáng
trên khuôn mặt Yasodhara khi nàng rời khỏi triều. Rahula cũng cáo từ
Siddhàrtha để chạy theo mẹ. Nhưng đến ngang bậc cửa, Rahula như nhớ điều
gì, dừng chân rồi quay trở lại bên cha.
"Thế tôn, có phải ngài có một
kho tàng vô tận mà chẳng ai có được, phải không? Ngài hãy cho con xem kho
tàng ấy đi."
Siddhàrtha mỉm cười nói:
"Tất cả những gì có sinh ra tất
phải có lúc hủy diệt. Nếu con mong đợi nơi ta một kho tàng ngọc ngà
châu báu, con sẽ thất vọng. Vì ngọc ngà châu báu không mua được sự bình
an giải thoát cho con người. Ta chỉ có niềm tịch lặng vô biên của tự
tâm, ngàn đời không hư hao, không giảm bớt. Kho tàng của ta chỉ có thế.
Nhưng để thấy được kho tàng này, con phải có trí tuệ siêu việt để
chặt đứt tất cả những dây mơ rễ má của phiền não chằng chịt phủ
lấp cái kho tàng đó. Sao, con có thích tìm thấy kho tàng đó không?"
"Kính lễ đức Thế tôn, con
thích lắm. Nhưng... con phải theo mẹ bây giờ. Con xin kính chào Thế
tôn."
*
"Mẹ ơi, sao khi nãy gặp cha mà
mẹ lại khóc. Mẹ đau khổ lắm hở mẹ? Mẹ không vui khi cha trở thành sa
môn, trở thành thế tôn và không trở lại với mẹ con ta, phải không mẹ?"
"Đâu có, Rahula. Mẹ đâu muốn
ngăn cản bước đi của cha con. Mẹ đã vui lòng chấp nhận sự chia tay với
cha con để người có thể tận tụy chăm sóc cho nỗi khổ đau của mọi
người."
"Vậy sao mẹ khóc nhiều vậy,
con không hiểu. Con thấy mẹ có vẻ... đau khổ nhiều quá."
"Đừng nghĩ vậy Rahula. Con có
nhớ tháng trước mẹ nhổ cho con cái răng cửa không?"
"Nhớ chứ mẹ."
"Trước khi để mẹ nhổ, con có
biết là nhổ răng sẽ đau không?"
"Dạ biết chứ."
"Vậy sao con vẫn đồng ý cho mẹ
nhổ?"
"Vì con không muốn giữ lại
cái răng sâu chỉ làm đau con suốt ngày suốt đêm. Với lại, mẹ nói rằng
phải nhổ cái răng sâu đó thì răng mới, tốt hơn mới mọc được."
"Con bằng lòng để mẹ nhổ
răng, vậy khi mẹ nhổ con có thấy đau không?"
"Dạ... đau điếng."
"Rồi con vừa đau vừa khóc, phải
không?"
"Dạ, phải."
"Biết rõ nhổ răng là tốt, bằng
lòng để người ta nhổ răng cho mình, vậy mà cũng đau cũng khóc chứ đâu
có khỏi!"
Rahula cười thẹn:
"Sao mẹ không trả lời con mà
lại đi nói chuyện nhổ răng vậy mẹ?"
"Vì chuyện khi nãy mẹ khóc dưới
chân cha con, đức Thế tôn, cũng tương tợ chuyện nhổ răng của con vậy
thôi. Mẹ rất vui lòng để cha con ra đi, trở thành sa môn, và trở thành
đức Thế tôn để cứu khổ ban vui cho muôn loài. Nhưng... chia tay với cha
con, mẹ cũng thấy đau lắm chứ."
"Mẹ đau ở đâu vậy mẹ? để
con xoa cho mẹ há."
"Mẹ đau ở đây nè, nơi ngực,
ngay nơi tim mẹ đây."
*
Ngày hôm sau đức Gotama (Siddhàrtha)
giảng kinh cho hoàng cung. Rahula theo mẹ đến nghe.
Gotama diễn tả về sự thống khổ
của kiếp người mà không ai trên thế gian có thể tránh khỏi dù kẻ ấy
được sinh trong hoàng cung hay từ một túp lều xiêu vẹo của những người
cùng đinh nô lệ. Sinh, già, bệnh, chết, là những nỗi khổ mà Gotama nhấn
mạnh. Sau đó, người vạch rõ đâu là những nguyên nhân đưa đến thống
khổ. Rồi người ca ngợi về niết-bàn, trạng thái an tĩnh giải thoát của
tâm linh mà bất cứ ai cũng có khả năng đạt đến được nếu cố gắng
và tu tập đúng phương pháp. Cuối cùng, ngài chỉ dạy phương pháp để
đạt đến niết-bàn. Đó là con đường trung đạo với Bát Chánh Đạo.
Khi Gotama chấm dứt buổi giảng, cả
hoàng cung đều thấy hân hoan an lạc như tìm được lối đi sau những đêm
dài mờ mịt. Nhiều hoàng thân phát tâm xuất gia, được đức Gotama cho phép
cạo bỏ râu tóc ngay tại chỗ.
Rahula nghe pháp xong cũng thấy chấn
động cả tâm hồn. Từ khi đức Gotama về thăm hoàng cung, Rahula đã nhen
nhúm một ước muốn gì đó trong lòng mà cậu chưa nhìn rõ được. Nay thấy
chú Ananda (anh em chú bác của Siddhàrtha) và các hoàng thân xuất gia, Rahula
hiểu ngay rằng có lẽ con đường thích hợp của mình chính là con đường
xuất gia, trở thành sa môn y như thân phụ Siddhàrtha. Rahula nhớ lần đầu
tiên gặp lại cha, chính đức Gotama đã nói với cậu rằng: "có ngày
con sẽ ở bên ta". Câu đó hẳn hàm ý đức Gotama sẽ chấp thuận cho
Rahula xuất gia nếu Rahula xin phép. Nhưng nhìn vào phái đoàn sa môn đi theo
đức Gotama, Rahula thấy chẳng có vị nào nhỏ tuổi như mình. Rahula suy nghĩ
mông lung. Không biết đức Gotama có cho phép cậu xuất gia hay không. Có lẽ
muốn xuất gia, cậu phải chờ cho đến khi cao lớn như chú Ananda mới được
cho phép. Như vậy thì lâu quá. Rahula muốn trở thành sa môn ngay bây giờ.
Không thể chờ đợi được. Rahula sẽ thưa với mẹ điều đó, nhờ mẹ
giúp đỡ, ngay hôm nay.
Rahula vào gặp mẹ trong cung phòng của
bà. Thấy Rahula bước vào với vẻ đăm chiêu rất dễ thương của một đứa
trẻ, Yasodhara vừa cười vừa hỏi:
"Con bận tâm điều gì mà có vẻ
nghiêm trọng vậy? Thật giống cha con hồi trước, chẳng khác chút
nào!"
Rahula quỳ xuống bên mẹ, hôn lấy
tay bà rồi nói:
"Nghe Gotama nói pháp mẹ có
thích không hở mẹ?"
"Hay lắm. Phải là một bậc
giác ngộ hoàn toàn mới có thể diễn bày chân lý một cách rõ ràng và tường
tận như vậy. Nghe xong là mẹ muốn... xuất gia thành sa môn. Tiếc rằng tăng
đoàn của đức Gotama không thu nạp người nữ."
"Phải rồi, con không thấy người
nữ xuất gia trong hàng đệ tử của đức Gotama. Con cũng không thấy những
người sa môn nhỏ tuổi như con. Sao vậy mẹ, sao đức Gotama không cho người
nữ và người nhỏ tuổi đi tu?"
"Có lẽ Gotama cho rằng sự có
mặt của người nữ sẽ gây phiền phức cho đời sống phạm hạnh của
tăng đoàn; huống chi, giáo pháp của Gotama cao xa khó hiểu, người nữ đa
phần vô học làm sao thấu đạt được!"
"Vậy còn những người nhỏ tuổi
như con thì sao? Sao không thấy ai được Gotama cho phép xuất gia hết vậy?"
"Tuổi của con ư?" Yasodhara
bật cười, "tuổi của con biết gì mà xuất gia! Xuất gia đâu phải
là chuyện chơi, con không biết vậy sao! Nếu Gotama cho những đứa con nít
vào tăng đoàn thì... chắc người phải mất công lau mũi cho chúng! ủa,
mà sao con lại hỏi chuyện đó? Bộ con muốn... con muốn xuất gia sao?"
"Dạ phải, con muốn xuất gia
thưa mẹ. Mẹ thưa với Gotama giúp con đi mẹ!"
"Trời ơi! Cha con xuất gia thành
sa môn, thành Thế tôn rồi, chưa đủ hay sao mà con lại muốn theo cha, bỏ
mẹ!"
"Con đâu có bỏ mẹ. Con xuất
gia mà. Xuất gia đâu phải là chết mất tiêu đâu mà mẹ sợ?"
"Nhưng, như vậy cũng chẳng khác
gì con bỏ mẹ rồi. Con không muốn gần gũi bên mẹ nữa sao?"
"Dạ... dạ muốn chứ, nhưng rồi
cũng có ngày con phải xa mẹ thôi. Gotama nói đâu có gì còn mãi trên thế
gian đâu."
"Đành là vậy, nhưng... trời
ơi! Biết nói sao với con đây! Tóm lại, mẹ không bằng lòng chuyện con xuất
gia chút nào. Huống chi, ông nội và cả hoàng cung này đều trông cậy nơi
con. Con không nhớ rằng ngôi vua của xứ Kapilavastu đang chờ đợi con hay
sao?"
"Con nhớ chứ, nhưng điều đó
có gì quan trọng đâu mẹ! Chính mẹ cũng đã nghe Gotama nói rằng không có
sự vật nào tồn tại lâu dài. Ngai vàng cũng vậy thôi mà."
"Nhưng con bỏ đi thì ai sẽ
thay ngôi vua?"
"Người nào thích thì để họ
làm vua, đâu có sao đâu! Tại sao vương quốc này bắt buộc phải là của
tộc họ Sàkya chứ?"
"Bởi vì... bởi vì... là của
dòng Sàkya. Chuyện này quan trọng lắm. Con chưa đủ tuổi để hiểu đâu.
Nói tóm là con không nên làm ông nội thất vọng lần nữa. Vả lại..."
(nói đến đây thì Yasodhara đổi thành vui, như tìm được chỗ nương tựa
chắc chắn, không lo sợ nữa), "con cũng không cần phải bận tâm chi
chuyện xuất gia: Gotama đâu có cho phép những người nhỏ tuổi tham dự vào
tăng đoàn của người đâu mà con ham!"
"Con sẽ yêu cầu Gotama cho phép
thiếu niên xuất gia."
"Con yêu cầu?" Yasodhara lại
bật cười, "ai mà nghe con. Nhìn các đạo khác con cũng sẽ thấy, có
đạo nào có con nít xuất gia bao giờ!"
"Nhưng giáo pháp của Gotama sẽ
mở đường cho tuổi thiếu niên của con."
"Sao con biết?" Yasodhara vừa
hỏi vừa cười.
"Vì hôm qua Gotama giảng rằng tất
cả mọi người đều có khả năng giác ngộ, có khả năng trở thành một
đức thế tôn như ngài."
Yasodhara giật mình chưng hửng một
lúc, rồi nói:
"Điều đó không chứng tỏ rằng
Gotama sẽ cho phép thiếu niên xuất gia. Tại sao không chờ cho những thiếu
niên đó trưởng thành để tự chọn lựa và quyết định lý tưởng của
họ chứ. Xuất gia sớm vào tuổi thiếu niên có lợi gì đâu! Chỉ thêm
phiền cho Gotama và môn đồ của người mà thôi."
"Có lợi lắm mẹ ạ. Nhưng...
để con thưa với Gotama cái đã. Con biết chắc Gotama sẽ bằng lòng cho con
xuất gia mà. Bây giờ con đến gặp Gotama nghe."
"Khoan... con ngồi đây chờ đi.
Để mẹ đến gặp Gotama xin cho con trước, nếu không được thì con ra năn
nỉ Gotama sau. Được không?"
"Mẹ đồng ý xin phép cho con rồi
hả?" Rahula mừng rỡ hỏi.
Yasodhara chỉ ậm ừ trong họng, lại
bảo:
"Ngồi đó, không được đi đâu.
Chờ mẹ đến trình Gotama."
"Dạ, mẹ đi đi mẹ. Con sẽ ngồi
đây chờ. Con biết mẹ xin đức thế tôn sẽ cho phép mà. Nhớ nói là con,
Rahula, muốn xin xuất gia, chứ đừng nói có một đứa bé trong hoàng cung
xin xuất gia nghe mẹ."
Yasodhara dừng lại ở cửa, quay lại
nói:
"Con làm như nói tên con ra thì
Gotama sẽ thay đổi điều lệ của giáo hội vậy! Bộ con không biết rằng
đối với một bậc thế tôn đã giải thoát giác ngộ thì..."
Nói đến đây, Yasodhara bỗng đổi
ý, ngưng ngay, rồi đi.
Yasodhara lòng bối rối, lo âu, kinh
sợ viễn ảnh đứa con thơ cũng sẽ rời bỏ mình và hoàng cung để theo
cha nó sống lang thang khổ hạnh ngoài sương gió. Nàng vội vã đi tìm đức
Gotama và được biết người đang thuyết giảng lần nữa cho các công tôn
vương tử lẫn các vị đại thần trong hoàng thành. Đến nơi, Yasodhara thấy
một đám đông cử tọa gần hai trăm người đang chăm chú nghe đức Gotama
nói pháp. Nàng không biết sao để thưa riêng với đức Gotama về việc
ngăn chận ý định xuất gia của Rahula. Nàng lặng lẽ quỳ mọp xuống đất,
như mọi người, để chờ đợi đức Gotama chấm dứt thời pháp. Lòng
nàng nóng như lửa bỏng, cứ thấp thỏm chờ đợi, không tâm trí đâu mà
nghe pháp. Vậy đó mà những lời dạy của đức thế tôn cũng thấm và
lan nhẹ vào lòng nàng. Nàng nghe thật rõ đức Gotama nhấn mạnh rằng bất
cứ ai cũng có khả năng thành Phật. Cái khả năng đó không có sự khác
biệt nhiều hay ít, to hay nhỏ nơi giới hạn giai cấp, tuổi tác, nam nữ...
của mọi người. Đó là một khả năng tiềm tàng một cách bình đẳng
nơi tất cả mọi loài. Nàng càng lo sợ hơn. Nàng muốn xua đi những lời
dạy ấy. Nàng không muốn nghe. Nàng muốn thưa ngay với đức Thế tôn rằng
nàng đã mất người chồng rồi, nàng không muốn mất thêm đứa con
thương yêu nữa. Nàng sẽ không có sức chịu đựng nhiều đến như vậy.
Tuyên ngôn của Thế tôn làm rúng động chao đảo chủ thuyết của các học
phái thời danh trong nước thì cũng làm run sợ tâm tư người mẹ đang bấu
víu vào tình mẫu tử này. Không phải Rahula và cả chính nàng, Yasodhara, cũng
đã từng bị xao động bởi tuyên ngôn đó hay sao. Tuyên ngôn đó mở đường
cho mọi người, mọi tầng lớp. Người ta ồ ạt bố thí nhà cửa, từ bỏ
quan quyền tước vị để xin xuất gia theo Thế tôn. Nếu không sớm ngăn
chận, chắc chắn Rahula có ngày sẽ rời bỏ cung điện để thành sa môn.
Đang băn khoăn lo nghĩ, nàng bỗng
giật mình thấy mọi người quỳ rạp kính lễ đức Gotama để lui ra. Biết
thời pháp đã xong, nàng vội đứng dậy lần dò đến chỗ đức Gotama để
trình bày sự việc của Rahula.
Gotama như đọc được nỗi lo âu
trên nét mặt và dáng điệu nàng, liền hỏi ngay lúc nàng quỳ xuống thi lễ:
"Yasodhara, người có việc gì bận
tâm lắm sao? Hãy nói đi xem ta có giúp gì được không."
Những lời của đức Gotama như khích
lệ sự giải bày, Yasodhara vội nói:
"Kính lễ Thế tôn,
Rahula..."
"Rahula thế nào? Có phải nó
tinh nghịch làm cho người không vui?"
"Thưa không... Yasodhara xin hỏi
trước đức Thế tôn... rằng có phải Thế tôn rất tán đồng việc
Rahula thay cha nối ngôi vua sau khi phụ vương băng hà hay không?"
"Phải, ta rất tán đồng việc
đó."
"Như vậy, có phải rằng Thế
tôn cũng sẽ nỗ lực can ngăn Rahula khi nó có ý định rời bỏ hoàng cung
hay không?"
"Phải, ta sẽ can ngăn nếu
Rahula rời bỏ hoàng cung để rong chơi sa đà."
"Không, Rahula không rời hoàng
cung để rong chơi sa đà, mà để xuất gia theo chân Thế tôn."
"Vậy sao? Ta chưa biết điều
đó. Ta chưa chấp thuận việc xuất gia của Rahula và Rahula cũng chưa tỏ
ý đó với ta bao giờ, ngoại trừ lần đầu gặp ta Rahula có nói Rahula muốn
sống bên cạnh ta."
"Vậy Thế tôn có khích lệ
Rahula xuất gia ngay lúc đó không?"
"Không, Yasodhara. Ta chỉ nói nếu
Rahula thực sự muốn thì có ngày nó sẽ được ở bên ta. Điều này chỉ
là một hứa hẹn và chỉ có ý nghĩa khích lệ đối với Rahula nếu nó thực
sự muốn xuất gia."
"Ôi, quả thật Rahula đã ngỏ
ý muốn xuất gia, Yasodhara biết làm sao đây. Thế tôn hãy ngăn cản nó.
Yasodhara chỉ còn có mỗi một Rahula mà thôi..."
"Đừng lo, Rahula chưa đến tuổi
trưởng thành mà. Tăng đoàn của ta đâu có chấp thuận cho thiếu niên xuất
gia."
"Nói như vậy, có nghĩa rằng
Thế tôn sẽ cho phép Rahula xuất gia khi nó đủ tuổi. Vậy thì chỉ tám đến
mười năm sau là nó cũng rời hoàng cung, rời Yasodhara để xuất gia rồi."
"Nếu nó không có căn duyên xuất
gia, không mang chí xuất trần thật mãnh liệt thì trong vòng ba năm sau nó sẽ
quên lãng chuyện hôm nay. Nhưng nếu nó thực sự muốn xuất gia để tìm cầu
giác ngộ, ta nghĩ rằng sự cấm đoán, ngăn cản nó không phải là điều
hợp lý và có hiệu quả tốt. Huống chi, xuất gia học đạo giải thoát
là điều đáng khích lệ chứ!"
"Không, không thể như vậy được.
Rahula không thể xuất gia. Yasodhara biết xuất gia là điều cao quý khó
làm, nhưng Yasodhara không bao giờ vui lòng để cho Rahula ra đi. Thế tôn hãy
vì Yasodhara, hãy vì tộc họ Sàkya mà ngăn cản ý định xuất gia của nó.
Kính lễ Thế tôn, xin người đừng chấp thuận cho Rahula xuất gia..."
Gotama im lặng trầm ngâm một lúc,
rồi trấn an Yasodhara:
"Được rồi, ta sẽ cố gắng.
Tuy nhiên, hãy chờ xem những ngăn trở của ta có thắng nổi ý chí của
Rahula hay không mới là điều quan trọng. Đối với những kẻ có chí lớn,
ta không bao giờ dám tin rằng có thể có một phương cách trói buộc tầm
thường nào cản ngăn được bước chân của họ. Nhưng người hãy yên
tâm, và hãy nói với Rahula rằng giáo đoàn của ta chỉ khứng nhận những
kẻ đủ tuổi trưởng thành xuất gia mà thôi."
Yasodhara quày quả trở lại tư phòng.
Rahula đang chồm lên cửa sổ, nhìn ra ngoài mong ngóng nàng. Thấy mẹ trở
về, Rahula mừng rỡ chạy a đến hỏi ngay:
"Sao mẹ? Đức Thế tôn nói sao
hở mẹ?"
"Con đừng trách mẹ. Mẹ cố gắng
lắm nhưng không xin được cho con. Thế tôn nói tăng đoàn của người không
cho phép thiếu niên xuất gia. Con mới có mười tuổi thì làm sao Thế tôn
cho phép được."
"Con đã gần mười một tuổi
rồi mà. Đâu phải mười tuổi."
"Mười một tuổi cũng chưa đủ
thiếu gì! Phải hai mươi tuổi mới được gọi là trưởng thành!"
"Hai mươi tuổi!" Rahula đếm
các đầu ngón tay, "mười hai, mười ba, mười bốn, mười lăm... mười
chín, hai mươi! Chín. Chín năm nữa. Con không chịu đâu! Con phải xuất gia
ngay bây giờ."
"Tại sao phải ngay bây giờ mà
không phải là chín năm nữa. Bộ không xuất gia bây giờ thì chết đi
sao?" Yasodhara không nén được buồn bực.
Rahula nhìn mẹ ái ngại, rồi nhỏ
giọng năn nỉ:
"Con xin lỗi mẹ, nhưng... con không
biết sao nữa, tự dưng con muốn xuất gia quá. Mẹ cho con đi gặp Thế tôn
nghe."
Yasodhara ôm Rahula vào lòng, trìu mến
xoa đầu con:
"Thôi được, con muốn trực tiếp
gặp Thế tôn thì con cứ đi. Mẹ không cản con nữa. Nhưng, như mẹ đã
nói trước, Thế tôn không bằng lòng cho thiếu niên xuất gia đâu."
"Con sẽ yêu cầu Thế tôn. Con
đi nghe mẹ."
Rahula bá cổ mẹ, hôn lên má
Yasodhara rồi vụt chạy đi. Yasodhara lắc đầu nhìn theo, vừa cười vừa
khóc.
*
"Rahula, vào đi. Sao còn đứng lấp
ló làm gì?" Gotama nói.
Rahula rụt rè xuất hiện ở cửa rồi
bặm môi, mạnh dạn bước vào, quỳ xuống thi lễ Gotama. Gotama nghiêm nghị
hỏi:
"Rahula hôm nay đến gặp ta có
việc lành gì chăng?"
Rahula không ngước lên, nói từng
tiếng rõ ràng:
"Thế tôn, con Rahula, hôm nay đến
xin Thế tôn cho phép con được xuất gia."
Gotama mỉm cười không nói. Người
nhìn quanh để xem phản ứng của các môn đồ. Người thấy rất rõ đại
chúng bàng hoàng xúc động khi nghe vương tôn Rahula bày tỏ ý nguyện xuất
gia. Không ai có thể tưởng được một cậu bé mười tuổi, một vị vua
tương lai của xứ sở này lại tự nguyện xin xuất gia.
Gotama vẫn nghiêm giọng, nói với
Rahula:
"Tăng đoàn của ta chưa có điều
lệ khứng nhận những kẻ vị thành niên xuất gia. Con hãy còn quá nhỏ để
tham dự vào tăng đoàn của ta."
Rahula dõng dạc nói:
"Con nghe Thế tôn dạy rằng tất
cả mọi người đều có khả năng thành Phật. Như vậy hàng thiếu niên
chúng con cũng có khả năng đó. Chúng con có thể xuất gia và thành Phật
như Thế tôn và các sa môn khác."
"Phải, ta đã từng dạy như thế.
Nhưng đó là đứng về mặt pháp tánh mà nói; riêng về mặt tâm lý, trí
tuệ, thì tuổi thiếu niên hãy còn bồng bột, non dại, chưa đủ trưởng
thành và chín chắn để tiếp thọ giáo lý cao siêu cũng như chịu đựng
cuộc sống kham khổ bần hàn của sa môn."
"Con sẽ thực tập thiền định
để tiếp thọ giáo lý, sẽ trau luyện ý chí để chịu đựng kham khổ."
"Tăng đoàn của ta không ai rảnh
rỗi để chăm sóc con như mẹ con đã làm."
"Con tự biết chăm sóc cho
chính con."
"Đời sống sa môn cực nhọc,
dầm sương dãi nắng, ăn uống kham khổ, ngủ nghỉ ít giờ, thiếu niên
làm sao chịu nổi!"
"Con sẽ chịu nổi."
"Sa môn thực hành hạnh khất
thực, mỗi ngày phải tự nguyện đi xin ăn độ nhật, con là vương tôn
quen mùi phú quý vinh hoa làm sao theo được!"
"Thế tôn làm được, con cũng
sẽ làm được."
"Hạnh sa môn suốt đời tự
nguyện sống độc thân, không vợ không con, không nhà không cửa, xa lìa
tình cảm gia đình và họ hàng thân thuộc để giốc lòng cầu đạo giải
thoát, con liệu có kham nổi hay chăng?"
"Con sẽ kham nổi."
"Dù con quyết tâm như vậy, ta
vẫn chưa dám tin rằng cho phép những thiếu niên xuất gia là điều nên
làm. Và làm sao ta có thể vội tin rằng con sẽ giữ được, làm được những
gì con hứa! Huống chi, đạo lý cao siêu của ta, tuổi con bé bỏng làm sao
tiếp nhận được!"
Rahula vẫn quỳ mọp không ngước lên,
nói rất cứng rắn:
"Kính lễ đức Thế tôn, năm
xưa Thế tôn một mình tìm chân lý, phải cực nhọc khổ sở, trải qua nhiều
năm mới thành đạo cả, là bởi không người dẫn đường, dìu dắt, mà
do chính Thế tôn tự tìm thấy. Bây giờ, chân lý đã sáng tỏ, đường
đi cũng rõ ràng, lại có Thế tôn dìu dắt thì dù cho con bé bỏng, chắc
chắn cũng có ngày thành công."
"Đáng khen, Rahula! Tuy nhiên, vẫn
chưa có gì chứng minh rằng con sẽ quyết tâm từ bỏ cung vàng điện ngọc
để theo ta xuất gia. Con hãy chứng minh đi!"
Rahula vẫn quỳ sát đất, úp mặt
trên hai tay, suy nghĩ cách chứng minh ý nguyện của mình. Im lặng chừng một
khắc, Rahula đã trả lời Gotama ngay:
"Kính lễ Thế tôn, nếu không
được phép xuất gia, con nguyện quỳ mãi nơi đây không đứng dậy."
Gotama nhìn Rahula, vừa buồn cười
mà cũng vừa sửng sốt trước thái độ và cử chỉ cương quyết một cách
dễ thương của cậu bé. Tình thế này buộc Gotama phải đắn đo, cân nhắc
giữa ý chí quyết liệt của Rahula và sự thỉnh cầu của Yasodhara, chưa
biết quyết định sao. Bỗng thấy Yasodhara từ đâu vụt hiện phía trước,
cúi mình thi lễ Gotama rồi vội vàng thưa:
"Kính lễ Thế tôn, Rahula hãy
còn nhỏ dại, e rằng không kham chịu được đời sống khắc khổ khuôn
phép của tăng đoàn, xin Thế tôn suy xét kỹ lưỡng trước khi quyết định."
Gotama ôn tồn:
"Yasodhara, ta vẫn chưa quyết định
gì dù rằng ý chí của Rahula đã tỏ rằng Rahula không chịu chùn bước
trước bất cứ trở lực nào. Có lẽ nàng cũng đã chứng kiến và nghe
được những gì Rahula nói, phải không?"
"Thưa Thế tôn, Yasodhara đã
nghe thấy, nhưng... thật khó mà chấp nhận."
Rahula nghe được tiếng mẹ, vẫn
không ngước lên, nói thật cương quyết:
"Kính lễ Thế tôn, kính lễ
các Thánh tăng, kính thưa mẹ, xin đừng coi thường hàng niên thiếu chúng
con. Nếu giáo đoàn của Thế tôn không thể hay không bao giờ mở cửa đón
nhận con chỉ vì con còn nhỏ tuổi thì con xin noi gương Thế tôn vượt thành
xuất gia để tìm chân lý."
Gotama và đồ chúng vây quanh lại
thêm một phen kinh động trước sự quyết tâm của Rahula. Yasodhara cũng giật
mình, sợ hãi, vừa thương con, vừa cảm kích ý nguyện sắt đá của con,
rưng cả nước mắt. Một vị trưởng lão trong số các đại đệ tử của
Gotama bước ra thi lễ Gotama rồi cung kính thưa:
"Kính lễ đức Thế tôn, lành
thay ý nguyện của Rahula, cao cả thay ý nguyện của Rahula, tuổi trẻ chí lớn,
xứng đáng làm gương cho hàng thiếu niên có tâm nguyện xuất trần của
muôn đời sau. Xin Thế tôn từ bi hứa khả cho vương tôn Rahula."
Một vị sa môn khác lại bước ra
thi lễ rồi thưa:
"Đúng vậy, Thế tôn. Xin đừng
phụ lòng vương tôn Rahula. Chí nguyện xuất gia của vương tôn là việc hy
hữu khó có, khó thực hiện. Hàng thiếu niên của ngàn thế hệ sau cũng sẽ
nhờ nhân duyên xuất gia hy hữu này mà được tiếp thọ giáo pháp cao
siêu của Phật đà ngay từ tuổi ấu thơ dễ uốn nắn. Con tin rằng việc
cho phép niên thiếu xuất gia là điều đáng làm, đáng thay đổi trong sinh
hoạt tăng đoàn. Xin Thế tôn hoan hỷ chấp thuận sự thỉnh cầu của vương
tôn Rahula."
Gotama chưa trả lời. Người im lặng
suy tưởng trong vài khắc. Cả hội trường im lặng chờ đợi. Bỗng đức
vua Shuddodhana xuất hiện. Ông nghe tin báo về việc Rahula xin xuất gia nên tức
tốc tìm đến để can ngăn. Vừa vào đến chỗ Gotama, ông đã nói ngay:
"Kính thưa... Gotama, không thể
chìu lòng một đứa trẻ với những ước muốn xốc nổi, nhất thời. Có
thể chỉ trong vài ngày sau là Rahula đã không còn thích hợp với nếp sống
tăng đoàn nữa. Đến lúc đó, quay về lại với hoàng cung thì bất tiện,
mang tiếng cho cả tăng đoàn cũng như cho hoàng cung mà thôi. Vậy xin có đề
nghị như sau: Thế tôn có thể nới rộng quy chế tăng đoàn để đón nhận
tuổi niên thiếu xuất gia, nhưng phải có sự chấp thuận của cha mẹ đứa
trẻ đó thì việc xuất gia mới thành. Xin hỏi đề nghị đó có hợp lý
không?"
Gotama gật gù đáp ngay:
"Phải lắm. Đề nghị của quốc
vương rất hợp lý."
Câu trả lời của Gotama khiến cho
các môn đồ hoan hỷ, biết rằng thầy mình đã mặc nhiên chấp thuận việc
cho phép niên thiếu xuất gia. Tuy nhiên, trong trường hợp của Rahula, mọi
người đều biết rằng sự việc chưa ngã ngũ thuận lợi cho vương tôn
bé nhỏ này: Quốc vương Shuddodhana tin rằng công nương Yasodhara cũng sẽ
đứng về phía ông để cản trở việc xuất gia của Rahula nên mới đưa
ra đề nghị như vậy để cản trở Rahula. Khi xưa Siddhàrtha chưa xuất gia
thì hiển nhiên người có quyền quyết định về cuộc sống thế tục của
Rahula; nhưng khi người trở thành một đức Thế tôn, trở thành sa môn
Gotama rồi thì cái quyền đó mặc nhiên không còn nữa. Rahula chỉ còn lệ
thuộc vào quyền làm mẹ của Yasodhara mà thôi. Cho nên, Gotama vừa trả lời
xong là quốc vương Shuddodhana đã quay sang Yasodhara, nói ngay:
"Trẫm thực tình không muốn
Rahula xuất gia mà không có sự đồng ý của mẹ nó. Yasodhara, theo như sự
đồng thuận của Gotama về đề nghị của ta thì hiện tại chỉ có con mới
có thể cho phép Rahula xuất gia được hay không mà thôi. Gotama có thể đón
nhận Rahula xuất gia, đó là quyền của Gotama trong giáo hội, nhưng Rahula có
được phép rời khỏi hoàng cung để xuất gia hay không thì đó là quyền
của con đó, Yasodhara. Phải vậy không? Vậy con hãy nói đi, nói cho Gotama,
cho mọi người, cho Rahula biết, rằng con có đồng ý việc Rahula xuất gia
hay không."
Gotama mỉm cười nhìn xuống Rahula
đang khom mình dưới đất. Trong khi đó, mọi người đều hướng về công
nương Yasodhara, chờ đợi. Yasodhara dán mắt nhìn Rahula, đứa con thương yêu
từng quấn quít bên mình mười năm nay. Bây giờ, đứa con thơ đó đang quỳ
mọp dưới đất với dáng điệu rất dễ thương để bày tỏ chí nguyện
cao xa của nó. "Ta biết làm sao đây?" Yasodhara nghẹn ngào tự hỏi
như vậy. Rồi nàng từ từ bước đến gần Rahula, quỳ xuống bên cạnh
con. Nàng đưa tay xoa mái tóc với từng lọn quăn mướt mịn như tơ của
Rahula. Rahula không nhúc nhích, cứ úp mặt im lặng trên hai bàn tay nhỏ bé
mũm mĩm của mình, nhưng cậu cũng cảm nghe được tình thương yêu của mẹ
như truyền qua từ bàn tay ấm của bà. Bàn tay đó, hơi ấm đó, quen thuộc
với Rahula lắm. Đó là tất cả vốn liếng mà cậu có được để sống
hạnh phúc, an vui trong mười năm qua. Đó là tất cả niềm thương yêu mà
cậu được hân thưởng từ người mẹ nghi dung đức hạnh của mình.
Rahula nghe rung động trong lòng một lúc. Nhưng cậu vẫn im lặng, không
nhúc nhích. Yasodhara trìu mến nói với con:
"Con thực tâm muốn xuất gia
theo Thế tôn hở Rahula?"
"Thưa mẹ, phải."
"Con sẽ không hối hận quay về
hở Rahula?"
"Thưa mẹ, phải."
"Con sẽ quyết tâm đạt được
Thánh quả hở Rahula?"
"Thưa mẹ, phải."
Nước mắt lăn dài trên đôi má,
Yasodhara ngước nhìn Gotama, rồi nhìn qua quốc vương Shuddodhana, cúi mặt sụt
sùi một lúc. Nén tiếng khóc, nàng cúi lạy Gotama rồi thưa:
"Kính lễ Thế tôn, bậc đạo
sư cao cả của ba cõi bốn loài, Rahula quyết tâm như vậy hẳn là không ai
có thể ngăn trở được. Xin Thế tôn hoan hỷ cho phép Rahula xuất gia và
dìu dắt Rahula tiến đến mục tiêu tối hậu của những kẻ xuất trần."
Quốc vương Shuddodhana bàng hoàng sửng
sốt, nhìn Yasodhara một lúc, rồi thở dài, buồn bã quay đi. Gotama nói:
"Cao cả thay, Yasodhara. Vì ta,
vì Rahula mà dẹp bỏ tình riêng, người đã làm được những điều khó
làm nhất, gián tiếp góp phần vào sự thành tựu và hoằng truyền chánh
pháp cho muôn đời sau. Ta ghi nhận đức hy sinh của người và hôm nay, trước
ý nguyện xuất gia mãnh liệt của Rahula và lời thỉnh cầu của người,
ta cho phép Rahula gia nhập giáo đoàn của ta; và cũng kể từ hôm nay, ta cho
phép hàng thiếu niên xuất gia theo học làm sa môn nếu có sự đồng ý của
cha mẹ. Rahula, ước nguyện của con đã thành, con hãy đứng dậy đi."
Rahula bấy giờ mới ngước lên, mừng
rỡ lạy tạ Gotama rồi đến trước Yasodhara. Hai mẹ con ôm lấy nhau.
Yasodhara ứa lệ xoa đầu con. Rahula không khóc nhưng cũng nghẹn ngào xót thương
mẹ. Cậu nói lời từ biệt lần cuối với mẹ để bắt đầu dấn mình
vào cuộc sống mới với các sa môn. Yasodhara không muốn làm bịn rịn
lòng con quá lâu, bèn thi lễ Gotama mà cáo biệt.
Đứng dõi theo bóng mẹ một lúc,
Rahula quay lại mới giật mình biết rằng Gotama và các sa môn như đang có
ý chờ đợi mình. Cậu lật đật quỳ xuống trước Gotama, chờ nghe lời
dạy bảo. Gotama nói:
"Khá khen Rahula, tuổi nhỏ mà
có chí xuất trần. Ta mong rằng con sẽ không phụ lòng mong đợi của mọi
người. Kể từ hôm nay con đã chính thức là thành viên của giáo hội.
Vì vậy, hãy cố gắng tuân thủ những điều lệ, nội qui và cấm giới của
tăng đoàn. Trưởng lão Saripùtra sẽ thay ta giáo dục con. Con hãy bái trưởng
lão làm thầy và theo hầu cận người để học hỏi giáo pháp."
Saripùtra vâng mệnh Gotama, cạo tóc
cho Rahula, nhận Rahula làm đệ tử. Rahula trở thành chú tiểu đầu tiên của
giáo hội. Và danh từ Sa-di cũng xuất hiện từ đó để chỉ cho hàng niên
thiếu xuất gia.
*
Mặc dù quyết chí xuất gia như vậy,
Rahula cũng không làm sao trong một sớm một chiều vượt qua được lứa tuổi
thiếu niên với những nghịch ngợm, phá phách của mình. Cho nên, sống
quen trong tịnh xá một thời gian, Rahula bỗng nẩy sinh những ý tưởng đùa
giỡn, trêu cợt các sa môn lớn tuổi. Rahula bắt kiến bỏ vào áo các vị
sa môn đang ngồi thiền; hoặc lấy que ráy vào tai họ để chọc cho họ phân
tâm. Có khi Rahula nói dối với các sa môn hoặc các phái đoàn hành hương
từ xa đến về nơi chốn đức Gotama cư ngụ khiến cho những người này
phải đi lạc, tìm mãi không gặp Gotama. Có khi Rahula leo cây hái trái ném
vào các sa môn khi họ đang chú tâm lắng nghe Gotama thuyết pháp. Lại có
khi giăng giây giữa đường cho các sa môn đi ngang phải vướng giây lảo
đảo để mình có dịp ôm bụng cười. Không biết bao nhiêu là hành động
tinh nghịch do một tay Rahula bày ra. Ban đầu các sa môn vì lòng từ bi và hạnh
nhẫn nhục quen nếp, đã bỏ qua cho Rahula. Mặt khác, không nhiều thì ít,
họ cũng cả nể Rahula là con trai của Gotama cũng như đã từng là vương tôn
của vương quốc Sakỳas nên không bắt nạt chú. Nhưng càng làm ngơ thì
Rahula càng nghịch ngợm quá tay hơn. Cuối cùng, chuyện đến tai Gotama.
Gotama bèn đến ngay phòng Rahula.
Thấy dáng vẻ nghiêm nghị của
Gotama, Rahula kinh hãi, sợ sệt, định tìm chỗ trốn nhưng Gotama đã gọi
ngay:
"Rahula ra đây ta bảo."
Rahula riu ríu bước ra, thi lễ
Gotama rồi đem chậu nước đến cho Gotama rửa chân. Gotama rửa chân xong liền
hỏi:
"Rahula, nước rửa chân này uống
được không?"
"Kính thưa Thế tôn, nước đã
dơ rồi không thể uống được."
"Nước sạch mà để cho dơ thì
không thể dùng được nữa, phải vậy không? Con cũng như thứ nước dơ này.
Chí nguyện cao xa, tâm tư thoát tục, nhưng lại để cho cáu bẩn lên vì lời
ăn tiếng nói thì chuyên dối gạt chọc ghẹo kẻ khác, hành động cử chỉ
thì chuyên phá phách nhiễu hại người. Cái tâm như vậy thì đâu còn
dùng được nữa!"
Rahula nghe Gotama quở như vậy thì
nín lặng, không dám hó hé cử động, cứ cúi mặt ngó dưới đất. Gotama
nói:
"Nước dơ rồi thì đổ đi chứ!"
Rahula lật đật đem nước đi đổ.
Khi chú trở lại, Gotama lại hỏi:
"Cái chậu con đang cầm có thể
đem đựng thức ăn được không, Rahula?"
"Thưa Thế tôn, chậu đã dơ,
không dùng để đựng thức ăn được."
"Con bây giờ chẳng khác gì
cái chậu dơ: tâm tư, lời nói và hành động không trong sạch thì làm sao
đón nhận được giáo pháp cao siêu thanh tịnh!"
Rahula xấu hổ quỳ xuống, đặt cái
chậu xuống đất. Gotama bèn dùng chân hất cái chậu đi:
"Chậu này bể con có tiếc
không?"
"Thưa không ạ, vì chậu đã dơ,
không phải đồ quý."
"Nếu thân tâm con cũng dơ như
chậu thì sự có mặt hay vắng mặt của con sẽ không ai luyến tiếc, quan
tâm nữa. Như vậy con có thích lắm không?"
Rahula vả mồ hôi hột, cúi lạy
Gotama, thưa rằng:
"Kính lễ Thế tôn, con đã biết
lỗi. Con xin nguyện từ nay chừa bỏ và hứa tinh tấn tu học để trau luyện
thân tâm thanh tịnh."
Quả nhiên, kể từ lúc đó, Rahula
siêng năng tu học, ngoan ngoãn vâng lời người trên, không còn phá phách
tinh nghịch nữa. Rahula trở nên một chú tiểu nổi tiếng với sự nghiêm
trì các điều cấm giới, các oai nghi tế hạnh, cũng như tâm tính ôn hòa
nhẫn nhục đối với mọi người, mọi nghịch cảnh. Năm 20 tuổi, Rahula
được tiếp thọ giới tỳ kheo, chính thức trở thành một sa môn của tăng
đoàn. Đức độ và uy tín của Rahula càng lúc càng tăng. Trong tăng đoàn,
Rahula cũng được xưng tụng như là một trong mười đại đệ tử của
Gotama với danh hiệu "Mật hạnh đệ nhất".
Và cũng như bao nhiêu vị Thánh tăng
khác đi theo đức Gotama, Rahula đã đạt được ý nguyện của ông: vào năm
20 tuổi sau khi thọ giới tỳ kheo, Rahula chứng được Thánh quả Arahan. Nhưng
đặc biệt nhất, hình ảnh của Rahula trong giáo hội nguyên thủy cho đến
ngàn sau vẫn là hình ảnh tuyệt đẹp của một thiên thần bé nhỏ, quyết
chí xuất gia từ lúc ấu thời, và cuối cùng cũng đã sánh vai với Phật
Thánh trên lộ trình giải thoát giác ngộ. Rahula không phải chỉ mở đường
cho chính mình mà còn mở đường cho muôn ngàn chú tiểu bé bỏng dễ thương
khác trên khắp trái đất, trong mọi thời đại, bước vào vòm trời cao rộng
siêu thoát của Thiền môn.
http://www.buddhismtoday.com/viet/truyen/buocdi_cua_thienthan.htm