Hồi học trung học, tôi có nhiều sinh hoạt tại cô nhi
viện Diệu Quang ở Phú Lâm, ngoại ô Sài Gòn. Khi đó, Phú Lâm còn hoang
vắng, phần lớn là đồng ruộng. Ở đó có lò hoả táng An Dưỡng Địa. Bên cạnh,
toạ lạc một ngôi chùa nhỏ. Lúc đầu là chùa, lần hồi cất thêm một dẫy nhà
cho các trẻ mồ côi, sau thì chùa thành cô nhi viện. Phong cảnh ở đây thật
thơ mộng, cỏ cây xanh tươi dưới bóng mát một vài cây cổ thụ. Xa xa có ao
sen. Mùa hạ, sen hồng, sen trắng, đua nhau nở, tuyệt đẹp. Thi xong tú tài,
tôi ra ngoại quốc du học, mãi đến mấy mươi năm sau mới về thăm đất nước.
Tôi không có dịp tìm lại di tích của cô nhi viện, vì lúc về, đi cùng với
phái đoàn, rất ít thì giờ để hỏi han. Mấy dòng sau đây ghi lại vài kỷ niệm
hồi xưa về cô nhi viện.
Cô nhi viện Diệu Quang.
Khi tôi bắt đầu được quen biết cô nhi viện, thì nơi đó là
chùa của các ni. Tôi đã thấy có một vài trẻ em sơ sinh, nhưng hoạt động
chính của chùa không phải là nuôi trẻ. Trong chùa có Sư Cô trụ trì, và năm
sáu ni cô, ngày ngày tu hành tịnh niệm. Tuy chùa lúc nào cũng rộng cửa đón
tiếp phật tử, nhưng sư cô và các ni ít khi ra giao thiệp với ngoài đời.
Tại sao chùa lại dần dần biến thành cô nhi viện ? Tôi được
các ni cô kể chuyện như sau.
Cũng như các chùa khác, cửa chính vào chùa Diệu Quang ban
ngày bao giờ cũng mở rộng, để bà con phật tử ra vào thong thả. Chỉ tối cửa
mới đóng vì vấn đề an ninh, rồi sáng sớm, chừng bốn năm giờ, là đã có
người ra mở.
Ngày nọ, lúc ấy còn sáng tinh sương, bà con chung quanh
chùa chưa ai thức dậy, một ni cô ra mở cửa chùa, thì thấy một cái thúng
nằm ngay bên ngoài, trong đó có một cái gói nhỏ bao khăn kín. Ni cô chạy
tới mở ra xem, thấy bên trong khăn là một em bé sơ sinh còn đỏ hỏn, đang
nằm ngủ. Ni cô hiểu ngay là có ai đem con bỏ đó, nhờ chùa nuôi. Ni cô vội
bế bé vào. Trong chùa được tin, mọi người lao xao chạy tới, người thì lo
kiếm tã, người thì lo đun nước ấm, người thì lo đi mua sữa. Mọi người xúm
vào tắm rửa, rồi cho bé uống sữa, bé ngủ. Trong chùa cũng có ni cô ngày
xưa đã có chồng con ngoài đời, sau đi tu, còn giữ kinh nghiệm nuôi con.
Thành ra đứa bé trong cái bất hạnh lại được cái phúc. Đó là em bé sơ sinh
đầu tiên được nuôi trong chùa.
Chỉ một vài ngày sau là tin này đã được đồn ra lối xóm. Bà
con bảo nhau đem cho chùa sữa sùng, khăn tã, xà bông, nước ngọt. Ai có đồ
đạc gì, ngày xưa nuôi con, nay con đã lớn, cũng đem cho chùa. Quần áo,
chăn mền, đồ chơi cho trẻ mới được vài tháng, hay một tuổi, hai tuổi, cũng
đem đến cho. Nói là cứ để dành, sau này bé lớn cho nó. Sư Cô trụ trì, đã
có linh tính, nên chừng một tuần sau, đánh chuông tụ họp mọi ni cô làm một
lễ lớn. Sư cô nói : « Chuyện này không phải là chuyện thường, không phải
là ngẫu nhiên. Đứa bé này đã được Đức Phật đưa đến. Tin tức đã đưa ra
ngoài, rồi nhiều đứa khác sẽ đến theo. Các con phải lo lắng một nhiệm vụ
mới mà đức Phật sẽ trao cho»
Quả như Sư Cô đã tiên đoán, độ nửa tháng sau, một ni cô
khác sáng sớm mở cửa chùa, đã thấy một em bé thứ hai, gói ấm kỹ càng, bỏ
trong thúng nằm đó. Rồi cứ tiếp tục như thế, các ni cô phải đem các bé về
nuôi, không làm sao tránh được. Để chia công việc, các ni cô bèn làm ra
một nghi thức : các ni làm một tờ giấy, ghi tên theo thứ tự, rồi mỗi sáng
theo danh sách đó, một người ra mở cửa. Người nào thấy có bé bỏ rơi đem
vào, thì được đặt tên cho cháu, và có trách nhiệm đặc biệt coi sóc đứa bé
đó.
Khi có nhiều bé sơ sinh được đem về, thì Sư Cô trụ trì bắt
đầu phải sửa sang chùa, xây thêm nhà trọ cho các em, và kêu gọi sự giúp đở
của các nhà hảo tâm. Cha tôi là một trong những nhà hảo tâm đầu tiên. Cha
tôi bảo tôi đến giúp chùa và tôi sốt sắng nghe lời vì tôi rất thương trẻ
em.
Các em đều là trẻ sơ sinh, nên coi sóc các em hết sức vất
vả. Sáng tối phải rửa ráy, thay tã, cho uống sữa, phải chơi với các em,
dậy nẫy, rồi bò, rồi ngồi, rồi đi. Phải dạy các em học nói, học vẽ, học
đánh vần, … Tuy vậy tôi lúc nào cũng chờ dịp đến với các em, săn sóc các
em rất tận tâm. Sau này khi tôi từ giã chùa đi du học, thì có tất cả là
năm mươi trẻ, trong đó bốn mươi chín là người ta đem đến bỏ ngoài cửa
chùa, chỉ có một em mù đã năm tuổi chùa xin được ở một cô nhi viện bên đạo
thiên chúa đem về. Chuyện đó tôi sẽ kể sau.
Hoạt động trong chùa, tôi không những được nhiều chia xẻ
với các ni cô và tình thương của các em, tôi còn được gặp nhiều chuyện rất
kỳ lạ. Vài chuyện còn nhớ xin kể lại sau đây.
Trái bom không nổ.
Một đêm nọ, bỗng nhiên một quả bom rốc kết rơi cắm xuống
lòng đất ngay cạnh căn nhà ngủ của các trẻ mồ côi. Lúc đó có năm chục em ở
tại đây. Mầu nhiệm thay, quả rốc kết không nổ ! Sáng ngày hôm sau, Sư Cô
cho di tản tất cả mọi người ra khỏi viện, rồi mời cơ quan giữ an ninh đến
gở chất nổ trong quả bom đem đi. Mọi việc được yên ổn, Sư cô báo hiệu cho
tất cả trở về viện. Chúng tôi đều là phật tử, ai cũng tin là chùa và các
em đã được Chư Phật Bồ Tát che chở. Trong viện còn được nhiều lần thoát
nạn lạ kỳ. Cứ mổi lần được thoát nạn như vậy, Sư Cô trụ trì không quên tụ
tập mọi người, già trẻ gì cũng phải lên chánh điện, để đảnh lễ, tạ ơn sự
phù hộ của Chư Phật Bồ Tát Thánh Tăng. Sư Cô làm chủ lễ, thắp hương, đánh
chuông, gõ mõ, đưa mắt nhìn già trẻ đang nghiêm trang quỳ lạy.
Sư Cô cứu em bé ngộp nước.
Một hôm Sư Cô phải đi vắng vài ngày để làm việc phật sự và
hoằng pháp độ sanh. Trên con đường về lục tỉnh, Sư Cô dừng chân nghỉ vào
giờ trưa nắng gắt tại một ngôi chùa cổ. Mỏi mệt, Sư Cô thiếp đi hồi nào
không hay, bỗng nằm mơ thấy ở nhà có nạn. Sư Cô giật mình thức dậy, chạy
ra đón xe đò trở về nhà ngay tức khắc.Về tới nơi, Sư Cô thấy trước cửa
viện có xe cứu hỏa, lại càng hoảng hốt hơn. Sư Cô vội vã xuống xe, lách
người vào trong viện. Sư Cô thấy một em bé trai chừng bốn năm tuổi nằm bất
động trên sàn gạch. Chung quanh bu lại các chú lính cứu hoả. Sư Cô đẩy nhẹ
nhiều người bám quanh cháu bé, đến gần hơn xem sự việc. Mọi người ngước
lên nhìn, trông ai cũng thất vọng ra mặt. Thì ra đứa bé ngã xuống ao, ngộp
nước, coi bộ quá trễ không cứu được. Sư Cô không chịu thua, ra lịnh người
này chạy vào nhà đem ra mau cái nồi đồng lớn, đổ nước vô, người kia chạy
đi lấy củi đốt, để nấu sôi nước trong nồi. Sau đó, Sư Cô bảo các chú lính
cứu hoả đem cột chân bé lên cành cây cao, cho thòng đầu xuống ngay giữa
trên nồi nước sôi. Nếu ở ngoài đường thì chắc không bao giờ các chú nghe
lời, nhưng đây là ở trong chùa, Sư Cô trụ trì lại ra lệnh quả quyết, tình
hình gấp rút, nên các chú nghe theo răm rắp. Hơi nước nóng bốc lên, khiến
cho em bé bị một cái sốc thật mạnh, dẫy rụa vùng vẫy, rồi ộc hết nước
trong bụng ra. Mặt cháu bắt đầu ửng hồng, cháu mở mắt ra. Mọi người chung
quanh vui mừng reo hò vổ tay. Sư Cô thở phào nhẹ nhỏm, ra lịnh các chú
lính cứu hoả mang cháu bé xuống. Thế là cháu
được cứu sống. Hỏi ra mới biết trong khuông vườn của viện có một cái ao
trồng sen. Cháu bé trốn qua khỏi tầm mắt của các ni cô, chạy ra ngoài hái
gương sen ăn, trườn ra xa, trợt té xuống ao. Cháu không biết bơi, cho nên
uống nước ngộp thở rồi nằm trôi trên ao. May mà có người nhìn thấy mới gọi
cầu cứu.
Chúng tôi ai cũng rất kính phục Sư Cô. Người đã dày
công phu Phật đạo, mới có linh tính nằm mơ thấy được có tai nạn xảy ra
trong viện, tuy lúc đó Sư Cô ở cách chùa hằng trăm cây số. Còn chuyện Sư
Cô học ở đâu phương pháp treo chân em bé trên nồi nước để em bị sốc dẫy
rụa ộc nước ra, thì chúng tôi không biết, mà cũng không người nào dám hỏi
Sư Cô.
Chuyện em bé mù.
Một hôm phái đoàn của cô nhi viên Diệu Quang, dưới sự
chỉ dẫn của Sư Cô, đi viếng một cô nhi viện bên Thiên Chúa Giáo để trao
đổi ý kiến và học hỏi với nhau. Bên đó có rất nhiều trẻ em mồ côi, lại rất
thiếu nhân viên chăm sóc các em. Trong lúc đi thăm các em, thì thấy có một
em bé độ chừng năm tuổi bị vây trong một cái cũi bằng gổ thô sơ, cứ bò
quanh, thốt ra tiếng sủa ăng ẳng như con chó con, rất kỳ lạ. Sư Cô động
lòng, cuối xuống bế cháu lên. Cháu bé mỉm cười, ngã đầu lên ngực Sư Cô một
cách trìu mến, rất dể thương. Sư Cô lấy tay vuốt ve tóc bé, nhìn xuống
khuôn mặt bé, thì mới nhận ra là bé bị mù nhẹ, vì thấy bé đưa tay ngập
ngừng rờ trên mặt Sư Cô. Thấy hai người mới gặp nhau mà đã khăng khít lạ
lùng, Bà Xơ đứng bên cạnh cảm động thốt lên: “Sư Cô có muốn đem cháu về
trông nom không ? “ Sư Cô vui mừng nhận lời mang cháu về. Chúng tôi săn
sóc mới thấy là đứa bé năm tuổi rồi, lúc nào cũng bò, nhưng lại không có
tật gì ở chân cả. Chúng tôi dạy bảo ít lâu, bé đã đứng dậy được, tập đi,
chỉ trong vòng mấy tháng bé bắt lại được sự thăng bằng như các trẻ khác
bình thường. Mới đầu bé chỉ ngáp ngáp cái miệng như con ếch, nói ra ngộp
ngoạp, nhưng chúng tôi kiên nhẫn dạy cháu từng tiếng một, ít lâu sau, cháu
phát âm, rồi dần dần tập nói. Khi cháu nói được nhiều tiếng thì lại nói
suốt ngày, dường như cháu thích nghe tiếng cháu nói, và cháu cười nắc nẻ
khi cháu líu lo mà không ai hiểu cháu nói gì. Bé có tiếng cười ròn rã, hồn
nhiên, ai nghe cũng mến. Bé không mù hẳn, chỉ thấy lờ mờ, nhưng thính giác
của bé nở nang mạnh hơn người khác, ngay cả người lớn cũng không ai thính
tai bằng bé. Cháu rất thông minh, hể đi đường bằng thì cháu đi chầm chậm,
hể xuống cầu thang thì cháu quay mình lại đi thụt lùi để không ngã, chân
thì rà rà từng nấc thang. Cháu được mọi người thương mến, riêng với tôi
thì lại có một tình thương rất đặc biệt. Cháu rất thính tai, nhận được
tiếng xe của tôi ngay khi tôi mới vào chùa, và nhận được bước chân tôi,
thành mỗi lần tới, từ xa cháu đã gọi tên tôi. Thế là tôi lại rưng rưng
nước mắt chạy đến ôm cháu. Cháu đưa tay rờ rờ từng gói quà, tủm tỉm cười,
rồi nói: “Cái này là bánh, cái này là kẹo ….” Thương hết sức….
http://www.buddhismtoday.com/viet/truyen/conhivien_dieuquang.htm