- Cây đa
chùa cũ
Chú Hữu quét sân xong,
không vội vào trong. Như thường lệ, chú cầm chổi đến dưới gốc đa,
đặt cây chổi một bên, ngồi nghỉ mệt một chút, hóng gió cho ráo mồ
hôi. Rồi chú móc trong túi áo vạt khách ra một mẩu giấy nhỏ, trên đó
chú đã ghi sẵn mười chữ Hán, kèm theo cả âm lẫn nghĩa từng chữ. Chú
nói với gốc đa: "Đa ơi, giúp tôi mau thuộc nghe Đa!" Rồi chú bắt
đầu học. Chú lấy một cái que nhỏ viết các chữ ấy trên đất, học kỹ
từng chữ. Cho đến khi nào học thuộc, chú mới vào trong để phụ với cô
Diệu Lan nấu bếp.
Chú còn nhỏ, mới mười
ba tuổi thôi, nên chú chẳng thắc mắc gì về cô Diệu Lan này. Ngày chú
vào chùa xuất gia cách đây hai năm, cô ấy đã có sẵn trong chùa, dọn dẹp
lặt vặt, nấu cơm, giặt đồ, hầu hạ thầy. Chú đi tu làm chú tiểu
thì đương nhiên chú cũng xăn tay làm việc chùa, phụ giúp cô ấy một
tay. Có khi thầy dạy chú rằng cô Diệu Lan không phải là người tu như thầy
và chú, cho nên, đúng ra những công việc trong chùa, chú phải cáng đáng hết.
Nhưng vì chú còn nhỏ, không lo nổi mọi việc, cô Diệu Lan sẽ tiếp tục
công việc chùa cho đến khi chú trưởng thành. Nghe thầy dạy như thế, chú
thấy trong lòng biết ơn cô Diệu Lan lắm. Nếu không có cô ấy thì thật
là cực nhọc cho chú biết bao. Công việc trong chùa không phải là ít. Vừa
thỉnh chuông khuya, chuông tối, vừa tụng kinh mỗi ngày bốn thời, vừa
quét dọn trong nhà, ngoài sân, tưới cây, nấu cơm, giặt đồ cho thầy...
chưa kể có khi còn đấm bóp cho thầy vào mỗi tối nữa.
Vào bếp nấu ăn phụ cô
Diệu Lan có nghĩa rằng chú đến ngồi quanh quanh bếp để chờ cô ấy sai
vặt. Có khi cô bảo chú xách nước giếng lên cho cô rửa rau, hoặc rửa
tay rửa chân. Có khi cô sai chú đi mua nước đá ở quán chè đầu đường
về để cô pha nước chanh mời thầy uống — và những lần pha nước
chanh như thế, bao giờ cô cũng tự thưởng cô một ly mà không bao giờ cô
có ý mời chú. Có lẽ cô nghĩ rằng chú có bổn phận phục vụ cô, vì
cô đã bỏ hết thời giờ của cô ra để chăm lo việc chùa nhờ đó chú
mới được chút rảnh rang mà học kinh kệ, học chữ Hán. Chú mang ơn cô,
tất nhiên chú có bổn phận phải phục vụ lại cô để đền đáp phần
nào công ơn đó. Nghĩ vậy, chú không dám hó hé hay buồn phiền gì. Cô sai
gì chú làm nấy. Thậm chí có khi cô còn sai chú xách nước vào buồng tắm
cho cô tắm nữa.
Buổi tối, cô Diệu Lan ngủ
dưới bếp. Dưới đó có một phòng riêng dành cho cô. Còn chú, chú cũng có
một phòng riêng ở phía bên trái của chánh điện. Phòng của thầy thì
ở phía bên phải. Hai phòng cách nhau một khoảng rộng của chánh điện. Và
hai phòng cũng cách xa nhà bếp một khoảng sân sau cùng nhà ăn của chùa.
Thỉnh thoảng, chú nghe tiếng nói chuyện của cô Diệu Lan và thầy ở bên
kia vọng qua. Chú biết là cô Lan đang đấm bóp cho thầy. Thầy có thói
quen phải đấm bóp trước khi ngủ, không đấm bóp thì không ngủ được.
Lâu lâu cô Diệu Lan về quê, thầy bảo chú qua đấm bóp thay. Thầy nói
tay chú còn yếu lắm, khi nào chú lớn thì mới đấm được như ý thầy
muốn. Cho nên khi cô Diệu Lan từ quê trở lại chùa, thầy lại tiếp tục
nhờ cô ấy đấm bóp mỗi tối chứ không bảo chú làm công việc ấy nữa.
Chú mừng lắm nếu cô Diệu Lan nhận làm công việc đó, vì suốt ngày mệt
mỏi rồi, chú cũng chẳng muốn thức khuya để đấm bóp dù chú luôn nghĩ
rằng chú có bổn phận phải hầu hạ, phục dịch thầy thay vì ở nhà phụng
dưỡng cha mẹ.
Cho đến khi cô Diệu Lan
mang thai, chú cũng chẳng thắc mắc gì cả. Chú chỉ giật mình vào một
sáng nọ khi phát giác rằng cái bụng của cô tự dưng mà tròn vin như cái
trái dưa hấu loại thượng hạng. Ngày nào chú cũng gặp cô mà chú không
biết bụng cô lớn dần. Chú cũng không biết tại sao cô ấy mang thai nữa.
Chú nhớ hồi ở nhà, khi mẹ chú mang thai, chú hay tới rờ bụng mẹ, hỏi:
"Mẹ à, sao mẹ có em
bé vậy mẹ?"
Mẹ chú cười, chẳng trả
lời được. Một lúc sau, bà nói cho qua chuyện:
"Có gì đâu con, tự dưng
tới tuổi thì đàn bà phải có thai thôi."
"Vậy hả mẹ."
Từ đó, chú tin rằng con
gái lớn lên thì có thai. Nay cô Diệu Lan có thai thì đúng rồi, có gì đâu
mà thắc mắc. Tuy nhiên, thời gian cô ấy mang thai, chú thật là cực khổ.
Cô ấy nóng tánh làm sao. Hở một chút là cô la cô mắng cô chửi chú. Chưa
hết, cô sai chú liền tay. Cô ngồi một chỗ, chỉ tay năm ngón, làm chú mệt
đứt hơi. Bụng cô càng lớn, chú càng mệt nhọc với công việc. Chú thầm
cầu mong cô sau lần có thai nầy là đủ rồi, đừng có thai thêm lần
khác nữa. Cũng trong thời gian này, cô không đấm bóp cho thầy nên mỗi tối
chú phải qua phòng thầy đấm bóp cho thầy trước khi ngủ. Thầy dạy:
"Nè, cô Diệu Lan bụng
mang dạ chửa, con phải hết lòng giúp đỡ cô ấy nghen. Đừng để cô ấy
phải làm những công việc nặng nhọc. Thấy cô làm gì thì mình giành lấy
mà làm, không phải đợi cô ấy sai. Khi nào sanh xong cô ấy sẽ làm việc
bình thường lại, khỏi phiền con nhiều. Thời gian này thì chịu khó đi.
Muốn tu thành Phật thì phải tập tu, tập chịu cực nhọc cho quen."
Chú chỉ dạ và im lặng
đấm bóp. Lâu nay ở chùa chú chẳng bao giờ nệ hà chuyện gì. Chùa chỉ
có ba người: thầy, cô Diệu Lan và chú. Thầy và cô là người lớn tuổi,
như cha mẹ, như cô như cậu trong nhà, có sai chú làm việc thì cũng là lẽ
tự nhiên. Tuy nhiên, đôi lúc chú thấy buồn tủi khi bị cô Diệu Lan la mắng.
Thời gian mang thai, cô càng dữ dằn hơn, đụng đâu phang đó, đến thầy
mà cô còn không vị nể huống chi là chú. Bị cô la vì những chuyện vô
lý, chú ấm ức lắm nhưng chẳng biết bộc bạch với ai. Mấy phen chú
trình lên thầy rằng chú bị cô ấy trách oan thì thầy gạt đi, cứ bênh
vực cô ấy, chẳng kể gì đến những gì chú nói cả. Những lần như thế,
chú chỉ biết ra ngồi ngoài gốc cây đa, khóc một mình. Từ lúc con chó
tên Tuất ở chùa—người bạn thân yêu duy nhất của chú—bị xe cán chết,
chú chỉ còn biết tâm sự với cây đa trước sân. Cây đa không biết
nói, không ve vẫy liếm tay liếm chân chú, không kêu sủa như con Tuất
nhưng chú biết cây đa lúc nào cũng lắng nghe một cách chân tình những
gì chú tâm sự. Chú để ý mỗi lần chú buồn và khóc, tự dưng có gió
ở đâu thổi qua, lá đa xào xạc, các giây leo đong đưa trước mặt chú.
Chú cho đó là cách mà cây đa biểu lộ tình cảm của nó. Chỉ có cây đa
đó mới an ủi được chú mà thôi. Khi được cây đa an ủi, nước mắt
chú càng rơi nhiều hơn. Chú có cha mẹ chứ chẳng phải không. Nhưng chú
là đứa bé khó nuôi, cha mẹ lại nghèo, nên nghe lời người ta, đem chú
lên gởi ở chùa cho thầy nuôi dùm. Chú vào chùa ở thì tự dưng mọi thứ
bệnh đều hết, ngay cả cái bệnh còi mà cha mẹ chú nghĩ là không thể
trị được cũng hết luôn và chú đang nẩy nở phát triển thấy rõ chứ
không đèo đẹt như trước kia nữa. Vì thế, nếu chú có thưa với cha mẹ
những chuyện làm chú buồn thì cha mẹ cũng chỉ bênh vực thầy, bênh vực
cô Diệu Lan để mà qui lỗi cho chú thôi. Thậm chí, cha mẹ chú còn có ý
nghĩ rằng sẽ gởi chú luôn ở chùa chứ không đem chú về lại với gia
đình nữa, thì chuyện gì cha mẹ cũng muốn cho qua để êm thắm chứ đâu
có dám bênh vực chú để rồi mất lòng thầy cô đâu. Những cảm nghĩ đó
chú đều nói cho cây đa nghe. Chú nói rằng ngoại trừ con Tuất và cây đa
ra, không ai thương chú hết. Chú còn nghĩ rằng nếu đức Phật có hiện
xuống ngôi chùa này thì ngài cũng đi gặp thầy trụ trì—người có thẩm
quyền của chùa—để nói chuyện chứ làm sao ngài để ý tới một chú
tiểu nhỏ bé như chú.
Hôm nay chú lại bị cô Diệu
Lan quở trách nữa. Chuyện chẳng có gì quan trọng. Chú đang ngủ trưa
trong phòng riêng thì cô vào gọi giật dậy, sai ra chợ mua cho cô trái xoài
xanh. Chú không muốn đi, chùng bùng, ngồi ì một chỗ. Cô tru tréo lên. Chưa
đầy một phút sau là thầy bước xuống. Cô nói liền mà như trách thầy
không biết dạy chú vậy:
"Sai nó ra chợ một
chút mà cũng không được nữa. Đó, rồi ngồi một đống!"
Chú vùng vằng nói:
"Hồi sáng đi chợ sao
cô không dặn mua luôn một lần, bây giờ lại bảo đi chợ nữa. Mà có
mua cái gì quan trọng! Trái xoài chứ gì đâu!"
"Câm miệng," thầy
nói, "cô sai thì đi, không được cãi. Chú muốn ở chùa hay muốn ra
ngoài đường?"
Chú vội vàng đứng dậy,
xuống bếp rửa mặt rồi cầm tiền ra chợ. Cô còn dặn chú mua xoài ở
đâu, lựa xoài như thế nào. Chú làm thinh không dạ không ừ. Ra tới gần
cổng chùa, chú còn nghe thầy nói vói theo:
"Khi nào cô sai mà chú
không muốn đi thì chú lên đây nói tôi, tôi đi."
Đi bộ một mình dưới trời
nắng chang chang, chú thấy trong lòng thật là bực dọc. Chưa bao giờ chú
thấy bất mãn như lúc này. Tại sao chỉ ăn một miếng xoài cho vui mà bắt
một đứa con nít dang nắng đi xa như vầy! Thèm gì mà bất nhơn vậy! Chú
đây còn là con nít mà chú có thèm ăn vặt bậy bạ đâu. Tự dưng nổi hứng
giữa trưa bảo đi mua xoài!
Đi gần tới chợ, ngang một
tiệm bán sách báo và dụng cụ học sinh, chú bỗng bắt gặp một chú tiểu
khác đâu chừng mười sáu tuổi đang đứng trong tiệm. Chú tò mò đứng lại
nhìn. Chú tiểu kia mặc áo dài năm thân màu lam trông đàng hoàng, chững chạc
lắm chứ đâu như chú chỉ mặc bộ đồ vạt khách đỏ loét (áo hơi giống
áo bà ba, may thêm một vạt ngắn phía bên phải; quần thì luồn giây thun,
cùng màu với áo). Đồ vạt khách chú bận thì suốt ngày này qua tháng nọ
chẳng thay đổi dù ở trong chùa hay đi ra đường.
Ông chủ tiệm thấy chú
đứng tần ngần trước cửa tiệm bèn nói với chú tiểu bên trong:
"Kìa, có bạn chú ở
ngoài kìa."
Chú tiểu kia quay nhìn ra.
Hai chú bỡ ngỡ ngó nhau một lúc. Chú tiểu trong tiệm sách bỗng đưa hai
tay chắp lên ngực chào chú. Xưa nay chẳng ai chào chú như vậy cả. Chú
lúng túng chắp tay chào lại. Chú không ngờ chú tiểu kia lớn tuổi hơn mình
mà lại chào mình lịch sự như thế. Chú tiểu kia dạn dĩ, từ trong tiệm
bước ra, đến gần chú, hỏi:
"Chú ở chùa nào vậy?"
"ở chùa Nghĩa Trủng."
"Nghĩa Trủng?"
"Ừ, Nghĩa Trủng. Còn
chú?"
"ở chùa Từ Quang.
Chú đi đâu đó?"
"À... đi chợ. Còn
chú?"
"Đi mua tập và bút
máy. Tại vì sắp tới ngày khai giảng rồi. Vô đây chơi."
Chú rụt rè bước vào. Mắt
liếc nhìn cách ăn bận của chú kia và thấy rõ sự khác biệt giữa mình
với chú ấy. Chú có vẻ luộm thuộm lôi thôi quá. Tuy rằng ở chùa thì
chẳng cần phải ăn diện gì, nhưng ít nhất cũng phải tươm tất, gọn ghẽ
khi ra đường. Thầy và cô Diệu Lan chẳng hề nghĩ đến chuyện sắm áo
dài cho chú mặc ra đường. Ngay cả đôi dép cũng không mua, đi đâu chú cũng
cứ đi chân trần như một hành khất. Áo quần thì đỏ loét đỏ loe với
loại vải rẻ tiền nhất. Trông chẳng ra con giáp nào cả.
Chú kia lại hỏi:
"Chú pháp danh
gì?"
"Pháp danh? À... tôi
quên rồi vì chưa bao giờ thầy gọi bằng pháp danh cả. Tên tôi là Hữu.
Chú có pháp danh rồi hả?"
"Ừ. Tôi pháp danh là
Tâm Tuệ. Chú chuẩn bị sách vở đi học chưa? Chú học ở đâu?"
"Học ở trường Bồ
Đề. Sách vở chưa sắm."
"Trường Bồ Đề thôi
hả, chứ không vào Phật học viện à? Phật học viện sắp sửa khai giảng,
các chùa đang chuẩn bị cho các chú tiểu như tụi mình vào đó."
"Phật học viện là
cái gì?"
"ủa, chú không biết
hả? Phật học viện là trường dạy cho tụi mình về giáo lý, kinh điển,
chữ Hán, các thứ đó."
"Tôi có học chữ Hán
và học kinh ở chùa, thầy tôi dạy."
"Như vậy đâu có đủ.
Chùa nào cũng có dạy như vậy hết, nhưng muốn học theo trường lớp,
theo chương trình của Giáo Hội đàng hoàng thì phải vào Phật học viện
kia."
"Vậy hả! Tôi đâu
có biết. Phật học viện xa không vậy?"
"Xa. Phật học viện
ở tận trong Hội An, cách đây chừng ba mươi cây số."
"Vậy sao mình đi học
mỗi ngày được?"
Tâm Tuệ cười nói:
"Đâu có đi mỗi ngày,
mà mình phải tới Phật học viện ở luôn tại đó mà học. Đó là chỗ
cho tụi mình vừa ở vừa tu vừa học."
"Như vậy ở đó chắc
đông bạn bè lắm hả?"
"Dĩ nhiên là đông rồi.
Phật học viện nào cũng có khoảng bảy tám chục tăng sinh ngang tuổi
ngang lớp với nhau."
"Làm sao mình xin vào học
tại Phật học viện được?"
Tâm Tuệ suy nghĩ một lúc
rồi trả lời:
"À, phải học thuộc
hai thời công phu, bốn cuốn luật, học qua giáo lý sơ đẳng phổ thông,
chút ít chữ Hán, đâu chừng 3000 từ là đủ. Rồi phải thi vào nếu đậu
thì được học không thì thôi. Mà phải có Giáo Hội hay là thầy bổn sư
giới thiệu nữa."
"Thầy bổn sư là ai vậy?"
chú Hữu ngây thơ hỏi. Tâm Tuệ tuy không lớn hơn chú Hữu bao nhiêu nhưng
cũng nhanh trí biết rằng người bạn mới của mình đã không được may mắn
học hành hiểu biết nhiều như mình. Tâm Tuệ nói:
"Thầy bổn sư là thầy
nhận cho chú xuất gia, cạo đầu, đặt tên pháp danh cho chú đó."
"Hai thời công phu thì
tôi biết rồi, nhưng... bốn cuốn luật và giáo lý sơ đẳng là gì, làm
sao có được để học?"
"Chú chưa học luật và
giáo lý sơ đẳng hả? Chú lên hỏi thầy, thầy sẽ cho. Nếu ở chùa chú
không có bộ luật Sa Di bốn cuốn thì qua chùa Từ Quang tôi tặng chú một
bộ. Bộ Sơ Đẳng Phật Học Giáo Khoa Thư bằng chữ Hán cũng có ở bên
tôi nữa, tôi sẽ tặng chú."
Chú Hữu mừng rỡ ra mặt,
cám ơn bạn mà rưng rưng cả nước mắt. Chú những tưởng suốt cuộc đời
mình chỉ biết có thầy, cô Diệu Lan và cây đa trước sân. Không ngờ
hôm nay, Tâm Tuệ mở ra trước mắt chú một khung trời tương lai đầy
ánh sáng. Chú nói với Tâm Tuệ:
"Chắc thầy tôi không
có bộ luật đó đâu, vì tôi không bao giờ nghe thầy tôi nhắc tới. Vậy...
vậy tôi theo chú đến chùa chú bây giờ được không?"
"Chú đi chợ mà?"
"Tôi ghé qua chùa chú
xong rồi đi chợ sau cũng được."
"Có sao không? Nghe
nói..." Tâm Tuệ nói đến đó thì im. Rồi lại nói:
"Nếu chú đi được mà
về không bị la thì tụi mình đi. Nhưng khoan, đợi tôi trả tiền sách đã."
Trong khi Tâm Tuệ lo tính
tiền với ông chủ tiệm, chú Hữu đứng ngẫm nghĩ về số phận mình.
Chú ở chùa đã hơn hai năm mà thầy chỉ dạy cho học hai thời công phu để
mà tụng kinh hàng ngày, sau đó dạy cho chút chữ Hán để mà tập đọc sớ
điệp công văn mà cúng đám chứ chẳng bao giờ dạy chú giáo lý hay kinh
luật gì khác. Đứng trước Tâm Tuệ, chú thấy mình sao quê mùa ngốc nghếch.
Mà Tâm Tuệ hình như có ý nghĩ gì không tốt đối với ngôi chùa mà chú
đang ở thì phải. Cũng may Tâm Tuệ tốt bụng, không khinh chê chú. Chú thầm
cám ơn đức Phật, cám ơn cây đa đã cho chú gặp người bạn tốt như Tâm
Tuệ hôm nay.
Khi Tâm Tuệ trả tiền
xong, hai chú cùng đi bộ đến chùa Từ Quang. Chùa này cũng nằm trên cùng
một con đường với chùa Nghĩa Trủng mà chú Hữu ở, nhưng hai chùa cách
xa nhau cả cây số. Vào chùa, Tâm Tuệ đưa bạn vào phòng riêng của mình
rồi lục soạn trong đống sách trên bàn học, lấy ra vài cuốn sách đưa
cho chú Hữu.
"Đây là cuốn luật
Sa Di mà tôi nói khi nãy, phải học thuộc lòng. Trong này vừa có cả âm lẫn
nghĩa. Đáng lẽ phải có người giảng dạy, nhưng nếu chú không có người
dạy thì cứ học thuộc lòng trước đi, rồi sau này học kỹ hơn. ở đây
tôi có thầy dạy nên học cũng nhanh. Độ chừng hai tháng thì xong."
Chú Hữu nhẫm tính một
lúc rồi hỏi:
"Bao giờ thì Phật học
viện khai giảng?"
"Tháng sau. Bây giờ đã
có người tập trung tại đó rồi, vì còn phải trải qua một kỳ thi nữa."
"Vậy thì... tôi đâu
có học kịp," chú Hữu nói.
"Chắc là không kịp...
nhưng, nếu cố gắng... hay là đi đại..."
"Là sao?"
"Tức là đến đại
Phật học viện, năn nỉ được ở đó mà học. Nếu không cho học thì
xin ở đó mà tu cũng được. Xin ở được thì vào học ké cũng đâu có
khó khăn gì!"
"Làm vậy cũng được
hả?" chú Hữu mừng rỡ hỏi.
"Tôi nghĩ là được,
vì mấy thầy ai cũng thương các chú tiểu như tụi mình. Nếu chú lạy thầy
Giám Viện, nói hoàn cảnh của mình rồi xin ở đó tu học, chắc thầy thương
mà nhận."
Chú Hữu sung sướng, thấy
như mình đã được tham dự vào Phật học viện rồi vậy. Chú cũng thầm
cảm phục Tâm Tuệ. Người đâu mà lanh lợi quá đỗi!
Hai chú đang ngồi nói chuyện
với nhau thì thầy của Tâm Tuệ bước ngang cửa phòng. Thấy chú tiểu lạ,
thầy bước vào. Tâm Tuệ và chú Hữu cùng đứng dậy chắp tay vái chào.
Thầy xoa đầu chú Hữu hỏi:
"Con ở đâu tới đây?
chùa nào?"
Giọng thầy nghe ấm cúng,
tình cảm làm sao. Chú ngước lên trả lời thầy:
"Dạ, con ở chùa Nghĩa
Trủng."
"A, chùa Nghĩa Trủng!
Thầy con có khỏe không?"
"Dạ, khỏe."
Tâm Tuệ bỗng nói chen
vào:
"Con mới quen chú
ngoài tiệm sách Tiến Đức. Chú ở chùa hai năm rồi mà chưa được cho học
giáo lý. Chùa Nghĩa Trủng không có kinh sách gì hết, bạch thầy."
Thầy không nói, lẳng lặng
đến ngồi bên bàn học của Tâm Tuệ:
"Tại thầy ấy muốn
cho chú trau luyện đức hạnh trước, học hành sau. Cũng như người ta nói
‘tiên học lễ, hậu học văn’ đó mà. Chưa chắc hoàn cảnh của chú như
vậy là xấu hơn con."
Tâm Tuệ tiếp tục nói,
và chính lúc này, chú Hữu mới nhận thức được rằng trong giọng của Tâm
Tuệ hằn lên những bực tức như thể chú ấy đang nói lên sự bất mãn
thay cho hoàn cảnh của mình:
"Hồi trước chú Tiến
cũng ở chùa Nghĩa Trủng ra đó, bạch thầy. Chú ấy cũng giống như chú Hữu
bây giờ. May mà..."
Thầy cắt ngang:
"Thôi con à. Chuyện xưa
rồi nhắc làm gì. Mỗi nơi có một nếp sống, một qui luật riêng. Không
thể bắt mọi chùa phải sinh hoạt giống nhau được."
Tâm Tuệ vẫn cứ lý luận:
"Nhưng... có cái bắt
buộc phải giống nhau chứ, bạch thầy?"
Thầy ôn tồn dạy:
"Con chưa đủ lớn để
xét việc của người khác đâu con ạ."
Thầy nói vậy, Tâm Tuệ mới
chịu làm thinh. Thầy từ từ đứng dậy rời phòng. Đến cửa, thầy quay
lại nói với chú Hữu:
"Nếu trên bước đường
xuất gia con gặp phải những buồn đau, trở ngại, hãy coi đó như những
thử thách ban đầu của con. Chí càng lớn, gian nan càng nhiều. Đừng nản
lòng nghe con. Con có cần kinh sách gì thì nói với Tâm Tuệ, rồi thầy sẽ
giúp con."
Những lời thân mật đầy
thương yêu của thầy khiến chú Hữu không ngăn được giọt lệ. Chú như
kẻ lần đầu tiên nhận được tình cảm từ một vị thầy khả kính
trong cửa chùa, và ngay lập tức, chú hiểu ngay rằng có những cái cao đẹp
thiêng liêng hiện hữu trên cuộc đời. Chỉ tại chú chưa được may mắn
để đón nhận mà thôi. Chú bỗng quỳ sụp xuống lạy thầy mà nước mắt
chảy dài trên hai tay. Thầy đỡ chú đứng dậy, hỏi:
"Con... con khổ lắm phải
không?"
Thầy chỉ hỏi vậy thôi
là chú bật khóc nấc ra tiếng, không kềm hãm được nữa. Tâm Tuệ đứng
bên cạnh cũng ứa nước mắt, quay đi. Tâm Tuệ nói:
"Con biết mà. Con biết
bạn con cũng bị như chú Tiến trước kia mà. Đó không phải là chùa. Ông
ấy không phải là thầy."
Thầy lớn tiếng cắt lời
Tâm Tuệ:
"Im! Con không được nói
vậy. Chuyện ai làm người đó gánh chịu. Không dòm ngó lỗi người mà
hãy tự nhìn xét chính mình. Con không nhớ lời dạy đó sao! Thầy không muốn
con nhắc tới chuyện cũ của chú Tiến nữa, nghe chưa!"
Tâm Tuệ cúi mặt dạ nhưng
lòng như vẫn còn ấm ức. Thầy quay sang chú Hữu, an ủi:
"Thầy đã nói với
con khi nãy, hãy nhẫn nại. Xem tất cả như những thử thách ban đầu cho
chí nguyện xuất gia của con. Khi nào gặp trở ngại lớn không giải quyết
được thì đến đây thầy dạy cho phương cách tốt đẹp cho con."
Rồi thầy đi ra. Hai chú
ngồi lại trong phòng, im lặng chẳng nói gì. Một chặp, Hữu hỏi nhỏ:
"Chú Tiến là ai vậy?
Chú ấy bây giờ ở đâu rồi?"
Tâm Tuệ suy nghĩ một lúc,
nói nhỏ:
"Chú đừng cho thầy
biết là tôi nói nghe. Chú Tiến bây giờ ở chùa Phổ Hiền. Hồi đó tôi
và chú Tiến cùng học ở trường Bồ Đề, chú ấy kể tôi nghe chuyện
ở chùa Nghĩa Trủng. Sau, tôi bày mưu cho chú ấy... Chú Tiến sắp đi học
Phật học viện với tôi đó."
"Chú bày mưu làm
sao?"
"Đâu có gì đâu. Tôi
nói chú ấy nói với ba má rằng chú không muốn tu nữa. Ba má chú đem chú
về nhà. Rồi chú xin ba má cho đi tu lại ở chùa Phổ Hiền."
Chú Hữu ngồi lặng thinh.
Một hồi, chú hỏi:
"Sao không xin từ chùa
Nghĩa Trủng qua chùa Phổ Hiền luôn mà lại về nhà rồi xin đi lại, mất
công quá vậy?"
Tâm Tuệ cười:
"Tại vì đi từ chùa
Nghĩa Trủng thẳng qua Phổ Hiền thì thầy ở Nghĩa Trủng sẽ trách thầy
ở Phổ Hiền sao dụ dỗ đệ tử mình."
"À, té ra là vậy. Mà
chú Tiến kể cho chú nghe chuyện gì ở chùa Nghĩa Trủng?"
Tâm Tuệ nhìn bạn, ngập
ngừng:
"Chú ấy nói... chú
ấy nói ở chùa đó chú không được học hành gì cả mà chỉ làm việc
suốt ngày."
Chú Hữu thở dài:
"Tại vì chùa đâu có
ai, mình phải làm thôi. Mình ăn ở tại đó thì phải làm việc chứ làm
sao nữa."
"Biết vậy rồi. Nhưng...
mình đi tu đâu phải là để làm việc suốt đời như vậy."
"Vậy chú không làm việc
gì trong chùa này hết hả?"
"Không phải. Làm việc
thì chú tiểu như tụi mình ở đâu cũng làm hết, quét sân, quét chánh điện,
lau bàn ghế, thỉnh chuông, tụng kinh... nhưng, ngoài công việc ra, phải có
tu học."
"Tôi có tụng kinh niệm
Phật và học chữ Hán mỗi ngày."
"Như vậy chưa đủ.
Chú nên biết tôi học hết bốn cuốn luật bằng chữ Hán, rồi cả bộ Sơ
Đẳng Phật Học Giáo Khoa Thư, lịch sử Phật giáo, Phật Học Phổ Thông
cuốn I và II, vậy mà thầy vẫn gởi tôi đi học ở Phật học viện. Thầy
đâu có muốn giữ tôi lại đây hầu hạ thầy để rồi tôi thành người
dốt."
Chú Hữu cúi mặt xuống,
tủi thân. Tâm Tuệ an ủi:
"Tôi nói vậy chú đừng
có buồn, đừng giận tôi nghe. Tôi nói thiệt đó mà. Tôi biết chú Tiến
ở đó, rồi bây giờ thêm chú nữa. Tôi muốn giúp chú thôi."
"Chắc không giúp gì
được đâu. Tôi với chú Tiến khác nhau. Ba má chú Tiến thương chú, nghe
chú đòi về thì cho về, đòi đi lại chùa khác thì cho đi chùa khác. Ba
má tôi không cho phép tôi làm như vậy đâu. Tôi giống như con của thầy
ở đó. Ba má tôi đâu có nhận tôi trở về lại với nhà đâu."
Tâm Tuệ cảm thương cho bạn
mình, ngồi ứa nước mắt. Một hồi, Tâm Tuệ nẩy ra ý kiến mới, liền
nói cho bạn nghe:
"Hay là chú xin thầy
cho chú vô Phật học viện học. Nếu thầy cho đi, chú ở luôn tại Phật
học viện, không trở về Nghĩa Trủng nữa."
"Như vậy thì tội
nghiệp thầy quá đi. Tôi không muốn bỏ thầy đi luôn."
"Nhưng ở đó chú đâu
có tương lai! Huống chi... chú cũng phải đi học chứ bộ tội nghiệp thầy
rồi ở bên thầy suốt đời hả!"
"Tôi cũng biết vậy,
nhưng tôi vẫn thương thầy, thấy khó bỏ thầy đi xa quá. Với lại...
tôi biết thầy không cho tôi đi Phật học viện đâu, vì tôi đi thì đâu
có ai giúp việc trong chùa cho thầy."
"Đừng có lo chuyện
đó mà. Hồi chú chưa đến đó chùa cũng đâu có ai, có sao đâu! Mà chú
nói vậy có nghĩa rằng thầy muốn giữ chú lại ở chùa để giúp thầy
thôi chứ gì! Như vậy thì thầy đâu có thương gì chú!"
Chú Hữu ngồi suy nghĩ, một
lát thì nói:
"Để tôi về tính lại.
Thôi bây giờ tôi phải về đi chợ kẻo..."
"Kẻo cô Lan dưới bếp
la phải không?"
"ủa, sao chú biết?"
"Biết chứ sao không.
Cô ấy nổi tiếng mà, ai lại không biết! Nổi tiếng là bà chủ của
chùa Nghĩa Trủng đó!"
Chú Hữu nhìn bạn, vẻ mặt
vừa ngơ ngẩn vừa buồn bã khi nghe vậy. Một lúc ngắn, chú mới giật
mình đứng dậy, cáo từ. Tâm Tuệ bỏ kinh sách mình tặng bạn vào một
túi ni-lông, đưa cho Hữu rồi đưa bạn ra đến cổng tam quan. Khi chú Hữu
định đi, Tâm Tuệ, gọi lại:
"Nếu học mấy cuốn
này thấy không hiểu chỗ nào, chú qua đây tôi nói chú nghe, chỗ nào tôi
không nói được thì nhờ thầy tôi giảng. Đừng ngại nghen. Thôi, chú về
há. À khoan, để tôi kể chú nghe câu chuyện ngắn này. Mẹ của thầy tôi
lâu lâu đến chùa ở lại tuần lễ hay nửa tháng. Những ngày ở lại đây
bà ấy hay sai bảo mấy người Phật tử đến chùa làm việc này việc nọ,
có khi sai tôi làm nữa. Ban đầu, tôi nghĩ bà ấy là mẹ thầy mà lại là
người lớn tuổi như bà nội bà ngoại mình nên bà sai gì tôi làm đó. Nhưng
sau tôi thấy bà có vẻ quá trớn, muốn tỏ ra mình là mẹ của thầy nên
tôi phản đối, không chịu làm. Bà ấy lên thưa với thầy tôi, nói rằng
tôi bướng bỉnh không nghe lời bà. Chú biết thầy tô phản ứngi làm sao
không?"
Chú Hữu trả lời ngay:
"Kêu chú lên la một
trận còn không thì cũng bắt quì nhang."
Tâm Tuệ cười nói:
"Không phải. Thầy
tôi nói với bà ấy rằng tôi làm như vậy là đúng."
"Sao kỳ vậy?"
"Thầy nói rằng tôi
đến đây xuất gia làm đệ tử thầy chứ không phải để làm đệ tử của
bà ấy. Cho dù bà ấy là mẹ của thầy, bà cũng không có quyền sai bảo một
chú tiểu ở chùa làm việc này việc nọ. Chỉ có quý thầy mới có quyền
sai bảo các chú thôi. Thầy còn nói là ba má tôi xin cho tôi được làm đệ
tử thầy vì kính mến ngưỡng mộ thầy chứ không phải ngưỡng mộ mẹ
thầy. Còn nữa, không thể lấy cái chuyện trật tự ở ngoài đời mà áp
dụng vào chùa. Một chú tiểu tuy nhỏ tuổi nhưng cả tính mạng và tâm hồn
đã trao phó cho lý tưởng phụng đạo, cho nên không ai được phép lấy
quyền hạn thân thích hoặc dựa vào tuổi tác, dựa vào chức quyền mà
sai bảo chú tiểu ấy. Như vậy thì mẹ thầy cũng không có quyền nạt nộ
sai bảo hay chửi mắng tôi. Thầy nói với mẹ thầy thế nào nữa chú biết
không? Tôi chỉ nghe lén thôi. Mẹ thầy nghe thầy nói thì giận lắm bỏ về,
nhưng mấy hôm sau bà trở lại chùa, tự tay quét dọn rồi làm những việc
lặt vặt trong chùa. Bà ấy không đứng chỉ tay sai hết người này tới
người khác nữa."
"Thầy nói với bà ấy
cái gì nữa mà bà giận rồi sau đó thay đổi?"
"Thầy nói... mẹ
không phải là người xuất gia, mẹ sai bảo các chú tiểu ở chùa thì mẹ
bị tổn phước lắm đó. Vì các chú tiểu đến chùa là để học làm Phật
ngay trong kiếp này. Cho dù không thành Phật thì các chú cũng sẽ trở thành
những vị tăng sĩ đi theo con đường của Phật. Các chú bỏ nhà đi tu không
phải để đến chùa làm tôi tớ cho mọi người sai bảo..."
Chú Hữu nghe đến đó
thì trong lòng bị kích động, sực nhớ lại vị trí của mình ở chùa.
Dù trước đây chú vào chùa chỉ vì hoàn cảnh gia đình, cũng như chính
thân phận èo uột khó nuôi của chú; nhưng sau một thời gian ở chùa thì
nếp sống đạo, những thời kinh, tiếng chuông chùa, bài học giáo lý... cũng
ít nhiều thấm vào tâm hồn xanh tươi hồn nhiên của chú. Trong thâm tâm,
chú biết rằng có cái gì không ổn trong đời sống hàng ngày của chú ở
chùa hiện nay nhưng chú không tìm thấy được hoặc không có khả năng để
nhìn thấy. Bây giờ những lời của Tâm Tuệ làm chú hiểu được loáng
thoáng con đường cao đẹp của mình — một chú tiểu bỏ nhà xuất gia để
học làm Phật. Chú như một kẻ bị bỏ quên lâu ngày tưởng mình tầm thường
nhỏ mọn, nay được người khác nhắc nhở ca ngợi con đường thiêng
liêng mình đang dấn bước thì thấy bàng hoàng, chấn động đến nỗi tim
chú đập mạnh lên từng hồi.
Tâm Tuệ nói tiếp:
"Thầy còn nói rằng
chú tiểu là người cất bước đi tìm một phương trời cao rộng mà
không một người lớn nào ở thế tục có thể làm nổi. Con đường của
tụi mình là như vậy đó. Không thể tự khinh thường mình rồi bỏ quên
chí nguyện xuất gia cao cả."
Chú Hữu nghe bạn nói xong
thì sa lệ. Chú cám ơn Tâm Tuệ. Hai chú chắp tay chào nhau rồi chia tay.
*
Khi chú bước vào chùa đã
trông thấy cô Diệu Lan ngồi chờ ở cửa bếp. Mặt cô ấy hầm hầm.
Chú đặt mấy trái xoài xanh và tiền lẻ thối lại lên bàn, không nói lời
nào. Cô Diệu Lan đay nghiến:
"Cám ơn chú, chú đi
nhanh quá làm tôi hết muốn ăn rồi."
Chú lặng thinh không đáp,
quay đi về phòng riêng của mình. Ngay lúc đó, thầy từ trên chánh điện
xăm xăm bước xuống, chặn chú giữa đường, hỏi:
"Chú đi đâu giờ này
mới về. Ra chợ mua trái xoài mà mất mấy miếng đồng hồ hả?"
Chú cúi mặt chẳng dám
nói thật:
"Con... con... ghé tiệm
sách coi mấy cuốn sách."
"Tôi có biểu chú ghé
coi sách không?"
"Dạ không..."
"Không sao chú làm?
Chú bây giờ to gan lắm, muốn gì làm nấy mà, phải không?"
"Bạch thầy, từ nay về
sau con không dám nữa."
Thầy im lặng, ngó cô Diệu
Lan. Cô Diệu Lan nguýt thầy một cái, ngó chỗ khác, nói:
"Nói vậy ăn thua gì."
Thầy liền hét lên:
"Chú lập tức lên
chùa quỳ một cây nhang rồi sau đó tụng một thời kinh sám hối."
Chú dạ nhỏ một tiếng rồi
về phòng. Tiếng cô Diệu Lan còn vẳng sau lưng chú:
"Quỳ nhang mà thấm
tháp gì với nó. Oánh cho nó một trận mới hả giận chứ! Dạy trò mà dạy
như thầy thì làm sao nó nên thân nổi."
Thầy nói:
"Thôi mà, phạt như vậy
được rồi."
"Tôi thấy chưa được.
Lần sau, thầy để tôi dạy nó. Dạy kiểu thầy chẳng kết quả gì đâu.
Tới tay tôi thì nó phải biết..."
*
Chú Hữu không dám thưa thầy
về dự tính nhập học Phật học viện. Chú chỉ lén lấy kinh sách của
Tâm Tuệ cho mà tự học một mình trong phòng riêng. Phật học viện đã sắp
đến ngày khai giảng rồi mà chú cũng chưa thuộc hết bốn cuốn Luật. Trình
độ thấp kém của chú không sao có thể tự học nổi. Đêm nằm trằn trọc,
chú quyết định ngày mai sẽ lạy thầy mà xin đi học xa. Nghĩ đến đời
sống tu học vui vẻ với chúng bạn cùng trang lứa nơi Phật học viện, chú
thấy sung sướng và nghe nôn nả, rạo rực trong lòng.
Buổi sáng, thầy đang ngồi
viết sớ, viết bùa cho một đám ma nào đó. Chú rón rén đến gần thầy
hai ba bận rồi quay đi, chưa đủ can đảm để thưa thiệt với thầy ước
muốn của mình. Đang ngập ngừng, do dự nghĩ lời để thưa thầy, chú bỗng
nghe tiếng cô Diệu Lan dưới bếp la ơi ới. Chú chưa kịp phản ứng sao
thì thấy thầy đã đứng phắt dậy, chạy nhanh xuống phòng cô ấy. Vừa
chạy, thầy vừa nói với chú:
"Nhanh, nhanh, chạy đi
kêu xích-lô!"
Chú lật đật chạy vù ra
ngoài, chẳng biết ất giáp gì. Có lẽ cô ấy bị trúng gió. Thầy sao biết
hay quá, nếu không có thầy chắc chú chẳng biết phải làm gì.
Bác xích-lô chở chú chạy
nhanh về chùa. Bác vừa dừng xe ở sân chùa đã thấy thầy dìu cô Diệu
Lan bước ra. Chú thấy mặt cô ấy xanh mét. Cô ôm bụng la, rên thật thảm.
Bác xích-lô giữ cho xe khỏi chỗng gọng trong khi thầy đỡ cô Diệu Lan
lên xe. Thầy bảo bác chở xuống nhà thương hộ sinh. Chú biết nhà thương
chứ không hiểu hộ sinh là gì. Thầy bảo chú coi chùa rồi thầy phóng xe
gắn máy chạy theo xích lô. Chú mất cơ hội để xin thầy đi học. Còn
có vài tuần nữa là Phật học viện khai giảng. Chú nôn nóng chịu không
nổi, bèn đóng cửa chùa chạy qua chùa Từ Quang để kiếm chú Tâm Tuệ.
Tâm Tuệ thấy chú thì mừng
rỡ đưa vào phòng hàn huyên. Tâm Tuệ cho biết chú ấy đang thu xếp để
vào Hội An dự thi và nhập học Phật học viện. Tâm Tuệ hỏi về chuyện
xin đi học của chú Hữu. Chú buồn buồn đáp:
"Tôi định thưa thầy
thì cô Diệu Lan bỗng đau bụng, rồi thầy đưa cô ấy đi nhà thương hộ
sinh rồi. Chắc cô đau nặng lắm. Thầy có vẻ lo lắng lắm."
"Nhà thương hộ
sinh?"
"Ừ."
"Vậy là cô ấy đi
sanh đó mà."
"Hả? sanh con? sanh em
bé hả?"
"Chứ gì nữa. Thiệt
là quá sức! Nhục ơi là nhục!"
"Sao mà nhục?"
"Chú không biết thật
à? Thì... cô ấy với thầy ấy có con với nhau đó. Đâu có thể làm như
vậy được. Xấu hổ quá đi! Chú phải rời ngay cái chùa đó lập tức.
Đó không phải là chùa. Tôi nói rồi mà chú không tin. Bây giờ chú thấy
chưa! A, chú Tiến kìa. Chú Tiến đến chơi, nhờ chú ấy giúp chú được
lắm."
Từ ngoài sân, một chú tiểu
to cao, đâu khoảng mười bảy mười tám tuổi bước nhanh vào. Tâm Tuệ bước
ra đón. Chú Hữu rụt rè bước theo. Ba chú chào nhau. Tâm Tuệ giới thiệu
hai người rồi cùng kéo nhau vào phòng. Tâm Tuệ kể hoàn cảnh của chú Hữu
cho chú Tiến nghe. Tiến cười ồ ồ, giọng chú như giọng vịt đực. Chú
giải thích một cách mạch lạc cho Hữu nghe:
"Đó không phải là
chùa. Ông ấy cũng không phải là ông thầy. Đúng ra chỉ là một cái nhà
thờ Phật của một ông thầy cúng, một ông thầy pháp. Họ ăn mặn, phải
không? Chú ở đó thì biết quá rồi mà, đâu có ăn chay ngày nào đâu! Những
ông thầy đó còn lấy vợ, có con, lợi dụng ngõ đạo để làm ăn, mưu
sinh bằng nghề cúng đám chứ chẳng có lý tưởng xuất gia xuất trần gì
cả. Ai thiệt xui xẻo mới lọt vào đó để chôn cả cuộc đời tu. Tôi
đã lầm lẫn rồi, nay tới chú, chú biết rồi thì... tốt hơn là rời nơi
đó sớm chừng nào tốt chừng đó."
Chú Hữu nghe xong rúng động
tim gan, người chú xụi xuống, xanh mét, thất vọng não nề. Ngay lập tức
chú hiểu hết. Chú ôn lại cách thầy đối xử với mình, cách thầy và
cô Diệu Lan giao tiếp với nhau, cách sinh hoạt của chùa với sự thờ ơ
khinh bỉ của những người Phật tử bên ngoài. Chùa chú ở không bao giờ
có Phật tử tụ tập đông như các chùa khác. Quanh năm suốt tháng chỉ
có thầy, cô Diệu Lan và chú. Thỉnh thoảng mới có một gia đình lầm
đường lạc lối đến xin làm lễ đám ma. Đi đám ma cho người ta, thầy
ra giá cả y như những người buôn bán ngoài chợ. Bây giờ thì chú hiểu
hết. Chú buồn tủi cho mình, ngồi cúi mặt nhìn xuống đất. Chú Tiến an
ủi:
"Chỉ còn một con đường
thôi là phải lập tức rời khỏi ngôi chùa đó. Chú đi tu không phải để
làm đầy tớ cho những người không có chút tâm đạo như vậy. Họ chỉ
lợi dụng đạo mà thôi."
Chú Hữu không nói. Chú biết
hoàn cảnh của chú khác với hoàn cảnh chú Tiến. Chú như là đứa con của
thầy chứ không phải là một đứa trẻ đến chùa xin xuất gia với ý
thích, chí nguyện hay một mục tiêu vạch sẵn. Cha mẹ chú sẽ không đón
chú về cho dù họ có biết thầy chú thực ra chẳng phải là ông thầy tu.
Cha mẹ chú đâu có mong đợi là cho chú đi tu với một vị thầy chân
chánh gì đâu. Họ chỉ gởi chú vào đó để khỏi phải nuôi một đứa
con khó nuôi mà thôi. Như vậy, chú trở thành con của thầy rồi. Chuyện
lý tưởng xuất gia là chuyện khác. Chú nói với chú Tiến và Tâm Tuệ
hoàn cảnh của mình. Tâm Tuệ nói:
"Tôi biết rồi. Trước
đây chú đã kể cho tôi nghe. Nhưng, chú phải tìm lối thoát cho chú chứ.
Dù thế nào thì ông ấy cũng không phải là cha ruột của chú."
"Nhưng thầy đã nuôi
tôi từ mấy năm nay."
"Từ lúc chú mười một
tuổi. Đến nay chỉ mới hai năm. Nhưng hai năm đó, chú làm việc cực nhọc
để đổi lấy mấy bữa cơm không tình cảm. Hơn nữa... cơm chùa là của
bá tánh chứ không phải của ông thầy. Nói thầy nuôi là nói cho gọn, cho
dễ hiểu. Chứ thật ra một người xuất gia ở chùa chỉ mang ơn cơm gạo
của bá tánh mà thôi. Ông thầy không có công nuôi nấng cơm ăn áo mặc
gì hết, nhất là một ông thầy đám thầy cúng. Ông ta chỉ đào tạo chú
thành một người phụ tá để đi cúng kiếm tiền, để sai làm việc trong
chùa thôi, và mỗi ngày đi cúng đám với ông ấy là chú đã tự kiếm miếng
cơm cho chú, chứ có phải là ông ấy nuôi chú đâu! Ổng không có nuôi
chú ngày nào hết, nghĩ lại đi!" chú Tiến nói một hơi với giọng đàn
anh như vậy.
Chú Hữu còn đang phân
vân thì chú Tiến lại tiếp:
"ở đó chú không được
dạy dỗ gì hết. Chú nhớ lại xem. Suốt năm suốt tháng chú không được
dạy dỗ điều gì hay ho cả. Chỉ có sai vặt, đấm bóp, đi chợ, giúp cô
Diệu Lan, xách nước cho cô tắm... toàn là ba cái chuyện bá láp, bất
công! Tôi nói có đúng không! Tôi có ở Nghĩa Trủng một thời gian đó
chú à! Chú tin tôi đi, suốt đời chú ở đó chú vẫn cứ là một người
để sai vặt mà thôi."
Tâm Tuệ chen vào:
"Chú Tiến biết
không, cô Diệu Lan mới vừa đi nhà thương hộ sinh đó, có thầy lái xe gắn
máy theo hộ tống."
Chú Tiến thả xụi hai vai
xuống ra dáng muốn xỉu:
"Ôi trời! Chú tiểu
đây có rồi mà thầy còn kiếm chi thêm chú tiểu khác nữa vậy thầy!"
(nói ngang đây, Tiến bỗng ngay người lại, nói giọng nửa giỡn nửa thiệt)
"à này, vậy là chú tiểu sắp ra đời sẽ là trụ trì tương lai vì
nó là con ruột của thầy ấy, còn chú chỉ là con nuôi thôi. Trước sau gì
rồi chú cũng phải cuốn gói ra khỏi chùa. Có một đứa con ruột ra đời,
chú càng bị đối xử tệ hơn. Chú lo tính chuyện sớm đi."
Chú Hữu càng nghe càng bối
rối chẳng biết tính sao. Tâm Tuệ thấy tội nghiệp, nói:
"Tôi định bụng là nếu
tôi với chú Tiến xin vào Phật học viện được, hai đứa chúng tôi sẽ
lên xin thầy Giám viện cho chú vào đó ở tu rồi học dự thính một thời
gian, sau đó nếu chú học kịp thì xin học chính thức luôn."
"Nhưng... phải có thầy
bổn sư giới thiệu mà. Hôm trước chú nói vậy."
Chú Tiến trả lời thay
Tâm Tuệ:
"Đó là theo nguyên tắc,
chứ hoàn cảnh của chú, thầy nào nghe cũng sẽ hết lòng giúp đỡ. Chẳng
hạn như thầy của Tâm Tuệ hay thầy tôi ở chùa Phổ Hiền cũng có thể
giúp chú được."
Chú Hữu sáng mắt mừng rỡ:
"Vậy hả?"
Nhưng rồi chú mặt chú lại
chùng xuống. Chú nhớ đến chùa mình. Nơi đó, chú không hiểu có cái gì
đó khắng khít với mình lắm, đến nỗi khi nghĩ đến chuyện bỏ đi, dù
sung sướng cách mấy, chú cũng nghe đau nhói ở bên trái ngực mình. Chú
không phân định được cái gì đã níu kéo, ràng buộc tâm hồn mình.
Lòng chú bỗng buồn vô hạn. Chú nói với hai chú kia với giọng không mấy
tin tưởng rằng mình sẽ quyết định tìm một cuộc sống mới:
"Có hai chú hay quý thầy
giúp thì tôi mừng lắm. Nhưng... tôi không biết tôi có đi được không nữa.
Thôi, hay là các chú cứ vào Phật học viện đi. Khi nào nghỉ học về đây
các chú ghé cho tôi biết rồi tôi mới tính được."
Chú Tiến nói:
"Cái đó tùy chú
thôi. Hai đứa tôi sẽ cố gắng giúp chú thoát khỏi đó rồi vào Phật học
viện nữa. Chú chưa tính được bây giờ thì rãi rãi mà tính, nhưng chân
thành mà nói, tôi khuyên chú bằng cách nào cũng phải tính chuyện rời khỏi
cái chỗ hắc ám đó nếu chú thật sự muốn trở thành một người xuất
gia chân chính. Còn như chú muốn trở thành thầy đám thầy cúng thì tụi
tôi không bàn tới nữa."
Ba chú từ biệt nhau ở cổng
tam quan. Tâm Tuệ còn gắng níu chú Hữu lại, căn dặn kỹ càng với giọng
cảm động:
"Thầy tôi có dặn
chú hôm trước là khi nào chú có chuyện khó xử thì đến thầy, thầy sẽ
giúp chú, chú nhớ nghen, đừng để ai ăn hiếp hành hạ chú nghe."
Chú Tiến cũng nói:
"Có hàng trăm chùa sẵn
sàng dang tay đón nhận những chú tiểu xuất gia như chú. Hoàn cảnh của
chú, không chùa nào từ chối đâu. Chú nhớ nghe."
Chú Hữu nghe lời dặn dò
của hai bạn mà chảy nước mắt. Chú không ngờ chú có thể có được những
người bạn tốt như hai người bạn này. Các chú chắp tay vái chào nhau.
Chú Hữu vội vã trở về chùa.
Vừa bước vào cổng chú
thấy thầy tay cầm roi đứng chực sẵn. Thầy vụt cho chú mấy roi vào lưng,
vào vai. Đau quá chú chạy ra sân, thầy rượt theo, hét:
"Đứng lại, đứng lại
không tao đuổi luôn ra ngoài đường!"
Chú không dám chạy nữa,
đứng lại chịu đòn. Thầy chẳng nói chẳng rằng, quất chú túi bụi bằng
chiếc roi mây mà khi nào nóng giận lắm thầy mới cầm đến để phạt chú.
Chú té xuống đất, thầy cũng chẳng tha, quất bừa lên người chú. Chú lăn
qua lăn lại để tránh đòn nhưng vẫn không thoát được những lằn roi
đau xé thịt da. Thầy ngưng tay rồi, chú mới lồm cồm ngồi dậy, khóc
thút thít. Thầy gằn giọng:
"Tôi bảo chú giữ
chùa mà chú bỏ đi đâu? Lỡ ăn trộm vô hốt hết đồ thì sao!"
"Dạ... con đã khóa cửa
rồi."
"Khóa cửa mà ăn nhằm
gì! Nhưng tôi hỏi chú đi đâu?"
"Dạ... con... con ra tiệm
sách."
"Ra tiệm sách làm cái
gì! Tôi có bảo chú đi không! Kinh sách ở chùa chú học có hết đâu. Chữ
Hán học đã hết đâu! Bộ tôi dạy chú không đủ sao mà còn đi kiếm thêm
sách về học? Làm như là hiếu học lắm vậy! Đi vô rửa mặt đi. Chú
còn tái phạm tôi đuổi chú về với ba má chú lập tức."
"Dạ... con không dám nữa,"
chú đứng dậy vái chào thầy rồi vào trong.
Thầy thì vào phòng cô Diệu
Lan loay hoay soạn đồ đạc gì đó. Chú vào phòng kiếm dầu xức lên các
vết xước và bầm trên người, thấy đau rát cả người. Một lúc, thầy
ôm một gói đồ lớn ra cột phía sau xe gắn máy.
"Hữu!"
Chú dạ rồi chạy ra sân:
"Thầy gọi con?"
"Coi chùa nghe chưa. Thầy
đi xuống nhà thương, tối mới về. Nếu sau mười giờ không thấy thầy
về, chú cứ đóng cửa nẻo kỹ lưỡng rồi đi ngủ, nghe chưa?"
"Dạ," chú đáp
mà trong lòng thấy vui vui. Chú chẳng hiểu sao bây giờ chú lại thấy vui
khi thầy đi vắng. Chú phụ giúp thầy ràng bao đồ sau xe. Thầy đang hầm
hầm bỗng đổi vui, vừa cười vừa nói:
"Cô Lan sanh đứa con
trai."
"Vậy hả thầy?"
chú Hữu hỏi lại cho có lệ.
Thầy có vẻ vui lắm. Nếu
không thì thầy còn đánh phạt chú nặng nề hơn nữa. Chú nghĩ vậy. Đứa
bé trai mới chào đời chẳng dính dáng gì đến chú để có thể cho chú
niềm vui. Nhưng cũng nhờ nó mà thầy nhẹ tay với chú hôm nay mà thôi. Khi
thầy đi rồi, chú lẩn thẩn bước ra sân, đến ngồi dưới gốc cây đa.
Những rễ má chằng chịt của cây đa rũ xuống quanh chỗ chú ngồi. Chú
thấy ấm lòng khi ngồi dưới gốc đa—người bạn thân thuộc của chú.
Chú nói với cây đa:
"Đa ơi, sao tui khổ vậy
Đa? Thầy đánh tui Đa có thấy không? Đây nè, đánh chỗ này sứt cả miếng
da, chảy máu ra, Đa có thấy không? Còn chỗ này, chưa chi mà bầm tím rồi.
Từng lằn, từng lằn ở đây nữa nè. Đau lắm đó Đa à! Không ai cản thầy
hết Đa thấy không? Hồi tui ở nhà... hu hu... hồi tui ở nhà... ba má tui
đâu có đánh tui. Ba má tui thấy tui ốm yếu nên không bao giờ đánh tui hết
á. Hu hu... ba má tui tưởng thầy tui hiền, sẽ không đánh tui... hu hu... vậy
mà thầy đánh tui hoài. Ba má tui đâu có biết. Mà tui cũng không dám nói
cho ba má tui nghe nữa. Tui đâu có muốn ba má tui buồn... Đa thấy tui có
hoang không? Tui đâu có hoang phải không? Tui đi qua chùa của bạn tui thôi
mà, vì bạn tui sắp đi học xa rồi, tui phải qua từ giã bạn tui chớ. Bạn
tui hai người, người nào cũng được đi học hết đó Đa à. Bạn tui sướng
lắm, được thầy thương, không bị ai mắng chửi, đánh đập, ăn hiếp hết....
hu hu, sao tui khổ vậy hở Đa?"
Cây đa như lắc lư, xào xạc
cả lá cành để an ủi chú. Chú ngồi đó mà khóc cho đến khi trời tối
mới từ giã cây đa mà vào trong.
Ngồi nơi bàn học trong
phòng riêng của mình, nhìn sách vở bút tập, nhìn mấy cuốn luật mà Tâm
Tuệ tặng, chú bỗng thấy nỗi háo hức đi học xa ùn ùn nổi dậy. Chú
khát khao được vào Phật học viện biết bao. Chú tự nhủ: "Không lẽ
mình ở suốt đời tại đây để đi cúng đám, làm việc lặt vặt như vầy
hoài sao!" Chú đứng dậy đi vòng vòng trong phòng rồi lại ngồi xuống
trước bàn học. Tại sao mình không nhân cơ hội thầy đi vắng mà bỏ
chùa trốn theo chú Tiến với Tâm Tuệ? Hai chú ấy nói là quý thầy ở
chùa nào cũng vui lòng nhận mình đến ở hết. Quý thầy khác đâu có giống
thầy ở đây. Như thầy của Tâm Tuệ đó, thầy ấy sao mà hiền và thương
Tâm Tuệ quá, thương cả mình nữa. ở chùa khác cũng đâu có ai như cô Diệu
Lan, đụng đâu sai đó, chửi đó, có khi cãi lộn với cả thầy nữa. Thầy
còn nể sợ cô ấy nữa thì làm sao cô ấy chẳng ăn hiếp mình! Nghĩ vậy,
chú vụt đứng dậy, ra cổng chùa nhìn xem thầy đã về chưa. Rồi chú trở
lại phòng, đứng tần ngần, phân vân một lúc. Cuối cùng, chú vội vàng
thu xếp hai bộ áo quần cùng một ít kinh sách của mình vào một cái bao
ni-lông lớn. Xong, chú khép cửa phòng lại. Đi quanh khóa chặt các cửa để
ăn trộm khỏi vào lấy đồ của chùa. Rồi chú ôm gói đồ, vụt chạy ra
ngoài. Nhưng đến ngang cổng tam quan, chú bỗng khựng lại. Chú thấy sao
mà khó lòng bỏ đi một cách âm thầm lén lút như vầy. Có cái gì đó
níu kéo chú mà chú không hiểu nổi. Mấy năm nay sống bên một vị thầy
nhu nhược sợ đàn bà, ít suy nghĩ, ít tình cảm và một người đàn bà
đanh đá hiểm ác lúc nào cũng sẵn sàng hoác rộng miệng ra để chửi rủa
tru tréo, chú thấy không lưu luyến gì với họ cả khi quyết định rời họ
mà đi ngay lúc này. Nhưng sao trong lòng chú vẫn nghe một cái gì đó buồn
buồn, vương vấn. Dường như nơi cảnh chùa nhỏ hẹp buồn tẻ này vẫn
có cái gì êm đềm khắng khít với tâm hồn chú, vuốt ve những đau buồn
tủi nhục của chú hằng ngày. Chú thấy quặn đau trong lòng khi đứng nơi
cổng tam quan với ý nghĩ nhìn lại ngôi chùa lần cuối trước lúc từ biệt.
Dùng dằng một lúc, chú thở dài rồi lững thững quay trở vào trong,
không đi nữa. Chú ném gói hành lý của mình trên giường. Chú bước lên
chánh điện, đi quanh các bàn thờ, nhìn thật kỹ những tượng Phật, tượng
Bồ Tát, tượng Hộ Pháp và các khuôn hình quen thuộc trên bàn thờ vong
linh. Chú nhớ những thời tụng kinh của mình từ khi mới vào chùa đến
nay. Chắc là cả ngàn lần chú tụng kinh nơi chánh điện này rồi. Những
lần đó, có khi có thầy, có khi chỉ mình chú. Chú thích tụng kinh lắm.
Nhưng, hình như chuyện tụng kinh không phải là điều làm chú lưu luyến.
Chú có thể tụng kinh ở một ngôi chùa khác với thầy khác hoặc các chú
tiểu khác. Chú đứng mãi nơi chánh điện mà chẳng hiểu chú luyến tiếc
gì nơi đây và chú cũng thật tình chẳng biết phải làm gì ngay lúc này nữa.
Chỉ thấy một nỗi buồn tràn ngập trái tim nhỏ bé của mình.
Bỗng chú nghe thấy tiếng
xe gắn máy của thầy chạy vào sân chùa. Chú lật đật rời chánh điện
trở về phòng mình, cất dấu gói hành lý. Chú ra đón thầy ở cửa hông
của chùa. Vừa khóa xe, thầy vừa nói:
"Thằng nhỏ dễ thương
hết sức!"
Chú chẳng nói gì. Chú nhớ
đến Tâm Tuệ và chú Tiến. Các chú ấy cho rằng thầy và cô Diệu Lan đã
có con với nhau. Có nghĩa rằng thằng bé mới chào đời là con thầy. Hèn
chi thầy vui quá. Y hệt ba chú mừng thằng cu Đen em út của chú lúc nó mới
được mẹ chú sanh ra vậy.
Ngày nào thầy cũng lái xe
gắn máy mang cơm mang nước gì đó cho cô Diệu Lan. Đâu khoảng tuần lễ
thì thầy đưa cô ấy cùng thằng bé sơ sinh về chùa. Thằng bé được thầy
hay cô Diệu Lan đặt tên là Mừng. Chắc thầy mừng quá không nghĩ ra được
cái tên nào khác bèn đặt đại theo xúc cảm của thầy thôi. Cô Diệu Lan
hay sai chú quạt lò than đặt dưới giường cho cô. Khi thằng Mừng khóc,
cô bảo chú đu đưa cái nôi cho nó nín. Rồi cô tập cho chú thay tả cho
nó nữa. Chú ghét nhứt là công việc thay tả này. Một tay bịt mũi một
tay thay, chú bị cô Diệu Lan chửi cho một hồi:
"Làm gì dữ vậy! Em
nó có ăn uống gì đâu mà c. em thúi! Bịt mũi bịt mũi có ngày bị quả
báo sứt mũi cho mà coi!"
Những ngày cô nằm dưỡng
chú thật là cực nhọc. Hầu như suốt ngày chú thường trực dưới phòng
cô để chực cô sai bảo và cũng để ẵm, ru thằng Mừng cho cô ngủ ngon
giấc (thầy bảo vậy). Vừa lo việc chùa, chú còn phải lo cho cả hai mẹ
con cô Diệu Lan nữa, thật là cực nhọc. Chú nhớ hồi thằng cu Đen em chú
chào đời, ba má chú đâu có bảo chú làm gì. Chú thấy chán nản lắm, nhưng
chú cứ bặm môi, cúi mặt mà làm tất cả những gì thầy và cô sai bảo.
Có lúc đang ngồi đưa nôi cho thằng Mừng, chú bỗng nẩy sinh ý nghĩ bỏ
chùa mà đi. Nhưng, chú nghĩ, có lẽ giờ này Tâm Tuệ và chú Tiến đã đi
vào Hội An để dự cuộc thi tuyển vào Phật học viện rồi. Chú có trốn
đi thì cũng chẳng ai hướng dẫn và giúp đỡ. Thôi thì đành cắn răng mà
chịu. Huống chi chú vẫn còn quyến luyến gì đó nơi chùa này đến nỗi
mỗi khi nghĩ đến chuyện đi thì tự dưng thấy đau đau ở trái tim.
Chiều đó, cô Diệu Lan lại
sai chú đi mua đồ. Mua sữa bò cho thằng Mừng. Chú nghĩ bụng, phải nhân
cơ hội này ghé chùa Từ Quang thăm Tâm Tuệ. Hy vọng chú ấy và chú Tiến
chưa đi Hội An.
Quả nhiên Tâm Tuệ chưa
đi. Chú Hữu mừng lắm, bước vào phòng bạn là hỏi dồn:
"Tôi tưởng chú đi rồi
chớ. Chừng nào mới đi? Chú Tiến có qua đây đi chung với chú không? Các
chú đi chừng nào thì về thăm?"
Tâm Tuệ nói mà giọng có
vẻ ái ngại, sợ bạn buồn tủi:
"Sáng mai hai đứa tôi
đi rồi. Tối nay chú Tiến qua đây ở lại một đêm. Đến Phật học viện,
tụi tôi phải chờ khoảng tuần lễ rồi mới thi khảo hạch. Nếu đậu
thì ở luôn đó mà học, rớt thì về lại đây ngay."
"Nhưng chắc là không
rớt đâu phải không chú?" chú Hữu hỏi.
"Tôi cũng nghĩ vậy. Tôi
và chú Tiến học kỹ lắm. Điều kiện là tốt nghiệp Sơ đẳng Phật học
nhưng tôi và chú Tiến đều đã học chương trình tương đương với Trung
đẳng I thì làm sao mà rớt được. Chú Tiến nói sẽ cố gắng xin cho chú
vào Phật học viện, nếu không dự học được thì cũng xin ở đó mà tu
cũng tốt phước hơn là..."
Tâm Tuệ chưa nói hết
câu thì Hữu đã sa nước mắt, cúi mặt nghẹn ngào.
"Sao vậy? Có chuyện
gì vậy? Chú bị họ ăn hiếp phải không? Nói tôi nghe đi?" Tâm Tuệ
nóng ruột hỏi.
Chú Hữu không trả lời
được, cổ họng chú nghẹn cứng. Sự quan tâm của bạn làm chú cảm động
và càng khóc nhiều hơn, nước mắt chú chảy từng hàng từng hàng xuống
hai gò má ốm xanh. Tâm Tuệ lúng túng chẳng biết an ủi bạn thế nào. Chỉ
cầm tay bạn mà bóp nhẹ. Vừa lúc đó, chú Tiến bước vào, mang theo hai
cái va-li lớn. Thấy Hữu khóc, chú Tiến nói ngay:
"Có chuyện rồi phải
không! Cái mụ đó đánh đập chú hả? Tôi nói chú bỏ đi, đừng nấn ná
chi ở cái chỗ u tối đó. Họ làm gì chú vậy, nói tôi nghe coi."
Chú Hữu không nói gì được.
Phải một lúc lâu, chú mới nói tóm được một câu:
"Suốt ngày tôi phải
giữ em, thay tả, chăm sóc cho cô Diệu Lan và thằng con của cổ..."
Chú Tiến nghiến răng nói:
"Không được! Dứt
khoát là không được rồi. Họ làm vậy là hết mức rồi. Không ai mà chấp
nhận được! Để tôi qua đó nói chuyện với họ. Phải chấm dứt lập tức
tình trạng bỉ ổi đó!"
Chú Hữu níu Tiến lại:
"Đừng chú. Đừng làm
vậy, thầy đuổi tôi đó."
"Đuổi? Đuổi thì đi
chứ sợ gì! Thiếu gì chùa thương chú. Chú là chú tiểu rồi thì tất cả
các chùa đều là nhà chú, chú có biết không? Chú là con của Giáo Hội,
chẳng phải là con riêng gì của ông ấy hết! Đi, ba đứa mình đến đó
nói chuyện thẳng với họ."
Chú Hữu dùng dằng níu bạn,
không muốn đi. Tâm Tuệ cũng giữ chú Tiến lại, nói:
"Khoan đã Tiến à, đừng
nóng nảy như vậy. Thầy ấy là người lớn, thầy đâu thèm nói chuyện với
tụi mình. Nếu cần thì nhờ thầy tôi qua nói chuyện, hoặc là... chú Hữu
cứ đi luôn khỏi cần quay về nữa thì êm chuyện. Chú ở đây, ngày mai
theo chúng tôi đi đến Phật học viện. Tụi tôi xin dự thi để nhập học,
còn chú thì xin nhập chúng ở tu; khi nào chú có thể học theo kịp thì xin
học. Thời gian đầu chỉ xin ở tu thôi. Chắc chắn ba đứa lên lạy thầy
Giám viện nói rõ hoàn cảnh chú thì thầy sẽ nhận chú làm đệ tử ngay.
Các chú thấy sao?"
Tiến đáp ngay:
"Hay lắm, ý kiến rất
là hay. Chú Hữu bây giờ cứ ở lại đây đi, sáng mai tụi mình cùng đi.
Chắc chắn thành công mà. Đừng có thèm trở về cái địa ngục đó nữa."
Hữu nghe ý kiến các bạn,
trong lòng vô cùng phấn khởi. Nhưng nhớ lại là mình chưa chuẩn bị gì hết,
chú nói:
"Cám ơn các chú bày
cách hay. Tôi vui lắm. Nhưng..."
"Đừng có nhưn nhị gì
hết. Không có tiếc gì cái chỗ đó nữa," chú Tiến chận ngang.
"Không phải. Tôi đang
cầm tiền để mua sữa cho thằng Mừng con cô Diệu Lan."
"Cứ mua sữa đi... rồi
để tôi nhờ một bác xích lô mang về chùa Nghĩa Trủng dùm là được rồi.
Có bác Bảy xích lô ở kế bên chùa này nè," Tâm Tuệ nói.
"Nhưng... tôi còn đồ
đạc ở chùa, làm sao mà lấy được?" Hữu nói giọng lo lắng.
"Đồ của bọn tiểu
mình có gì đâu mà tiếc! Cũng là hai ba bộ đồ vạt khách với dăm ba cuốn
kinh thôi chứ nhằm nhò gì đâu! Bỏ hết đi, tụi tôi góp tiền may đồ
khác cho chú. Bây giờ chú mặc tạm đồ của Tâm Tuệ cũng vừa mà,"
Tiến góp ý.
"Chú Tiến nói đúng
đó, bỏ hết đồ đó đi, sắm lại đồ khác. Tụi tôi có may thêm đồ
trước khi đi Hội An, để tôi chia bớt cho chú hai bộ mặc tạm. Sau này tụi
mình may thêm. Tôi và Tiến đều có tiền của gia đình, lại thêm tiền của
thầy cho nữa. May đồ, mua vé xe đò, vậy là đủ rồi, kinh sách học thì
chùa nào lại chẳng có, khỏi lo chú à. Đồng ý đi. Tụi tôi không muốn
chú tiếp tục bị đày đọa nữa. Chú phải dứt khoát thì mới có tương
lai được."
Chú Hữu suy nghĩ một lúc,
lau nước mắt rồi sung sướng gật đầu.
*
Tâm Tuệ đưa tiền nhờ bác
Bảy xích lô mua sữa rồi đem đến trao tận tay cho cô Diệu Lan. Bác Bảy
là Phật tử thân cận của chùa Từ Quang, theo lời dặn của chú Tâm Tuệ,
chỉ nói vắn tắt là có một chú tiểu nhờ đem sữa đến và chú ấy sẽ
không bao giờ trở lại nữa. Cô Diệu Lan tròn xoe đôi mắt, lật đật lên
báo tin cho thầy biết. Thầy hầm hầm la hét om sòm:
"Để rồi coi, một
hai ngày đói meo ngủ bờ ngủ bụi rồi nó cũng lết về đây cho mà xem!
Đồ cái quân mất dạy, phản chủ!"
Tâm Tuệ không muốn phiền
đến thầy mình nên đem dấu chú Hữu trong phòng. Buổi tối, Tâm Tuệ đem
cơm vào phòng cho chú Hữu ăn. Tâm Tuệ nói:
"Chút nữa tôi và chú
Tiến lên lạy từ giã thầy để khuya nay đi. Khi tụi tôi đi chào thầy,
chú cứ ở lại trong phòng này. Tối nay chú ngủ tạm một đêm ở đây,
khuya này khi thầy đang tụng kinh thì tụi mình rời chùa ra bến xe, vậy
thì thầy sẽ không biết gì hết. Tôi không muốn thầy biết chuyện... thực
ra thầy tôi biết thì thầy cũng thương mà giúp chú thôi, nhưng sợ thấy
thầy khó xử với thầy chú. Chuyện tụi mình tính tôi nghĩ là sẽ êm
xuôi, không muốn phiền thầy để rồi giữa hai chùa, hai thầy có xích
mích với nhau. Chú hiểu tôi không?"
Chú Hữu gật đầu ngay.
Chú không ngờ Tâm Tuệ mới mười sáu tuổi mà lanh lợi, tế nhị, biết
điều làm sao.
Buổi tối sau khóa Tịnh
Độ, thầy gọi chú Tâm Tuệ và cả chú Tiến lên phòng riêng của thầy
để dặn dò chuyện đi học xa. Tâm Tuệ và Tiến dấu nhẹm chuyện của
chú Hữu, không hé môi với thầy lời nào. Thầy soạn cho Tâm Tuệ và chú
Tiến một ít kinh sách cần thiết. Thầy còn cho hai chú tiền để đi học
xa nữa. Khi rời phòng thầy, chú Tiến nói với Tâm Tuệ:
"Thầy tôi có cho tôi
tiền rồi. Tiền của thầy chú cho thêm, tôi dành cho Hữu. Nghĩ đến chú
ấy tôi thấy tội nghiệp quá. Hy vọng chuyến đi này sẽ cho chú ấy một
cuộc sống mới, đúng nghĩa."
Sau khi coi lại hành lý lần
chót, Tâm Tuệ và chú Tiến giăng mùng. Ba chú nằm chung trong một cái mùng
to, cùng ngủ dưới đất. Cả đêm ba chú cứ bàn tính, nói chuyện tương
lai. Hữu sung sướng ngủ không được. Hai chú kia ngủ ngon rồi mà mắt
chú cứ trao tráo. Chú nằm lăn qua trở lại bao lần. Chú nhớ về chùa.
Chú ôn lại những ngày đầu khi cha mẹ chú đưa chú vào chùa. Chú thấy
thương cha mẹ quá. Cha mẹ chú đâu có biết chú bỏ chùa mà đi thế này.
Nếu biết, cha mẹ chú hẳn là buồn lắm. Chắc cha mẹ sẽ nghĩ rằng chú
hoang đàng, ngỗ nghịch, dám cãi thầy, bỏ chùa đi hoang. Chú nghĩ là chú
cần phải viết cho cha mẹ một lá thư ngay sau khi đến Phật học viện và
biết kết quả chuyện cư trú của mình tại đó. Càng suy nghĩ lòng chú
càng nghe buồn vô hạn. Nỗi vui nỗi buồn chen vào nhau, cắn xé nhau, làm
cho lòng chú dùng dằng rồi căng ra, thật khó chịu. Chú không rõ tại sao
quyết định bỏ chùa đi để tìm một đời sống mới nơi chùa khác, là
một quyết định hợp lý, đầy ý nghĩa, đầy hạnh phúc, mà lại khiến
cho tâm hồn chú thấy chùng xuống như mất mát một cái gì to lớn lắm vậy.
Nghĩ đến thầy và cô Diệu Lan, trong lòng chú không nẩy sinh chút tình cảm
êm đềm nào hết. Thật uổng phí hai năm chung sống với họ dưới một mái
chùa. Giờ này nghĩ đến họ, chú chỉ nghe một nỗi chán chường, tởm lợm.
Chú không luyến tiếc gì họ cả. Có một cái gì khác mà chú bỏ quên nơi
ngôi chùa đó. Chú không nghĩ ra được. Chú nằm trằn trọc cho đến một
hai giờ khuya, bỗng dưng chú sực nhớ đến người bạn thân yêu của
chú. Chú ngồi vùng dậy. Phải rồi, cây đa, cây đa! Chú thương cây đa của
chùa quá. Đó là người bạn duy nhất từng lắng nghe, từng chứng kiến
bao nỗi đau buồn khổ nhục của chú suốt hai năm nay, từ khi chú vào
chùa. Chú ngồi đó, nghĩ đến cây đa, chú nhớ cây đa, và chú khóc. Một
chặp lâu, thấy Tiến và Tâm Tuệ hãy còn ngủ ngon, chú bỗng nẩy ý định
quay trở về chùa.
Chú rón rén chui ra khỏi
mùng. Chú ước tính, từ đây về chùa chú khoảng một cây số, nếu chú
đi bộ thì chỉ mất mười lăm phút là cao. Chú rón rén mở cửa phòng
Tâm Tuệ, bước ra ngoài. Chú nhẹ nhàng đi băng ngang phòng ăn, phòng thầy
trụ trì, hành lang chánh điện, rồi ra sân. Cổng chùa này chỉ cài then chứ
không khóa kỹ như cổng chùa chú. Chú khép cổng lại rồi đi nhanh về hướng
chùa mình.
Đường phố vắng hoe, chỉ
có vài chiếc xích lô đạp nhanh đi tìm khách. Chú cúi mặt đi không nhìn
ngó ai. Từ xa, chú đã thấy cây đa vươn lên phủ rợp cả một nửa mái
chùa. Nhìn thấy cây đa, trong lòng chú đã rung lên, xúc động. Chú chạy
nhanh đến cổng chùa. Cổng khóa không vào được, chú leo qua song sắt nhảy
vào trong. Rồi chú chạy a đến cây đa. Chú ôm cây đa mà khóc nấc. Cây
đa, người bạn khổng lồ của chú, dường như dang tay để ôm chặt chú
vào lòng. Chú chẳng nói gì với cây đa. Chỉ khóc thôi. Rồi chú từ biệt
cây đa. Nhảy ra khỏi cổng rào rồi, chú đưa tay vẫy vẫy với cây đa:
"Tạm biệt Đa nghen.
ở đâu tui cũng nhớ Đa hết. Đa ở lại đừng có buồn nghe Đa..."
Rồi chú phóng nhanh trở lại
chùa Từ Quang. Nhẹ nhàng vào sân chùa, vào phòng Tâm Tuệ, chui vào mùng, nằm
xuống ngủ. Bây giờ chú ngủ được rồi.
Bốn giờ khuya, khi thầy của
Tâm Tuệ tụng kinh trên chánh điện, Tâm Tuệ đánh thức Hữu và Tiến dậy.
Cả ba cùng mang hành lý ra bến xe. Chú Hữu phụ xách hành lý cho hai chú
kia, vì chú chẳng có hành lý gì. Mua được vé xe rồi, ba chú leo lên xe ngồi.
Tài xế cho biết một tiếng đồng hồ nữa xe mới chạy. Ba chú ngồi
trên xe với tâm trạng nao nao, sung sướng. Khi chất hành lý xong xuôi, bác
tài xế kiểm soát vé của hành khách trước khi khởi hành. Các chú biết
là xe sắp chạy rồi. Khung trời mới sắp mở ra rồi.
Bỗng nghe tiếng gọi từ
phía dưới xe. Tiếng gọi rất quen thuộc:
"Tâm Tuệ, Tâm Tuệ!"
Chú Tâm Tuệ thò đầu ra
khung cửa sổ và thấy thầy mình. Tay thầy ôm một gói đồ, tay kia thầy
cầm hai cái phong bì, vừa đi quanh xe vừa cất tiếng gọi. Tâm Tuệ mừng
quá reo lên:
"Con đây, bạch thầy!"
Thấy ba chú rồi, thầy
xin phép tài xế lên xe để dặn dò các chú. Ba chú cùng đứng dậy chắp
tay vái chào thầy. Thầy kéo chú Hữu đến gần, ôm chú vào lòng, rồi xoa
đầu chú. Chú không ngờ trước được sẽ có sự cố này xảy ra. Chú chỉ
biết khóc, gục mặt vào chiếc áo nâu bao dung của thầy mà khóc. Thầy hiền
hòa nói:
"Đây là hành lý thầy
gói cho con. Phong bì này là thư giới thiệu của thầy, con mang lên trình Thượng
Tọa Giám Viện thì Thượng Tọa sẽ cho con ở lại Phật học viện mà tu
học. Thượng Tọa là bạn cũ của thầy đó. Còn phong bì này là chút tiền
thầy cho để con mua sắm thêm các thứ linh tinh. Trong gói đồ này có vài
cuốn kinh và mấy xấp vải để con may đồ. Con cố gắng tu học nghen. Có
gì không hiểu thì nhờ chú Tiến và Tâm Tuệ dìu dắt. Thầy không kịp thời
giờ để căn dặn, dạy dỗ con. Con nên tự biết con đường cao đẹp mà
con chọn để tiến tu. Không còn con đường nào cao quý hơn. Thôi các con
đi bình an và thành công há."
Thầy xoa đầu các chú rồi
xuống xe. Ba chú nhìn theo thầy rồi nhìn nhau. Không chú nào biết tại sao
thầy biết có chú Hữu trốn chùa đi theo chuyến đi này. Chỉ có chú Hữu
là thầm đoán được rằng có thể lúc khuya lẻn về chùa Nghĩa Trủng
thăm cây đa, thầy đã thức và thấy chú... Bỗng thầy lại xuất hiện
ở dưới, bên khung cửa sổ, thầy ngước lên gọi chú Hữu. Tâm Tuệ nhường
chỗ cho chú Hữu chen ra cửa sổ.
"Bạch thầy gọi
con?" chú Hữu cảm động hỏi.
Thầy cười cười nói:
"Khi nào thầy đi ngang
chùa con thầy sẽ vẫy tay với cây đa, nói rằng con rất dễ thương, và
con đang siêng năng tu học ở xa, nhé!" ª
California 13/7/92
http://www.buddhismtoday.com/viet/truyen/caydachuacu.htm