- Chuyến Xe Chợ Chiều
Vào một mùa đông, khí trời lạnh
lẽo trên đất Phật tại Lâm-Tỳ-Ni, ánh hoàng hôn như ngả nắng về chiều
chỉ còn để lại những tia nắng vàng yếu ớt, phản chiếu xuyên qua khe
cửa sổ. Đàn chim từ đâu lần lượt rủ nhau kéo về trên vòm trời xanh
như muốn tìm cho chúng một nơi trú ẩn qua đêm. Thỉnh thoảng, những cơn
gió nhẹ thoáng qua khiến cho những lá cây quanh chùa rung rinh xào xạt, cộng
thêm tiếng suối chảy róc rách tạo thành một bản nhạc nghe thật du dương.
Không hiểu sao, chiều nay tôi có một
cảm giác thật ớn lạnh hơn mọi ngày. Trong lòng của tôi như có một điều
gì đó bân khuâng lo lắng và bất an. Một mình tôi đã bước nhẹ qua nhà
bếp để chuẩn bị cho buổi cơm chiều, nhưng tôi đã chợt nhận ra là
không còn thứ gì trong đó cả. Tôi đã phải ngước mắt nhìn trời và thở
ra một hơi thật dài như nói lên một điều hối tiếc. Vì lúc này trời
đã bắt đầu chuyển về chiều, những cảm giác lo lắng cứ thúc giục
tôi là phải đi kịp cho chuyến xe chợ chiều nay.
Với chiếc túi xách trên vai, một
mình tôi đã bước nhẹ thoăn thoắt qua con đường mòn quen thuộc mà mỗi
ngày tôi thường đến vườn Lâm-Tỳ-Ni để lạy Phật. Thỉnh thoảng, tôi
phải dừng lại để tránh những chiếc xe chở đầy ắp người hành hương
từ mọi nơi đổ về, trông họ có vẻ vui tươi và hớn hở lắm, với những
bộ đồ rực rỡ và đầy màu sắc. Có lẽ đây là ngày đầu tiên mà họ
được đặt chân đến chốn này để chiêm ngưỡng sự thánh thoát, an lạc
nơi đất thiêng. Đôi khi tôi phải dùng tay bịt mắt và miệng để khỏi
hứng chịu những lớp bụi dày đặt đang tấn công và bao phủ lấy tôi.
Chỉ trong chốc lát, tôi đã đến đường cái lộ, đây là điểm dừng của
những chiếc xe đón khách. Vài phút sau, tôi nhận ra có một chiếc xe từ
xa chạy lại, nhìn trên xe tôi thoáng thấy chỉ một vài người lưa thưa và
trong họ như có vẻ mệt mỏi, lộ trên những nét mặt hốc hác nhưng thuần
chất người dân lao động nghèo, hiền lành và chất phác. Có lẽ, họ cũng
mới đi làm về từ một nơi đồng áng xa xôi. Tôi đã nhẹ nhàng bước lên
xe và tìm cho mình một chỗ ngồi thích hợp. Tất cả mọi người đều đổ
dồn về tôi với những cặp mắt dò dẫm, ngạc nhiên. Tôi cảm thấy ngần
ngại và vội vàng chào tất cả mọi người bằng một nụ cười để thể
hiện phần nào tình người với tình người. Thoáng nhìn vào khoang lái,
tôi bất chợt gặp anh tài xế người mà đang chuẩn bị đang điều khiển
cho chuyến xe chợ chiều nay. Anh cũng nhìn tôi bằng một nụ cười thật hồn
nhiên và trẻ trung. Nhưng trên khuôn mặt của anh vẫn không sao giấu được
những nét đăm chiêu, lo lắng cho nồi cơm ngày mai của gia đình anh. Dường
như tôi có một chút gì đó cảm thông cho hoàn cảnh của anh và của tất
cả những hành khách hiền lành trên xe. Dù rằng, chúng tôi chỉ mới gặp
nhau lần đầu tiên. Bỗng đâu, những cảm giác buồn lại thoáng hiện
trong đầu tôi. Rồi tôi lại lặng lẽ gụt đầu trên thành xe để nghĩ về
số phận của kiếp người. Năm phút trôi qua trong mơ màng, tôi đã nghĩ về
lời dạy của Đấng Từ Phụ trong nhiều bộ kinh như giáo lý Tứ Thánh Đế:
Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Ngài thật thấu hiểu tâm lý của tất cả chúng
sanh, tuỳ bệnh mà cho thuốc để rồi cả năm anh em Kiều-Trần-Như đều
chứng vào Thánh quả và lần lượt Ngài đã độ rất nhiều đệ tử nổi
tiếng thời bấy giờ, như tôn giả Ca-Diếp, Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền-Liên,
Ưu-Ba-Li, A-Nan-Da, v.v…đều chứng A-La-Hán. Nhưng rất tiếc, trong thời này
vì cách Phật quá xa, tất cả chúng sanh đều phải gánh chịu khổ đau và
bị chi phối bởi sanh lão bệnh tử. Cũng vì con người mang cái thân tạm
bợ này mà suốt đời phải bị lệ thuộc cho nó. Vì nó mà người người
phải hại nhau, cấu xé lẫn nhau bằng lòng tham ích kỷ của mình, chứ ít
có ai mà thương cảm cho nỗi thống khổ kẻ khác. Cũng chính vì thấu hiểu
cho nỗi khổ của chúng sanh đang lầm đường lạc lối mà Thái Tử Sĩ-Đạt-Ta
đã dứt khoát rời bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con thơ nhằm tìm
ra một chân lý tối thượng để giải thoát cho Ngài và cứu độ chúng
sanh. Vì nghiệp lực quá nặng nên chúng ta mới sinh ra trong thời này, tôi
lại tự hỏi không biết đến bao giờ chúng sanh trong đời này mới hết
khổ, mới nhận ra đạo giải thoát!? Thật khó vô cùng. Tôi lại càng
liên tưởng đến công hạnh của 2 vị Bồ-tát: Địa tạng Vương và Quán
Thế Âm. Vì thương cho tất cả chúng sanh mà các Ngài đã phát đại nguyện
thật rộng lớn "Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật, chúng
sanh độ tận, phương chứng Bồ-đề". Rồi về sau lại có vô số Bồ-Tát
thị hiện trong cõi ta-bà để hoá độ chúng sanh bằng nhiều phương tiện
khác nhau. Càng nghĩ về công hạnh của các Ngài, tôi càng cảm thấy hổ
thẹn cho chính mình, vì đối với bản thân của tôi còn chưa thoát ra được
những khổ đau do tâm ý phát khởi, chứ đừng nói chi việc giải thoát
hay cứu độ cho người khác. Nhưng đã là tu sĩ, Thích tử của Như Lai, chúng
ta phải cần nên cố gắng thật nhiều làm sao dẹp trừ tất cả những
hành vi xấu bên ngoài và những vọng tưởng bên trong để có được sự
an lạc cho chính mình và cho tất cả chúng sanh.
Bỗng đâu, có một tiếng kèn từ
xa vọng lại, nghe thật inh ỏi và chát tai, làm náo động cả một vùng.
Chính âm thanh dữ tợn ấy đã cắt ngang những suy nghĩ của tôi, tôi liền
ngẩng đầu dậy và ngước nhìn đằng sau có một chiếc xe từ xa chạy đến
thật nhanh như thúc giục một cách hối hả. Anh tài xế trên xe của chúng
tôi vừa muốn phóng đi nhưng vừa muốn dừng lại một chút nữa, dù chỉ
trong một khoảnh khắc rất ngắn, với niềm hy vọng mỏng manh là đón
thêm dăm ba người khách nữa. Tôi ngồi trên xe, mà trong lòng cảm thấy lo
âu và hồi hộp, tim của tôi mỗi lúc một đập mạnh vì không biết chuyện
gì sẽ xảy ra, nếu chiếc xe phía sau đụng phải chiếc xe của tôi. Tôi
đưa mắt nhìn quanh để quán sát mọi người thì dường như tất cả đều
có một tâm trạng không khác gì tôi, vì trên khuôn mặt mỗi người hiện
ra một vẻ hồi hộp lo âu. Nhưng cuối cùng, anh tài xế của chúng tôi
không còn hy vọng chờ thêm được nữa, vì tiếng kèn mỗi lúc một lớn
và xe phía sau đang phóng nhanh tới. Sau khi chiếc xe của tôi phóng đi trong
lòng của tôi mới cảm thấy nhẹ nhàng thoải mái như vừa trút đi một gánh
nặng trên vai và càng cảm thấy thương cho anh tài xế vô cùng. Vì có lẽ,
anh cũng rất lo lắng không biết với dăm ba người khách trên xe có đủ
cho nồi cơm của gia đình vợ con anh ngày mai không? Và tôi tự hỏi chính
mình, không biết trên đời này có bao nhiêu người có cùng một hoàn cảnh,
cùng một tâm trạng như anh tài xế đáng thương này. Ngồi trên xe mà tôi
luôn thầm niệm danh hiệu của Ngài Quán Âm Bồ-Tát làm sao gia hộ cho xe
anh được đầy khách. Bây giờ, tôi lại phải liên luỵ và bận tâm,
buân khuâng lo tính cho người khác rồi. Đây có phải là bản tính tự
phát với tấm lòng thương yêu và cảm thông trong tôi, tình người với tình
người chăng? Hay tôi đã vượt qúa xa với phạm vi mà mọi người thường
cho là chuyện bao đồng hay căn bệnh của thời đại. Nhưng dẫu sao trong
thâm tâm của tôi luôn tự tin rằng đó là việc làm, là lối suy tư đúng
với tình người. Tôi chỉ tiếc rằng không làm sao chia xẻ với anh tài xế,
với mọi người những nỗi vất vả khó khăn mà họ phải gánh chịu
trong đời sống của họ. Có chia xẻ chăng chỉ là một chút cảm thông
xuyên qua những cử chỉ thiện của tôi mà thôi.
Đột nhiên, anh tài xế điều khiển
chiếc xe dừng lại và trên khuôn mặt anh lúc bấy giờ lộ ra những nét
vui tươi với một nụ cười thoáng hiện trên môi. Ồ! Thì ra một vài người
khách, họ lần lượt bước lên xe, trông họ có vẻ sang trọng lắm, tất
cả đều tiến về phía sau để ngồi vào những băng ghế còn trống. Lúc
này, trên xe mọi người dường như có vẻ vui hẳn lên và nhộn nhịp hơn
trước. Đặc biệt là anh tài xế lúc nào cũng cười tươi và còn ca hát
nghêu ngao theo những bài ca của dân bản xứ. Rồi cứ thế, xe của chúng
tôi lại dừng, và từng lớp người lên xuống trông thật nhộn nhịp.
Đưa mắt nhìn đằng sau, tôi thoáng thấy xe anh đầy ắp người và cảm
thấy vui mừng khôn xiết như muốn hò reo lên rằng anh tài xế đã có đủ
nồi cơm cho gia đình anh ngày mai rồi. Nhưng sực nhớ lại, tôi đang là người
tu sĩ, thì cần phải thể hiện một chút oai nghi và tế hạnh. Nhưng dẫu
sao, tôi vẫn luôn lộ vẻ vui mừng để biểu hiện một sự cảm thông với
lối nhìn bao dung và đồng thời cũng muốn chúc mừng anh tài xế đã đuợc
may mắn trong chuyến xe chiều nay. Tôi ngẫm nghĩ lời cầu nguyện của tôi
dường như có linh ứng chăng, có lẽ Ngài Quán Thế Âm Bồ-Tát cũng có
chút động lòng cho những lớp người cùng khổ này chăng?
Lúc này, xe của chúng tôi đã chạy
xa hơn nửa đoạn đường, thì bỗng nhiên từ xa có một nhóm người đứng
bên vệ đường hối hả đưa tay đón xe, trông họ là những lớp người
nông dân thật hiền lành và chất phác. Trong nhóm người ấy, tôi nhìn thấy
một ông lão độ tuổi 70, khuôn mặt của ông có vẻ hốc hác và tiều tuỵ
lắm, với đôi tay và đôi chân của ông toàn da bọc xương trông thật
tôi nghiệp. Bên ông lão, có hai người đang dìu ông lên xe, có lẽ họ là
những người thân thuộc của ông. Khi nhìn thấy ông lão, tôi chợt nhớ lại
hình ảnh của Đức Phật khi Ngài còn là Bồ-Tát đang tu khổ hạnh 6 năm
đế鮠khi toàn thân của Ngài chỉ còn da bọc
xương. Nhưng điểm khác biệt giữa Đức Phật và ông lão là Đức Phật
vì thương sự khổ đau của chúng sanh nên Ngài quyết tìm con đường chân
lý bằng sự hành khổ xác thân. Còn ông lão chỉ là một con người bình
thường mang nhiều nghiệp báo và đang bị cơn bịnh oan nghiệp trầm kha khống
chế, làm cho ông phải rên nhức một cách đau đớn. Khi ông lên xe, tất cả
mọi người như đưa mắt đổ dồn về ông để dò xét nỗi đau đớn của
ông mà có sự thương cảm cho ông. Anh tài xế đã vội vàng dọn cho ông một
chỗ ngồi thích hợp phía trước. Trong lúc đó, tôi cảm thấy không gian
như lắng đọng, tất cả đều im lặng phăng phắt, không có một tiếng cười
hay giọng nói như trước đây nữa. Có lẽ mọi người đang quán chiếu về
sự vô thường của kiếp người hay họ sợ rằng cơn bịnh sẽ đến với
họ khi họ già bịnh như ông lão? Đó chỉ là những câu hỏi vu vơ thoáng
hiện trong đầu tôi, chứ thật sự họ đang nghĩ gì làm sao tôi biết được.
Thình lình đâu từ phía đằng sau xe, có một anh thanh niên tiến đến nơi
ông lão đang nằm, người ấy rút trong túi với tờ giấy bạc 50 Rs và đặt
nhẹ nhàng dưới bàn tay gầy gò của ông lão với một nụ cười cảm thông
hiện trên môi anh. Ông lão như đưa cặp mắt gầy yếu của mình nhìn người
thanh niên như để biểu lộ sự cảm ơn. Tôi cảm thấy ngơ ngác về những
hành động thật người của chàng thanh niên ấy, tôi càng cảm thấy thật
hối tiếc và hổ thẹn. Ôi! Chỉ có thế thôi mà tôi lại nghĩ không ra về
những việc làm đầy cảm động của họ. Tôi lặng lẽ liền rút trong
tui tờ giấy 100 Rs mà trong lòng cảm thấy băn khoăn, rồi nhẹ nhàng bước
đến để đặt vào bàn tay ông với niềm quý kính vô hạn. Tôi thầm cầu
chúc cho ông mau lành bệnh. Ông lão cũng đưa mắt nhìn lại tôi như để nói
lên lòng biết ơn. Sau khi trao tặng tiền cho ông lão xong, tôi đã quay về
chỗ ngồi của mình mà trong lòng cảm thấy nghẹn ngào. Nếu giá mà người
thanh niên ấy không cho ông lão tiền thì liệu tôi có thể hiện hành động
như tôi vừa làm ấy chăng. Đây là câu hỏi mà tôi cần phải suy nghĩ nhiều
hơn. Đối với tôi, đó là bài học rất quý giá. Trong cuộc đời này, biết
bao là những hình ảnh thật đẹp và đáng trân trọng. Dù họ là những cư
sĩ bình thường, nhưng ở họ luôn toát lên một nhịp cầu thông cảm đầy
tình người. Cho dù tôi là một tu sĩ nhưng đối với những hành động thật
người ấy, tôi cần phải học, vì tôi nghĩ rằng đó mới chính là tâm
Phật thật sự.
Khi xe vừa tới bến, mọi người
đã ngồi trong chốc lát để đợi ông lão xuống trước, rồi lần lượt
từng người bước xuống với những nụ cười để giã từ nhau sau một
chuyến đi thật mệt mỏi. Còn tôi vẫn không sao quên được người tài xế
đáng mến, tôi đã đưa tay chào tạm biệt anh ta bằng câu "bye
bye" và anh ấy cũng đáp lại với tôi bằng một nụ cười chào tạm
biệt trong chuyến xe chợ chiều này.
Sau khi xuống xe mua xong tất cả những
thứ cần dùng cho ngày mai, tôi lại phải đón một xe khác trở về chùa
trong sậm tối. Khi về lại đó, dường như mọi cảnh vật ở đây đã ngủ
yên, thỉnh thoảng tôi chỉ nghe tiếng gáy của dế hoà lẫn với âm thanh
của suối chảy, đồng thời tôi lại nghe từng hồi chuông mõ, kinh kệ của
các nhà Sư phát ra từ các chùa lân cận thật là hùng tráng. Mặc dầu
tôi cảm thấy mệt lã sau chuyến xe chợ chiều, nhưng trong tôi như có một
thoáng an lạc mà tôi mới cảm nhận được qua những hình ảnh thật sống
động và thật người sau chuyến xe chợ chiều nay.
Dharamsala, 13 – 04 – 2001
http://www.buddhismtoday.com/viet/truyen/chuyenxe_chochieu.htm