- Một niệm buông lung
Thím Phan
hân hoan mở toang hai cánh cửa bước vào phòng chứa hàng trăm bộ y phục
móc san sát nhau, say sưa ngắm nhìn từng bộ không bao giờ thấy chán. Thím
ngắm nghía cho niềm vui sướng được gia tăng, chớ thật ra, dẫu nhắm mắt
lại chẳng những thím vẫn hình dung rõ ràng vị trí từng món, mà còn có
thể mô tả vanh vách màu sắc, kiểu cách, hiệu brand name nào, giá cả ra
sao nữa! Đối với thím, chưng diện mua sắm là một "nghệ thuật",
và thím rất tự hào về tài nghệ siêu đẳng của mình. Người nắm vững
được nghệ thuật mua sắm, ngoài khả năng tài chánh, còn phải có óc thẩm
mỹ để phân biệt những đường nét sắc sảo, kiểu cách trang nhã, màu
sắc tươi mát, hòa hợp đúng điệu với vóc dáng của mình, mặt khác, lại
cần có khả năng hiểu biết phẩm chất từng tư liệu sản xuất, sành sỏi
ngọn ngành từng nhản hiệu tiếng tăm, "đánh hơi" chính xác chuyển
hướng của thời trang, và sau cùng lại phải chịu khó lục lọi khắp
các cửa hàng, thì mới mong khám phá được món vừa ý. Thím ngần ngừ trước
bộ "lễ phục hải quân" trắng, viền xanh, nút màu vàng to, đượm
nét thanh lịch và uy nghi. Nhìn bộ y phục nầy cơn giận ngày nào bỗng
hâm nóng trở lại. Thím giận là giận cô bán hàng kỳ thị kém lịch sự,
đáng lẽ thím quăng trả rồi hầm hầm bỏ đi thì mới phải, nhưng tiếc
công so đo lựa chọn thím đành bấm bụng trả tiền mà nỗi bực tức cứ
đeo đẳng mãi. Thím chợt nhớ bộ nầy đã mặc dự tiệc mừng thượng
thọ của một người đồng hương mấy tháng trước, e có kẻ thấy rồi
thì nguy to, nên thím đưa mắt tìm cái khác. Thím thoạt nghĩ đến chiếc váy
ngắn (mini jupe) đỏ, đơn giản mà trẻ trung. Hôm mang chiếc váy nầy về
nhà, thím bị cái "ông chồng cổ lỗ sĩ" trêu ghẹo là "củn
cởn quá", khiến thím đổ quạu. Sau đó, dù chú đã nỉ non giã lã,
mà giờ nầy nhớ lại, nỗi hờn giận vẫn còn vương vấn trong lòng. Cuối
cùng, thím chú ý đến bộ áo đầm kín cổ, dài phết gót màu rượu chát,
vừa quí phái, vừa xinh xắn. Rồi thím lại ngần ngừ trước chiếc
"xường xám" màu nước biển, với cành hoa cẩm chướng thêu tay
khéo léo, mà thím đã may mắn khám phá hai hôm trước tại một cửa tiệm
chuyên bán hàng sản xuất tại lục địa. Thím đang săm soi ngắm nghía, chợt
lanh mắt thấy con hai đuôi lắp ló, thím phủi xuống thảm, rồi chà xác
nó tan nát. Dù vậy, cơn giận vẫn chưa nguôi, thím dặn lòng phải mua
thêm long não, và nhớ xịt thuốc tiêu diệt hết giống phá hoại áo quần
nầy mới được. Đắn đo mãi vẫn phân vân trước hai bộ y phục xinh đẹp,
thìm bèn cầm cả hai bước ra, ỏn ẻn hỏi chồng:
- Anh ơi! em mặc
áo nào hợp hả anh?
Chú Phan than
thầm mụ vợ già mà ngỡ vẫn còn trẻ trung, thịt chảy xệ ra mà đòi mặc
xường xám bó chật thiệt chẳng ra thể thống gì. Tuy vậy, nếu nói thật
thì mất lòng vợ nên chú đành gật gù lên tiếng.
- Ơ! áo nào
em mặc cũng đẹp cả, "mỗi cái một vẻ, mười phân vẹn mười"
mà. Ơ! độ rày trời trở lạnh, em nhớ mang áo ấm kẻo bệnh thì nguy!
Nghe chồng nhắc
trời lạnh, thím đành mặc áo đầm kín cổ, mà vẫn còn tiếc cái xường
xám, nên lầm bầm:
- Trời lạnh
lẽo! chưng diện chẳng thoải mái tí nào!
Vợ chồng
Phan chuẩn bị dự tiệc tất niên tại nhà họ Tô, một trong hai người bạn
thiết, đã kết giao với chàng hơn mười mấy năm trời, từ lúc họ vừa
đặt chân đến xứ Hoa Kỳ, sau khi vượt thoát khỏi Hoa lục trong cơn quốc
nạn. Người Hoa sinh sống tại vùng Cựu Kim Sơn tuy đông đảo, nhưng tìm
được người đồng hương cùng nói thổ ngữ Tiều Châu, từng là viên chức
của chế độ Dân Quốc, lại cùng đam mê cờ tướng... là một điều hiếm
có. Vì vậy, tuy chẳng hề lập thệ kết nghĩa anh em, mà tình nghĩa bằng
hữu của bộ ba "tướng, sĩ, tượng": Tô, Triệu, và Phan, rất ư
là thâm trọng. Tháng nào họ cũng hợp mặt uống trà, đánh cờ và đàm
đạo. Hàng năm lại có tiệc tất niên để có dịp nhắc nhở về mảnh
đất chôn nhau cắt rún ở bên kia bờ Thái Bình Dương. Hợp mặt thì có dịp
đấu hót vui vẻ mà lại có lý do chánh đáng chưng diện, nên thím Phan
trang điểm cực kỳ cẩn thận, chú hối thúc mãi, thím mới chịu kết
thúc màn "sắm tuồng" để lên đường.
Chiếc xe BMW mới
toanh lăn bánh êm ru, thím Phan ngã người lún sâu vào ghế nệm da lim dim
thích thú. Thím giựt mình nhỏm dậy khi thấy con chó lông xù của người
hàng xóm phóng uế sân trước nhà thím. Thím lầm thầm rủa: "con chó
bẩn thỉu ăn hại nầy sao không bị xe mười bánh cán chết cho người ta
nhờ!". Giận chó ghét chủ, cái mặt mâm xấu xí của mụ hàng xóm Hải
Nam chờn vờn hiện ra trong tâm khảm của thím. Thế rồi, bao nhiêu chuyện
khó ưa của mụ ta cứ thế mà tuôn tràn ra, nó chỉ vụt biến mất khi
thím giật nẩy mình chợt thấy một kẻ bụi đời băng ngang đường bừa
bãi, thím hốt hoảng la: "Thắng! thắng!". Thím lầm bầm: "Sao
lại có cái hạng người gì biếng nhác, chẳng chịu làm lụng chi cả! chỉ
có nước ăn bám vào xã hội, thảo nào thuế nước nầy chẳng cao?".
Quả tim vẫn còn đập thình thịch, thím lại điếng người thấy chiếc
xe thể thao lách ẩu, cắt ngang xe chú, khiến chú phải thắng gắp mới
tránh tai nạn. Thím nổi giận xúi chồng: "Anh bóp còi mắng nó đi
anh!". Phan cười hì hì rồi bỏ qua. Sống ở thành phố Cựu Kim Sơn
đường hẹp xe đông nầy, Phan đã quen với cảnh thiên hạ lái xe cẩu thả,
chèn ép, giựt dọc rồi, nên chẳng nghĩ đến việc bóp còi chửi thề
làm gì. Khi đi ngang khu bệnh viện San Francisco General Hospital, Phan chợt xúc
động nhớ đến một người bạn đang thoi thóp chờ chết trong đó, chàng
chép miệng thở than:
- "Bạn
bè lứa tuổi mình, theo năm tháng mà rơi rụng lần lần... Năm trước lão
Vĩnh Phát bỏ mạng, năm nay thì chú Trần quản lý cũng sắp đi đoong rồi"!
Trần Thủ cũng
thuộc bang Tiều Châu, làm quản lý tiệm thực phẩm đồ biển, chăm chỉ
làm việc cho đến khi té xỉu, chở vào bệnh viện thì mới khám phá ra bệnh
ung thư cổ họng và gan đến thời kỳ trầm trọng. Tuần trước vợ chồng
thím ghé thăm, bệnh nhân đã nằm liệt giường, không nói năng ăn uống
chi được. Bác sĩ đã phải khoét một lỗ dưới cổ, đúc ống cao su thẳng
vào bao tử để tiếp tế thức ăn. Hồi tưởng đến hoàn cảnh thảm thương
của con bệnh, thím bùi ngùi phụ họa:
- Tội nghiệp
chú Trần quá! anh há! Sống như vậy thà chết còn hơn! Ơ! anh à! chú Trần
tuy làm quản lý tiệm hải sản, nhưng tự tay chú đâu có sát sanh, mà tại
sao chú phải chịu quả báo ung thư cổ ghê gớm như vậy?
- Ơ! theo một
vài nhà nghiên cứu thì dân Tiều Châu mình, đời đời có thói quen ăn cháo
thật nóng nên tỉ lệ ung thư cổ tương đối cao hơn giống dân khác! Đó
lối giải thích khoa học, còn theo tin tưởng của tổ tiên ta, thì bệnh tật
phát sinh từ những nhân duyên trong hiện kiếp hoặc tàng trữ từ kiếp trước,
nhưng vấn đề tiền kiếp nhân quả thì ngoại trừ những bậc cao tăng đắc
được túc mạng thông, có mấy ai tường tận. Ôi! mình làm sao dám lạm
bàn chuyện nầy hở em!
Chú lặng yên
một lúc, rồi như chợt nhớ ra điều gì, chú lại vui vẻ lên tiếng:
- A! có chuyện
nầy lạ nè! Tại xứ Hoa Kỳ, có một người tên Edgar Cayce, theo đạo công
giáo nhưng lại tin tiền kiếp và nhân quả. Không biết kiếp trước ông
tu hành như thế nào, mà kiếp nầy ông ta có thể định tâm thấy kiếp trước
của thân chủ, tìm ra nguyên nhân để trị bịnh. Ông truy tiền kiếp của
vài người bị bệnh béo phì thấy trong kiếp trước họ lâm vào hoàn cảnh
đói khát, suốt ngày tơ tưởng ước mơ
chuyện ăn uống, nên kiếp nầy họ cứ thêm ăn, ăn không ngừng rồi
sanh bệnh. Theo Ông ta thì người kiếp trước có những liên hệ mật thiết
với thực phẩm sẽ quây quần với thực phẩm, họ cảm thấy hợp với
ngành nghề thực phẩm: họ buôn bán, dự trữ, nấu nướng và có nhiều
trường hợp họ thích ăn, ăn thật nhiều rồi sanh ra bệnh béo phì... Theo
thuyết nầy, thì mình chỉ có thể suy luận rằng chú Trần kiếp trước
đã có những liên hệ sâu xa với hải sản, nên kiếp nầy chú mới làm
quản lý tiệm hải sản như vậy...
- Thuyết nầy
cũng có lý a! Thảo nào quí thầy khuyên người tu pháp môn tịnh độ thì
phải tha thiết, một lòng hướng về cõi tịnh độ thì mới có thể vãng
sanh được!
- Khâm phục!
khâm phục! bà xã tui tinh thông giáo lý quá chừng chừng hà! Vậy theo quan
điểm đó mà lập luận thì ai tha thiết quyến luyến với vải vóc lụa
là thì họ cũng tạo ra cái nhân duyên để kiếp sau quây quần với y phục
phải không em? Như em, kiếp sau em dám làm chủ nhân ông một hãng xưởng sản
xuất y phục nổi tiếng khắp thế giới chớ chẳng phải chơi đâu?
Thím nghe chồng
tán hươu vượn mát lỗ nhĩ, cười hì hì đáp:
- Không cần lớn
lắm đâu! chỉ được cỡ như Liz Clairebone, Ellentracy... là chưng diện
cũng đã đời rồi...
- Ậy! đấy là
mình lạc quan mơ mộng nói chơi thôi! Chớ phân tích kỹ thì tuy cùng có những
liên hệ mật thiết với vải vóc mà mỗi người lại có những nghiệp
duyên riêng. Kẻ đại phước có thể làm chủ nhân, phước kém lần lần
thì làm quản lý, thợ may, người bán hàng..., còn kẻ bạc ác thì cũng có
thể gần gũi với vải vóc dưới dạng một con hai đuôi, con dán..., phải
không em?
Lời nói bông
đùa của chồng bất ngờ khiến thím hồi tưởng lại giây phút thím giận
dữ tàn sát con hai đuôi chui rúc trong bộ xường xám mà chột dạ! Thím
nghĩ con hai đuôi có thể là thân tương lai của thím lắm, nếu như thím cứ
tiếp tục đam mê áo quần và không biết vun bồi phước đức. Suy tư nầy
ám ảnh thím mãi, khiến thím cứ quanh quẩn nhớ nghĩ cặn kẽ từng hành
vi tư tưởng của mình từ khi bước vào phòng y phục cho đến khi nổi giận
thằng trẻ tuổi lái xe thể thao hung bạo. Càng quán sát kỹ, thím càng ngạc
nhiên thấy tâm ý của thím lăng xăng như khỉ vượn, vọng tưởng
"thương ghét giận hờn" cứ liên tục nối tiếp nhau không ngừng
nghỉ. Thím Phan vốn là một Phật tử thuần thành, quí chùa mến đạo, thím
tham gia tọa thiền, rồi lại qui ngưỡng pháp môn niệm Phật cầu vãng
sanh tịnh độ. Thím yên chí rằng mình có căn tu, tâm sẵn thanh tịnh, nên
dù chọn pháp môn nào thím cũng tin chắc mình sẽ đạt được thành quả
tốt đẹp. Bây giờ thím mới giựt mình nghiệm rõ rằng, dù tọa thiền
hay niệm Phật, mà tâm thím loạn động như bão biển như thế nầy thì
có ích lợi chi đâu! huống chi, tuy thím tự nhủ mình tha thiết nguyện
sinh về cõi tịnh độ, nhưng thật tâm thím chỉ lẩn quẩn thương ghét
cõi ta bà: thím quyến luyến chồng con, đắm nhiễm nhà cửa xe cộ, đam mê
quần áo, son phấn, và nồng nhiệt bon chen vui sống phủ phê ở chốn văn
minh phù phiếm nầy... Thì ra, tuy thím niệm Phật ngày đêm mà tâm cứ
"loạn cào cào", còn ái dục thì dính mắc sâu đậm như dán keo
"super glue", không buông bỏ được chút nào cả. Chư cổ đức đã
răn dạy rất rõ: "Ái bất trọng bất sanh ta bà. Niệm bất tục bất
sanh tịnh độ". Thím làm sao vãng sanh tịnh độ nếu vẫn tiếp tục lối
tu tập hời hợt hình thức như cũ. Khám phá được khuyết điểm của mình,
thím nguyện phen nầy phải thường quán sát tâm mình để vọng niệm giảm
dần, thím phải thực sự buông bỏ những thứ cám dỗ của cõi ta bà hầu
có thể dốc lòng tha thiết niệm Phật cho đến khi được nhất tâm bất
loạn.
Mụ vợ mãi
chìm đắm trong cơn suy tư không quấy rầy càng hay, chú Phan thoải mái lái
xe bon bon qua cầu Golden Gate, đến thành phố Belvedere, đậu hẳn xe tại nhà
bạn, rồi mới ôn tồn nhắc nhở:
- Tới nhà anh
Tô rồi em!
Thím Phan bừng
tỉnh, mở cửa xe bước ra ngoài, thì xe họ Triệu cũng vừa trờ tới, nên
thím dừng lại chờ bạn, tíu tít chào hỏi.
Thím Triệu ngắm
nghía thím, đoạn trầm trồ:
- Chời! bộ
áo đầm sang trọng quá mức! Xem chị trẻ hẳn ra!
Thím Phan
khoái chí cười hỉ hả, nhưng vẫn ra giọng khiêm tốn đáp:
- Ơ! cũng thường
thôi chị ạ!
Đoạn thím mới
"bỏ nhỏ":
- Em mua nó ở
Fifth Saks Avenue á! chỉ có hai trăm năm mươi sáu đồng hà chị!
Thật ra, thím
mua chiếc áo đầm nầy với giá "sale" năm mươi sáu đồng tại một
"out-let" chuyên bán sản phẩm có tì vết của các hiệu nổi tiếng.
Tì vết mình mua mình biết chớ mấy ai thấy được nên "tội gì"
thím không nổ cho sướng miệng. Thím chiếu cặp mắt "nhà nghề"
quan sát y phục bạn, biết rõ bộ nầy bán tại tiệm Ross chỉ có ba mươi
tám đồng, nên mống niệm chút khinh khỉnh trong lòng. Thím lại nhận thấy
bạn đã lớn tuổi mà mặc áo đầm bông lòe loẹt, củn cởn, lòi cặp
giò ốm nhom đen đủi, nên chỉ phô bày ra nét quê mùa chớ chẳng
"sexy" hấp dẫn gì cả. Tuy vậy, thím cũng giả vờ thích thú rồi
khen đáp lễ:
- Trang phục của
chị trẻ trung xinh xắn làm sao á! chị lựa khéo lắm! đẹp lắm!
Rồi thím thì
thầm với bạn mẩu chuyện "cấm bọn đàn ông nghe":
- Chị biết
không? Ở tiệm Đại Đồng, hàng lục địa mới về! đủ loại đủ kiểu
vừa đẹp vừa rẻ! Em mới "tảo thanh" cách nay hai ngày, chọn được
cái xường xám thêu khéo không thể tả! chị nên đi lựa nhanh kẻo trễ!...
Thím Triệu
thích chí gật đầu lia lịa, nhưng chưa kịp bàn bạc gì thêm thì gia chủ
đã vồn vã bước ra đón khách. Triệu và Phan thân mật xáp vào ngồi
quây quần với Nghĩa và Danh, hai người em trai của họ Tô. Họ vừa lai
rai lon bia, vừa theo dõi trận đấu bóng bầu dục hào hứng trong truyền
hình. Hai người đàn bà thì tự nhiên bước thẳng vào bếp, tay bắt mặt
mừng với nữ gia chủ và hai cô em dâu, rồi hội nhập ngay vào không khí
ồn ào vui vẻ như cái chợ ở đây. Người ta nói chỉ cần có ba người
đàn bà là đủ để họp chợ, huống chi ở đây có đến năm bà. Họ
tung tăng đấu hót đủ mọi đề tài, từ chuyện tình ái lăng nhăng của
bàn dân thiên hạ, chuyện vàng bạc hột xoàn, chuyện xe hơi nhà lầu, họ
chuyển sang đề tài ăn uống, rồi đến nghệ thuật nấu nướng. Ai cũng
muốn chứng minh mình là tay biết nhiều, sành sõi đủ mọi thứ, thành thử
họ cứ tranh nhau bàn cãi sôi nổi, dường như, nếu được đấu hót suốt
cả tuần lễ, chắc họ cũng chưa cạn hết ý. Điều đáng phàn nàn là đã
mấy phen thím Phan ấp a ấp úng gợi đề tài trang điểm ra, nhưng bọn họ
cứ vô tình mải mê thảo luận chuyện khác, thành thử thím chẳng có cơ
hội thuận tiện nào để khoe bộ y phục sang trọng và "nổ" cho sướng
miệng cả!
Cơm nước sẵn
sàng. Chủ khách vừa cụng ly mừng nhập tiệc, bỗng beeper của chú Triệu
kêu tít tít. Nhìn hàng số hiện trên beeper, Triệu băn khoăn nói: "Có
chuyện gì gấp mà mấy đứa nhỏ gọi kìa!". Chú vội rời bàn ăn, gọi
điện thoại đến người nhắn, rồi mặt mày chú bỗng xanh dờn, chú run
rẩy thốt từng câu đứt khoảng: "Trời! Trời!... thằng Xến hả!...
bệnh viện nào? đường Clarendon phải không...?". Cả đám lo lắng
nhìn chú Triệu, trong khi thím quính quíu nắm tay chồng hỏi:
- Chuyện gì vậy
anh?
Chú phều
phào:
- Con báo tin
thằng Xến bị tai nạn lưu thông, mạng sống rất nguy ngập, hiện đang chở
vào UCSF Medical Center cứu cấp...
Nghe tin đứa
em út của mình lâm nạn, thím Triệu hét lên hai tiếng "Trời
ơi!", rồi ngất xỉu.
Cả bọn xúm
lại xoa đầu, giựt tóc mai cho thím tỉnh dậy. Vừa mở mắt, thím đã bù
lu bù loa khóc lóc hỏi chồng:
- Anh ơi! anh
nhắm thằng Xến qua khỏi không anh!
Chú Triệu đã
lấy lại bình tĩnh thường nhật, lên tiếng an ủi vợ:
- Chắc không
đến nỗi nào em à! Em đừng lo lắm! Anh phải đến bệnh viện ngay mới
được. Em mệt, em ở lại đây với các bạn nhé!
- Không! em
nóng ruột lắm! em nhất định đi theo anh hà!
Chú Phan lên
tiếng:
- Để tôi
lái xe đưa anh chị đi nhé!
- Cám ơn Phan!
Tôi đủ bình tĩnh lái xe! anh phải ở lại thù tạc với anh chị Tô, bỏ
đi hết sao cho tiện!
- Chị còn yếu
lắm! anh nên ngồi cạnh săn sóc chị! Tôi đưa anh chị đi, rồi trở lại
cũng dư kịp mà!, Phan nài ép bạn.
Phan đưa vợ
chồng Triệu ra đi, bữa tiệc tất niên chỉ còn lại bảy người gượng
gạo tiếp tục trong bầu không khí nặng nề. Cũng thức ăn đó, lúc nảy
nó thơm tho hấp dẫn làm sao, mà giờ đây thím Phan cảm thấy nhạt nhẽo
như nhai miếng cao su. Đầu óc thím quay cuồng bởi những hình ảnh của thằng
Xến từ ngày nó còn là thằng bé con kháu khỉnh, thím vẫn thường nựng
nịu cho quà bánh, cho đến ngày nó trở thành một thanh niên cường tráng,
tốt nghiệp bằng tiến sĩ kỹ sư, tương lai sự nghiệp đầy hoa mộng. Ràng
ràng mới tuần trước đây, thím còn bắt gặp nó đang hân hoan choàng eo
ếch tình nhân, thả rểu ở khu bến tàu rất ư là hạnh phúc. Thế mà giờ
nầy, con người tràn đầy nhựa sống đó chỉ còn là một cái xác máu me
nhầy nhụa... thê thảm quá! Nước mắt ràn rụa, thím Phan buông đũa thở
dài:
- Tội nghiệp
thằng Xến quá!
- Chết như nó
kể ra quá ghê rợn, chớ suy cho cùng chúng mình có ai thoát khỏi giai đoạn
lìa trần đâu?, Nghĩa bùi ngùi phụ họa.
Thím Tô tán
đồng:
- Theo tôi! chết
nhanh chóng dù sao cũng dễ chịu hơn tình trạng nhức nhối kéo dài, nửa tỉnh
nửa mê, rên la kêu gào, sống chẳng ra con người nữa, mà chết cũng không
xong... Ngay như khi đã già cả lẫn lộn, thân xác còm cõi tiều tụy, mà cứ
sống hoài sống mãi cũng là một cực hình. Bởi vậy, sau lần viếng bệnh
viện dưỡng lão chứng kiến cảnh tuổi già khổ nhục, tôi chỉ còn nghĩ
đến chuyện tu hành chớ chẳng còn tha thiết điều gì trên cõi đời nầy
nữa!
- Chị em mình
đứng tuổi rồi! còn ham muốn gì nữa mà chẳng lo tu!... Điểm rắc rối
là làm sao biết pháp môn nào hiệu nghiệm nhất để tu tập đây? Chẳng
biết anh chị tu tập đạt được kết quả tốt đẹp gì không? Chớ phần
tôi, thú thật tôi đã chạy theo thiền theo tịnh bao năm rồi, mà chẳng thấy
đi đến đâu! tâm vẫn vọng động, vẫn tham sân si chất ngất... Lúc nào
ơ hờ quên thì thôi, mà chợt nhớ tới cái chết gần kề, đôi khi tôi bỗng
lo sợ đến thất thần!
Chú Tô ôn tồn
góp ý:
- Tâm trạng của
chị cũng chẳng khác gì nỗi băn khoăn của tôi mấy năm về trước! Ngày
đó, tôi sửng sờ nhìn bà cụ già tuổi ngoài chín mươi, nhăn nheo gầy còm
lắt choắt, nằm lăn dưới đất khóc lóc đòi ăn như đứa bé lên ba, mà
chua xót rụng rời. Nghĩ đến ngày tàn của mình, tôi khủng hoảng tìm phương
pháp tu tập. Mặc dù trong mấy mươi năm qua, tôi đã bỏ rất nhiều thời
giờ nghiên cứu luận đàm, thiền tịnh mật duy thức thiên thai hiền thủ...,
pháp môn nào cũng lơ mơ thử qua, nhưng thực ra tôi chẳng hề dấn thân tu
tập. Vì vậy, khi cấp bách muốn tu cho có kết quả thì lại ngờ nghệch
chẳng biết lối nào. Nghe tôi than thở, anh Phan mới rủ tôi đi chùa Vạn
Phật, thỉnh ý hòa thượng Tuyên Hóa. Ngài trích dẫn pháp từ của tổ Hư
Vân
và phán dạy: "Trên con đường tu, quan trọng nhất là tín tâm phải
kiên cố. Kẻ tín tâm thiếu kiên cố lơ mơ tu tịnh vừa nghe thiền đốn
ngộ "chỉ thẳng chân tâm thấy tánh thành Phật" vội bỏ tịnh
theo thiền, lại nghe kinh điển cao siêu vội bỏ thiền theo giáo, đoạn
nghe mật nhiệm mầu vội bỏ giáo chạy theo trì chú... thì càng tu càng
thêm chướng ngại chớ chẳng ích lợi gì. Ngược lại, nếu lập chí vững
chắc, phát tâm dõng mãnh, đã tịnh thì tâm tâm niệm niệm lục tự Di Đà
liên tục cho đến khi được nhất tâm bất loạn, đã thiền thì phải sống
chết bám giữ câu thoại đầu sao cho tâm kết thành phiến, công phu thuần
phục như vậy thì mới mong thoát khỏi căn trần, đại dụng hiện tiền,
con đường giải thoát của thiền tịnh đâu có gì sai khác!". Ôm ấp
lời dạy của Ngài, từ đó, tôi phát nguyện một lòng niệm Phật cầu
vãng sanh tịnh độ, và chí thiết tu tập ngày càng tinh tấn. Điểm đặc
biệt, là khi đã phát tâm chí thành niệm Phật, tôi có cảm giác mình đón
nhận được hồng ân chư Phật gia bị nên thân tâm ngày càng nhẹ nhàng
thư thái.
- Ủa! ngày xưa
tôi nghe anh bàn luận về thiền cao siêu lắm mà! sao bây giờ anh chuyển
sanh tịnh độ như vậy?, thím Phan thắc mắc.
Tôi ôn tồn
đáp:
- Thật ra,
lúc nào tôi cũng tôn quý thiền tông, nhưng cái nhìn của tôi không còn một
chiều như ngày xưa nữa. Thuở mới phát tâm, vừa học lóm được vài
sáo ngữ thiền tôi những tưởng sở học Phật Pháp của mình cao siêu lắm,
thậm chí tôi tự cao tự đại xếp mình vào hàng thượng căn chỉ cần tu
một kiếp là đã thừa sức ngộ đạo thành Phật rồi. Thế nhưng, khi tìm
hiểu sâu rộng và thực sự bước vào ngưỡng cửa thiền, tôi mới hiểu
ngộ đạo chân chánh là chuyện vô cùng hiếm hoi, trong khi nhộ nhập ma đạo
lại rất dễ dàng. Ngày xưa, người đệ tử xuất gia theo thầy học đạo
bao năm trời, khi thầy xét đã hội đủ giới đức cần thiết thì mới
trao câu thoại đầu để tham quán, rồi thường trực theo dõi để hướng
dẫn đệ tử, vậy mà, số người bỏ ra cả đời để tu thiền có mấy
ai đạt được đạo mầu đâu? Ngày nay, sách vở và băng thuyết giảng
thiền tràn ngập, người ta theo đó nghiên cứu rồi rủ nhau tu thiền,
không cần thầy hướng dẫn, cũng chẳng màn quan tâm đến căn cơ, đức hạnh
gì cả. Chẳng lạ gì có người mới tọa thiền vài ba tháng, tham sân si
ngập tràn, mà mở miệng toàn nói chuyện chứng đắc, hiu hiu đặt mình
ngang hàng với chư Phật với chư tổ, rồi nặng lời bài xích phỉ báng
pháp môn khác... Thấy người rồi nghĩ đến mình, tôi tự biết đức mỏng,
tham sân si sâu dầy... nên tu thiền chắc khó thoát khỏi lưới ma, nên tuy
hằng khâm phục thiền nhưng chỉ đứng vòng ngoài vỗ tay tán thưởng mà
thôi!
- À! thì ra
là như vậy! Thế rồi anh chọn tịnh độ vì đó là lối tu tắt dễ dàng
chăng?, thím Phan lại chất vấn.
- Tôi thiết
nghĩ, đúng ra, tu ở cõi ta bà tuy hiểm nghèo nhưng nhờ gặp đủ mọi nghịch
cảnh nên có thể tiến bộ nhanh hơn tu tại cõi tịnh. Thí dụ như ở
trung phẩm hạ sanh tại cõi Cực Lạc, hành giả sau khi được chư bồ tát
Quán Thế Âm, Đại Thế Chí thuyết pháp phát tâm bồ đề chứng được
sơ quả Tu Đà Hoàn, rồi phải tu liên tục một tiểu kiếp thì mới có thể
chứng được quả vị A La Hán. Trong khi ấy, tại cõi ta bà, từ quả vị
Tu Đà Hoàn tiến đến A La Hán có thể đắc liền ngay trong hiện kiếp, cùng
lắm cũng chỉ kéo dài đến bảy kiếp người mà thôi. Có thể hình dung,
cõi ta bà như là một cánh rừng rậm bao la, hành giả tu ở đây phải leo
trèo đạp chông đạp gai phát tâm đại hùng đại lực mở đường tìm đến
bờ giải thoát. Con đường đạo gian nan hiểm trở nầy lại chính là con
đường chim bay nên thời gian tu có thể rất ngắn, mà cũng có thể dài
vô tận nếu như hành giả sa chân ngã gục hay bị lầm đường lạc lối.
Tu tịnh độ là nương theo lời dạy chư Phật, theo lối đi ít gập ghềnh
và tương đối ngắn để ra khỏi rừng rậm ta bà đến xa lộ Cực Lạc.
Đến đây rồi, thì đường đi quang đãng, phương hướng rõ rệt, lại
được tam thánh dắt dìu, nên cứ từng bước vững vàng mà tu cho đến
khi thành đạt, không còn lo sợ chuyện sa chân đọa lạc nữa. Tóm lại,
theo tôi con đường tịnh độ là con đường tu an toàn chớ không hẳn là
lối tu tắt.
Nghĩa lại góp
ý:
- Em đồng tình
với anh, là mấy chữ "lối tu tắt" không ổn lắm, nhứt là khi
nghe, em cảm giác nó hời hợt làm sao á! người ta có thể hiểu lầm mà
có thái độ thiếu nghiêm chỉnh khi nghiên cứu pháp môn tịnh độ đó
anh!
Thím Phan lại
hỏi:
- Tóm lại,
anh chọn pháp môn tịnh độ, vì đó con đường tu an toàn nhờ có thể dựa
hẳn vào tha lực của Phật A Di Đà phải không anh?
- Ơ! quan niệm
tha lực cũng dễ bị hiểu lầm lắm! Thật ra, dù tu bất cứ pháp môn nào
người hành giả cũng phải "tự mình đốt đuốc lên mà đi" phải
kiên trì tu tập mới đạt được kết quả. Công năng đầu tiên của câu
niệm Phật là tu sửa thân tâm sao cho tham sân si giảm lần, vọng niệm bớt
sanh khởi..., tâm thanh tịnh thì mới có thể đạt đến trình độ niệm
Phật nhất tâm bất loạn mà vãng sanh được... Tóm lại, tu tịnh độ tuy
nương vào tha lực nhưng tự lực cũng vẫn là yếu tố then chốt trong sự
tu tập. Không biết vận dụng tự lực để tha thiết chuyển hóa, thì
pháp môn niệm Phật tu sửa tâm cao siêu sẽ biến thành lối tu mê tín, cầu
đảo, van xin... do đó, càng tu tâm càng vọng động điên đảo, chẳng ích
lợi bao nhiêu!
Danh vốn ít
nói mà lần nầy cũng góp ý:
- Ủa! vậy
mà từ lâu em cứ tưởng thiền là lối tu thuần tự lực còn tịnh thì
hoàn toàn tha lực chớ!
- Thật ra,
suy cho cùng pháp môn nào cũng phối hợp tự và tha lực. Ngay như thiền tuy
đặt nặng tự lực, nhưng yếu tố tha lực cũng vô cùng vô tận. Người
hành giả nương theo giáo pháp của chư Phật, chư tổ lại được đàn na
tín thí - nói cho đủ là cả pháp giới chúng sanh - yểm trợ thì mới có
thể tu hành được. Thiếu sự yểm trợ của chư Phật, chư Bồ Tát và
pháp giới chúng sanh thì một niệm an lành còn không có, huống chi nói đến
chuyện tọa thiền và giác ngộ. Kẻ tu thiền nếu tự cho mình là bậc thượng
căn tài trí phi phàm, tự tu tự ngộ, không nương nhờ vào tha lực nào cả,
rất dễ sanh tâm cống cao ngã mạn mà rơi vào ma đạo.
- Hay quá! nếu
không nghe anh giải thích, chắc em cứ nhìn thiền tịnh qua những nhận xét
nông cạn như cũ!, Danh lên tiếng.
- Anh trình
bày rõ ràng lắm! Tuy vậy, anh vẫn chưa trả lời thẳng câu hỏi của tôi
là nguyên nhân nào đã thúc đẩy anh quyết định chọn pháp môn tịnh độ
vậy anh Tô?, thím Phan lại vặn hỏi.
- Tôi cũng chất
vấn người bạn tu tịnh độ y chang như vậy thì ảnh đáp: "Tịnh độ
là pháp môn thù thắng được chư Phật, chư Bồ Tát và chư tổ nhiệt liệt
tán thán, chư tôn túc luận giải minh bạch, lại đưa ra những bằng chứng
vãng sanh rất cụ thể, tôi nghĩ anh là người học rộng hiểu biết chắc
chắn anh đã từng nghiên cứu qua, tôi lập lại cũng bằng thừa. Phần tôi,
tôi thích thuyết nghiệp báo nhân duyên, nên cũng nhìn pháp môn tịnh độ
theo thuyết nầy. Tôi nghĩ niệm Phật với Tín, Hạnh, Nguyện là tạo nên
nhân duyên thanh tịnh, mà nhân đã thanh tịnh thì quả phải là quả thanh tịnh;
nói khác, nghiệp tức chánh báo thanh tịnh thì trụ xứ tức y báo phải
là cõi tịnh độ. Vì vậy mà tôi tin chắc rằng nếu tôi niệm Phật chân
thành thì đương nhiên tôi sẽ được vãng sanh". Nhờ sự hướng dẫn
của anh bạn, đúng ra, là do lòng cảm phục đức hạnh của anh ta, mà tôi
đã tìm được đường hướng tu tập phù hợp với căn cơ của tôi.
- Người đó
là ai? ai vậy anh?, thím Phan hỏi dồn dập.
- Cũng chẳng
phải ai xa lạ đâu chị. Người đã chuyển hóa tôi chính là "Ông
xã" của chị đó!
Thấy thím
Phan trố mắt lộ vẻ không tin, Tô mĩm cười tiếp lời:
- Đó là sự
thật chị à! Tụi nầy giao du với nhau đã hai mươi năm trời, tính nết xấu
tốt thế nào làm sao dấu nhau được. Tôi vốn quý đức khiêm cung nhân hậu
của ảnh. Tôi lại để ý thấy từ ngày ảnh tu tịnh độ, thì dường
như phiền não biến dạng dần, con người ảnh ngày càng tươi mát, thanh
thản hơn. Anh tiếp xúc hài hòa với tất cả mọi người, kể cả thành
phần bất hảo! Có lẽ, dưới con mắt của anh ấy, ai cũng là người tốt
cả, vì ảnh có bao giờ hờn giận, chê trách ai đâu! Đức hạnh của ảnh
như vậy đáng cho tôi tâm phục lắm chớ!
Nghe bạn khen
chồng, thím Phan thích thú lỗ mũi nở phồng, nhưng thím giả vờ như không
quan tâm lắm. Thím đối đáp vài câu vớ vẩn đưa đẩy sang câu chuyện
khác, rồi lặng yên mà lòng miên man nghĩ ngợi: "Ông xã của thím tuy
đứng đắn trung hậu, nhưng chuyện tu tập thật ra còn thua sút cả thím,
thế sao chú Tô lộ vẻ khâm phục như vậy kìa? Tô đùa giỡn chăng? Mình
phải hỏi ông xã cho ra lẽ mới được?...". Thế nhưng buổi tiệc đã
tàn, thím chờ đợi sốt cả ruột mà cái ông chồng "ăn cơm nhà, vác
ngà voi, lo chuyện tào lao thiên hạ", mãi đến hơn quá khuya mới chịu
"dẫn xác" trở về. Chú vắn tắt cho biết Xến bị thương nặng
ở đầu, ngực và gãy hai chân. Vết thương đầu nguy hiểm nhất, bác sĩ
đã cố gắng giải phẩu, nhưng kết quả vẫn còn mù mịt..., mạng sống
mong manh lắm. Chú chờ bàn giao vợ chồng Triệu cho đám con cái họ, mới
an tâm lui gót thành thử về trễ. Vợ chồng Tô nài ép Phan ăn miếng cơm,
nhưng Phan mệt nuốt không trôi, chỉ uống tí nước rồi viện cớ hôm sau
phải đi làm, để xin phép chia tay.
*
* *
Xe vừa lăn bánh,
thím đã ron ren dọ hỏi:
- Anh à! bấy
lâu nay anh có tu tập gì không anh?
- Ơ! thì khoảng
mười năm về trước đó, sau khi viếng chùa Vạn Phật về, hai vợ chồng
mình đồng phát nguyện tu tịnh độ, chẳng lẽ bà lại quên?
Dĩ nhiên là
thím không quên, nhưng chuyện đó xưa quá rồi. Thím đâu có ngờ chú vẫn
chặt lòng chặt dạ với pháp môn tịnh độ, trong khi đó, cũng cùng thời
gian nầy thím đã thử vòng vòng biết bao lối tu rồi: thím bỏ tịnh sang
thiền, từ thiền nhảy sang lối tu lạ của bà Vô Thượng Sư, đoạn chạy
theo phong trào nhân điện để "cứu nhân độ thế", và hiện thì
đang ngấp nghé bước vào ngưỡng cửa mật tông. Thím vẫn còn ngờ vực
chồng, nên hỏi tiếp:
- Ủa! ông vẫn
còn tu Niệm Phật à! tu gì mà "êm ru bà rù" chẳng nghe tăm hơi chi
cả vậy?
Ơ! tu nghĩa là
sửa thân tâm thì cứ lẳng lặng mà sửa, chớ đâu phải đóng kịch mần
tuồng mà quảng cáo rùm beng, vậy bà!
- Ậy! tôi thắc
mắc chỉ vì có mấy thuở tôi nghe ông tụng niệm đâu? thời khắc tu tập
của ông như thế nào mà tôi chẳng hay biết gì cả?
- Lạ thật!
hôm nay bỗng nhiên bà lại nổi hứng truy tôi dữ quá nghen? Bà không thấy,
bởi vì mỗi sáng trong khi tôi dậy sớm để lễ và niệm Phật thì bà
còn ngủ yên. Ngoài ra, thì tôi thầm niệm Phật suốt ngày: trong khi lái
xe, đi bộ, săn sóc vườn hay làm thợ..., niệm thầm thì làm sao bà hay biết!
Thì ra chú thức
dậy sớm để công phu, thế mà, mỗi sáng thức dậy trễ, thấy có trà
cà phê pha sẵn, thím đinh ninh ông chồng già sanh tật rọ rạy ngủ không
được phải bò ra nấu nước để nhâm nhi. Thím bẽn lẽn hỏi:
- Anh gia công
tu tập bền bỉ như vậy mà có ngộ đạt được điều gì cao siêu chưa?
anh kể thiệt cho em nghe đi!
- Ơ! anh nào
có đạt được cái gì lạ đâu? có một điều là những chuyện mà ngày
xưa mình nổi sân hay buồn phiền thì nay mình có thể bình tĩnh đón nhận,
kẻ thù người ghét lần lần cũng không còn, thời giờ nào cũng là thời
an vui niệm Phật cả nên nỗi chán chường bực dọc biến dạng dần, và
lòng cũng cảm thấy thanh thản nhẹ nhàng hơn...
- Ủa! chỉ
niệm Phật thôi mà cũng thay đổi nhường ấy sao anh?
- Ơ! niệm với
tâm buông lung hờ hững thì câu niệm Phật sẽ trở thành vô dụng, ngược
lại, nếu thành tâm tha thiết niệm Phật, lúc nào câu niệm Phật cũng tỏ
rạng trong tâm, thì vọng niệm làm sao sanh khởi, bụi trần còn nơi nào
bám víu. Niệm Phật với chánh niệm thì hoa công đức sẽ đua nhau rộ nở.
Đó là nói lý thuyết để nghe mà thôi, chớ như anh thuộc thành phần căn
cơ kém chỉ nhờ siêng niệm Phật nên dễ được nhắc nhở mà sửa tâm.
Như khi đang thầm niệm Phật chợt khám phá niệm tham, sân , si manh nha, anh
bèn tự nhủ: "Mình đã nguyện vãng sanh về tịnh độ mà sao còn tham
luyến cõi ta bà, còn tính chuyện hơn thua tranh chấp với người ta làm gì
kìa?"; sắp mở lời bất nhã, thì anh tự cảnh cáo: "Tầm bậy
quá rồi, miệng mình là nơi cất tiếng xưng tán hồng danh Phật, mình phải
lựa lời ngọt ngào hòa ái để trang nghiêm, chớ đâu có thể ăn nói bừa
bãi được!". Tầm thường nhất như khi phải chờ đợi ở bãi đậu
xe mấy tiếng đồng hồ để em tung tăng mua sắm, lòng anh vẫn an vui thư
thái vì anh nghĩ: "Hên quá! bà xã mình ưu ái dành cho mình thời giờ
đặc biệt nầy để dốc lòng niệm Phật! cám ơn bả quá mức!". Đó!
anh cứ nương theo câu niệm Phật mà gắng công sửa tâm lần lần, nhờ vậy,
anh cảm thấy có tiến bộ đôi chút.
Thím Phan hồi
tưởng lại quãng đời vợ chồng mấy năm sau nầy với niềm xúc động sâu
xa, lẫn lộn nửa thương yêu nửa nhột nhạt. Đàn bà vốn nhạy cảm,
thím đã khám phá ngay biến chuyển tâm tư của chồng. Có thế nên thím mới
thường khoái chi rêu rao với bè bạn: "Ê! người ta nói già sanh tật
coi bộ đúng thiệt nghen! Ông xã tui, độ rày bỗng nhiên sanh tật dễ, ỗng
chiều chuộng tôi rất mực, dẫu tui có làm trời làm đất gì ổng cũng
cười hề hề hết hà!". Yên chí chồng sanh tật dễ, thím lấn lướt
chồng mỗi ngày một chút, chồng vui vẻ không phản đối thì thím càng nộ
nạt áp đảo hơn nữa... Giờ nầy, hiểu ra mọi việc, thím bỗng thương
và quí chồng vô hạn. Thím nguyện sẽ noi gương chồng tu tập để chuyển
hóa con người của thím. Suy nghĩ tới lui thật chín chắn, đợi đến khi
chú lái xe đậu hẳn trong nhà xe, thím mới thỏ thẻ:
- Anh à! em nhất
định rồi! lần nầy em sẽ tu, tịnh độ như anh mới được!
Thím tưởng
khi nghe lời tuyên bố hào hứng nầy chú sẽ mừng rỡ hoan hô bà vợ hai
tay lẫn hai chân, ngờ đâu, chú im lặng đôi chút như chẳng hề nghe thấy,
rồi mới lừng khừng lên tiếng can gián:
- Ái chà! Cho
tôi xin đi bà! vợ chồng mình bấy lâu nay chung sống tương đối vui vẻ hạnh
phúc rồi! Thôi thì mình cứ theo nếp đó mà tiếp tục, bày đặt thay đổi
chi cho rắc rối vậy bà!
"Chú có
thái độ khinh khỉnh lạ lùng quá, chắc chú xem nhẹ khả năng tu của thím",
thoáng nghĩ điều đó cơn giận bốc lên ngùn ngụt khiến thím run rẩy cả
toàn thân. Bình thường có lẽ thím đã dãy tê tê gây gổ rồi, nhưng lần
nầy không biết do động lực nào kềm hãm, thím chỉ mở cửa xe bước ra
đóng cái rầm, rồi ngoe nguẩy bỏ đi một nước. Thím vùng vằng đến bộ
ghế nệm nằm phệt xuống thở dài thườn thượt, nước mắt rưng
rưng...
Chú Phan rón
rén ngồi cạnh vợ, vuốt ve an ủi, rồi cất tiếng ngọt ngào:
- Em à! anh
can ngăn em thật ra cũng có chút lý do. Anh chưa nêu rõ lý do vì nghĩ em sẽ
giận anh nhiều hơn mà thôi!
Thấy mụ vợ
vẫn bùng thụng không thèm trả lời, chú tiếp tục phân bua:
- Bây giờ,
nghĩ lại anh thấy thà nói rõ một lần rồi năn nỉ em, còn hơn là để
em ấm ức hoài vì chẳng hiểu ngọn ngành. Nè! em nghe kỹ coi anh có nói
thêm bớt hay sai trái gì không nghen! Phải nhìn nhận là em tu đủ thứ hết,
nhưng chỉ tu hùng hổ "nước nạp" vài ba tháng rồi bỏ cuộc.
Khởi sự theo pháp môn nào, y như rằng, em hăng say ca ngợi pháp môn đó,
chỉ trích chê bai pháp môn khác, gặp ai cũng cao giọng thuyết giảng để
lôi kéo người ta theo về phe của em. Em à! nói chuyện đạo mà không đúng
lúc, đúng người, đúng căn cơ... thì tội nghiệp cho lỗ tai người ta lắm,
huống chi em có thói quen là hay nổi hứng bất tử khoác lác càn bướng rằng
mình đã chứng đắc thứ nầy thứ nọ để "nộ" người. Em ngồi
thiền chưa xẹp tọa cụ, áo quần son phấn se sua, tham luyến đua đòi đủ
thứ, vậy mà em dám hí hửng cho rằng tâm em an lạc, dứt trừ hết vọng
tưởng rồi! Em tập tễnh ngồi chồm hỗm bịt lỗ tai theo bà Vô Thượng
Sư mấy tuần thì đã "sứa" lên rằng em đã nghe được
âm thanh cõi Phạm thiên. Em mới chạy theo nhân điện vài bữa là đã khoe
ngồi thiền điện chạy rần rần, tự chữa bịnh cho mình chẳng ra hồn
mà mở miệng "dao to búa lớn" nào là "cứu nhân độ thế"
nào là "phổ độ chúng sanh". Tóm lại, nếu em tu như vậy đó thì
anh trăm ngàn lần van xin em đừng tu, bởi càng tu thì tâm càng vọng động
chớ chẳng ích gì. Thôi! chẳng thà em cứ nhởn nhơ vui sống, đua đòi chạy
theo thời trang..., em có hứng chí "nổi cho xôm tụ" thì lối nổ
mua vui đó cũng không đến nỗi chết ai, còn lối "nổ" khoe khoang
chứng đắc khẩu nghiệp nặng nề kiếp kiếp đọa lạc, nguy hiểm khôn lường.
Chú nhìn
thím thăm dò phản ứng rồi mới ngập ngừng tiếp lời:
- Sự thực
là như vậy đó em! Chớ nếu như em bình thường tu sửa thân tâm thì đó
là điều quý hóa anh phải mong cầu chớ sao lại cản ngăn!
Thím Phan chới
với rụng rời. Tự thuở giờ thím chỉ được chồng rót vào tai toàn bằng
lời lẽ âu yếm ngọt ngào, lần nầy, chú lại thẳng thừng vạch rõ khuyết
điểm của thím thậm tệ như vậy, thím làm sao chịu đựng nỗi. Có lẽ
do những biến cố dồn dập trong ngày ảnh hưởng, nên tuy giận hờn tức
tưởi mà thím không dẫy nẩy đôi co đàn áp chồng như thường lệ. Thím
chỉ lặng lẽ suy tư để tự quán sát mình, nhờ vậy thím thức tỉnh lần
lần. Thím hiểu là những điều chú nói không có gì quá đáng, thím phải
phục thiện thay đổi lối tu toàn diện, nếu như thím không muốn bị đọa
lạc. Vì thế, thím quyết định phen nầy sẽ dõng mãnh mà âm thầm tu niệm
cho chồng thán phục mới nghe.
Nghĩ sao làm
vậy, thím vừa thay đổi quần áo vừa thầm niệm lục tự Di Đà. Mới niệm
được năm câu, trong khi đem máng bộ đồ đầm trong phòng chứa y phục,
thím chợt nhớ tiệm Đại Đồng quảng cáo đại hạ giá 50% vào ngày mai,
phấn sáp Lancôme tại Dillard chỉ cần mua hai mươi lăm đồng thì có quà cả
trăm... thế rồi tâm thím cứ nhởn nhơ quay cuồng với lụa là son phấn...
Mãi đến khi xong xuôi mọi việc, thím chuẩn bị chúc chồng ngủ ngon, thì
mới sực nhớ rằng đang niệm Phật bỗng buông lung thả tâm lang thang đi
theo những chuyện không đâu mà chẳng hay. Thím thẹn thùng hỏi chồng:
- Anh ạ!
đang niệm Phật mà tâm rong chơi thì phải dùng phương pháp gì để khắc
phục vậy anh?
- Niệm Phật
lần chuỗi đỡ lắm. Trong khi đang niệm dẫu tâm có rong chơi, nhưng nhờ
tay còn lần chuỗi miệng còn máy móc nhóp nhép, nên dễ giựt mình tỉnh lại,
mà đem tâm về với câu niệm Phật. Niệm Phật thầm không chuỗi, hễ
tâm đi chơi thì đi tuốt luốt quên mất đường về. Trong trường hợp nầy,
mỗi người nên tự tìm cái gì làm chuẩn để thỉnh thoảng nhắc nhở mình
kiểm soát lại thân tâm. Phần anh, cứ mỗi giờ đồng hồ tay của anh kêu
"tít" một tiếng, nghe tiếng kêu nầy anh liền kiểm soát lại
mình, xem "con trâu tâm" của mình lang thang ở đâu? có phá làng
phá xóm chi không? Anh nghĩ nếu mình có đồng hồ treo tường, loại mười
lăm phút gõ chuông một lần, để nương vào tiếng chuông thức tỉnh tâm
thì cũng tốt!
Thím hăng hái:
- Đúng lắm!
ngày mai em phải đi mua ngay mới được!
- Em à! niệm
Phật mà tâm đi chơi cũng là chuyện bình thường! Vấn đề quan trọng là
khi khám phá ra thì mình phải biết hổ thẹn mà khẩn thiết đem tâm về với
câu niệm Phật. Nếu tha thiết hành trì như vậy, bền bỉ từng phút từng
giờ, ngày nầy sang ngày khác, năm nầy sang năm khác... thì chắc chắn
thân tâm sẽ được chuyển hóa.
Nghe chồng an
ủi, thím Phan lên tinh thần, tự nhủ: "thua keo nầy thì bày keo khác,
lo gì!". Phen nầy, thím quyết định sẽ thầm niệm Phật một trăm câu
trước khi ngủ mới được. Thím niệm được mươi câu thì chợt thấy cửa
sổ còn mở nên bước đến đóng lại. Bầu trời đêm đẹp quá! Vầng trăng
lưỡi liềm lửng lơ trên đỉnh núi thơ mộng lạ! Niệm buông lung lại đến
với thím. Cảnh trăng đỉnh núi vô tình khơi dậy kỷ niệm buổi ban đầu
gặp gỡ của người con gái đang xuân với chàng thanh niên họ Phan trên đỉnh
Cổ Sơn, Phước Kiến khoảng hơn bốn mươi năm về trước. Lòng xuân phơi
phới thím khẽ ngâm nga:
"Cái thuở
ban đầu lưu luyến ấy,
Ngàn năm
chưa dễ đã ai quên!..."
Rồi những kỷ
niệm ngày xưa êm ấm tuần tự quay về tràn ngập tâm khảm của thím,
thím lâng lâng lên giường yên ngủ trong giấc mộng thần tiên.
Tháng 05.1998
http://www.buddhismtoday.com/viet/truyen/motniembuonglung.htm