- Người
quét chợ
"Nhớ dâng trà cúng sư
thúc và dì Linh nghe con?" thầy nhắc chú tiểu khi thấy chú sửa soạn
lên chánh điện để cúng ngọ.
"Bạch thầy con nhớ,"
chú đáp.
Đó là câu mà thầy cứ
nhắc chú mỗi ngày trước mỗi thời kinh. Chú chẳng biết sư thúc là ai,
dì Linh là ai. Trên chiếc bàn thờ nhỏ đặt cạnh bàn Tổ, chú chỉ thấy
hai cái bài vị được viết bằng chữ Hán chứ chẳng có hình ảnh gì cả.
Vì thầy nhắc mãi nên chú không lúc nào quên, vậy mà thầy cứ nhắc.
Nghe nhắc hoài, ban đầu chú hơi bực mình, nhưng riết rồi cũng quen. Và
khi chú rót trà cúng cho hai người đó, chú cũng làm như một cái máy chứ
không suy nghĩ gì. Chùa chỉ có một thầy một trò, nên thầy thương chú lắm
và chú cũng quí kính thầy vừa như cha mẹ, vừa như thầy, và thỉnh thoảng
như một người bạn đạo. Chú không có tên thế tục. Chú chẳng hiểu
lý do vì sao. Có lẽ vì chú sống ở chùa từ nhỏ nên thầy đã không đặt
tên thế tục cho chú mà chỉ đặt cho chú một pháp danh là Thanh Thị. Chú
lớn lên ở trong chùa, quen với tên gọi mà thầy đặt cho, chẳng thắc mắc
gì. Nhưng đến khi được thầy dạy cho học chữ Hán, chú mới hiểu được
cái tên đọc nghe như tên con gái của mình lại có một ý nghĩa kỳ cục,
không được thanh nhã cho lắm. Nó có vẻ như được đặt ra để đánh dấu
một kỷ niệm nào đó của thầy, hoặc cho chính chú. Chú băn khoăn suy
nghĩ mãi về ý nghĩa của cái tên mà mình đeo mang. Nhân lúc cùng thầy nhổ
cỏ sau vườn chùa, chú hỏi:
"Bạch thầy, tại sao
thầy đặt tên con là Thanh Thị?"
"Vì thầy thích đặt
như vậy," thầy chú thản nhiên trả lời.
"Lâu nay con tưởng rằng
chữ thị có nghĩ là đây, như vầy, giống như chữ thị trong như thị, đích
thị hoặc chữ thị như trong biểu thị, thị hiện... nhưng mới hôm qua,
thầy viết tên con bằng chữ thị có nghĩa là chợ. Con không rõ là tên
con sao lại có cái nghĩa không được hay. Xin thầy giải thích cho con."
Thầy nghiêm giọng nói:
"Chỉ là tên gọi
thôi, có gì mà phải bận tâm, nhổ cỏ đi."
Chú cúi xuống nhổ cỏ tiếp,
nhưng được một lúc, chú lại hỏi:
"Con biết đó chỉ là
tên gọi thôi, nhưng tên gọi cũng phải nói lên một cái gì, một ý nghĩa
gì chứ."
"Thì chợ cũng là một
cái gì, một ý nghĩa gì rồi đó," thầy đáp.
"Con thấy chợ chỉ
có ý nghĩa là dơ, ồn ào, phức tạp... toàn là xấu không à. Con không
tìm ra được ý nghĩa nào hay đẹp ở trong nó. Khi thầy đặt tên con, chắc
chắn là thầy có nghĩ đến một ý tưởng hay một hình ảnh gì đó về
cái chợ, phải không, bạch thầy?"
"Nhiều chuyện
quá," thầy nói, "nhổ cỏ đi."
Chú im lặng nhổ cỏ,
không dám hỏi nữa. Nhưng trong đầu óc chú bắt đầu nẩy ra những suy
tưởng, những phán đoán về sự đặt tên của thầy. Chú nghĩ, năm nay chú
đã mười sáu tuổi rồi, có thể nói là chú đủ trưởng thành để nghe
thầy kể về lai lịch của chú. Lâu nay mỗi lần chú hỏi đến vấn đề
đó, thầy chỉ nói là chú chưa trưởng thành, chưa đến lúc cần biết.
Nhưng dù thầy chẳng nói ra, chú cũng không đến nỗi ngu độn để không
biết rằng chú là một đứa bé mồ côi. Ai cũng có cha mẹ, riêng chú
không có. Cái thực tế đó làm gì thầy che dấu được. Nhưng tại sao lại
đặt tên là Thị, có nghĩa là chợ? Có lẽ.. có lẽ cha hay mẹ của chú
là người bán hàng ngoài chợ, hoặc là người chủ chợ. Nhưng ba mẹ chú
đâu mà để cho thầy phải đặt tên? Cũng có thể mẹ chú đi ngang chợ
thì sinh ra chú. Không, nếu mẹ chú sinh ra chú ở chợ thì cũng đem về nhà,
và chú vẫn còn người mẹ đó chứ chú đâu có mồ côi để cho thầy phải
đặt tên! Hay là... hay là thầy lượm được chú ngoài chợ, đem về chùa
nuôi cho đến ngày hôm nay? Chính vì kỷ niệm đó mà thầy đặt tên cho
chú là Thị (chợ)?
"Bạch thầy..."
chú không ngăn được nỗi háo hức tìm hiểu thân phận mình, lại mở miệng
hỏi.
"Gì nữa đây?" thầy
không nhìn chú.
"Có phải... có phải
con là đứa con rơi thầy lượm ở ngoài chợ đem về hay không?"
Thầy ngưng tay nhổ cỏ.
Im lặng một lúc, thầy tiếp tục nhổ, nói:
"Nhổ cỏ."
Đến chiều, sau giờ ăn
cháo, thầy gọi chú cùng dạo sân với thầy. Hai thầy trò tản bộ cho đến
vườn sau, nơi có hai ngôi mộ mà thỉnh thoảng chú thấy thầy ra thắp hương.
Một cái mộ thì chú biết là của sư thúc chú, còn cái còn lại chú chẳng
biết của ai và cũng không để ý lắm.
"Con đã dâng trà cho sư
thúc và dì Linh lúc công phu chiều rồi hả?" thầy hỏi.
"Bạch thầy, rồi,"
chú trả lời như máy.
Thầy nhặt mấy chiếc lá
nằm trên mộ sư thúc, nhổ vài bụi cỏ mới mọc quanh hai ngôi mộ. Rồi
thầy bắt đầu kể chuyện cho chú nghe.
*
Thầy Hải Chấn đang ngồi
đọc sách thì Hải Thanh, sư đệ của thầy, bước vào, mặt buồn dàu
dàu. Hải Chấn hỏi:
"Gì mà sư đệ có vẻ
rầu lo vậy?"
Hải Thanh buồn bã đứng
nhìn ra cửa sổ một lúc rồi nói:
"Đệ... đã phạm giới..."
Hải Thanh nói đến đó thì rơi nước mắt.
Hải Chấn kéo tay sư đệ
ngồi xuống, vỗ về:
"Có trầm trọng lắm
không? Đệ đã sám hối chưa?"
"Đã sám hối. Nhưng
đó là cho tự tâm. Không giải quyết gì được cho hoàn cảnh."
"Chuyện gì vậy? Nói
đi, để xem huynh có thể giúp gì cho đệ không."
"Huynh đừng trách mắng
đệ nghe..."
"Phạm tội thì sám hối,
ăn năn; huynh trách mắng có thay đổi gì được đâu! Nói đi, đừng chất
chứa trong lòng," Hải Chấn nói với giọng đầy cảm thương.
Hải Thanh đưa hai tay ôm lấy
đầu, mặt gục xuống bàn, nói:
"Cô ấy đã có
mang."
Hải Chấn sửng sốt một
lúc, rồi thở dài, hỏi:
"Cô ấy là ai vậy?"
"Sư huynh không biết
đâu. Cô ấy không hề đến chùa mình."
"Vậy làm sao đệ quen
để đến nỗi..."
"Thôi, huynh hỏi làm
gì chuyện đó cho mệt. Bây giờ, đệ chỉ hỏi huynh một điều là đệ
phải làm sao đây?"
Hải Chấn nhíu mày, thấy
khó xử. Theo luật, Hải Thanh đã phạm một trong các tội Ba-la-di, tức những
trọng giới mà đương sự bị coi như mất cả giới thể, không còn là tỳ-kheo
thanh tịnh nữa, không thể chữa được nữa—như cây dừa, cây cau, đã
chặt đi khúc đầu (đoạn đầu) thì không thể mọc lại tàu lá mới. Đã
tới nước đó thì Hải Chấn biết góp ý với Hải Thanh điều gì nữa. Hải
Chấn thở dài nói:
"Huynh cũng chẳng biết
phải góp ý với đệ làm sao. Chuyện không đơn giản đâu. Đệ phải nói
rõ sự việc may ra..."
Hải Thanh ngập ngừng lúc
lâu rồi kể:
"Cũng vì cái hạnh
quét chợ mà đệ vướng phải nghịch cảnh này. Huynh cũng biết mà, mỗi
sáng đệ quét từ sân ra tới chợ, mặc ai cười ai chê, đệ quét thì cứ
quét, vừa quét vừa quán niệm về sự cấu bẩn của thế gian và thanh tịnh
của niết bàn... năm này qua năm nọ, mưa hay nắng, đệ cũng không bỏ
ngày nào. Thế rồi... cô ấy lưu ý đến đệ. Và... một ngày nọ, đệ
sa ngã."
"Buồn thay cho đệ. Cô
ấy bán ngoài chợ à?"
"Không, cô chỉ đi
ngang chợ thôi."
"Vậy bây giờ gia đình
cô ấy đã biết rằng chính đệ đã làm... cái chuyện gì đó chưa?"
"Chưa, cô ấy không
nói ra là ai. Nhưng... có lẽ có ngày họ cũng biết. Mà họ có biết hay
không thì... mình cũng phải tự liệu."
"Tự liệu?"
"Ý đệ nói là mình
phải giải quyết vấn đề đó bằng cách đến nói chuyện với gia đình
cô ấy, xin hỏi cưới cô ấy, hoặc là... đệ cùng cô ấy trốn đi xa để
khỏi mang tai tiếng cho gia đình cô ấy và cho chùa nữa."
"Nghĩa là đệ sẽ hoàn
tục?"
"Chứ biết sao bây giờ.
Anh có cách gì hay hơn không?"
Hải Chấn ứa nước mắt,
thương sư đệ mình gặp nghịch duyên đến phải bỏ đường tu, nhưng chẳng
biết phải giúp bằng cách nào. Hải Chấn ngồi lặng thinh. Một chặp, Hải
Chấn nói:
"Huynh chẳng biết
cách nào hết, mong đệ tha thứ cho sự chậm lụt của huynh. Huynh nghĩ chắc
phải làm theo một trong hai cách mà đệ nêu ra thôi. Mà cho dù chọn giải
pháp nào, huynh cũng xin lưu ý đệ một điều rằng đệ nên giải bỏ
hình thức tăng sĩ trước khi..."
"Đệ hiểu."
Hai huynh đệ im lặng, mỗi
người một dòng suy tưởng.
Hải Chấn nhớ lại bao kỷ
niệm mà thầy cùng Hải Thanh trải qua nơi ngôi chùa này từ thuở còn để
chóp đến nay. Hải Thanh thông minh, nhanh nhẹn mà lại siêng năng nên cái
gì cũng vượt qua mặt sư huynh. Nhưng đến khi sư phụ sắp viên tịch, sư
phụ lại giao trọng trách trụ trì cho Hải Chấn. Lúc đó Hải Chấn đã
không nhận vì cho rằng sư đệ vượt trội hơn mình quá nhiều. Hải Thanh
cũng không chịu nhận chức trụ trì, còn sư phụ thì nhất quyết phải
giao chức ấy cho Hải Chấn dù Hải Chấn học hành chậm lụt. Rốt cuộc
Hải Chấn phải nhận. Giờ ra đi, sư phụ không nói gì nhiều ngoài việc
khuyên răn hai huynh đệ nương nhau tu tập, và những lời cuối cùng của sư
phụ đều nhắm vào Hải Thanh, cảnh giác Hải Thanh là không nên chú trọng
vào sở kiến sở văn mà bỏ quên phần tu tập. Sau khi sư phụ mất, Hải
Thanh thức tỉnh, nỗ lực tu tập, không bao giờ chểnh mảng. Rồi một
ngày đó, Hải Thanh bỗng phát nguyện quét luôn cả chợ thay vì chỉ quét
sân chùa. Hải Chấn không ngăn cản chi hạnh nguyện của sư đệ mình vì
nghĩ rằng đó cũng là hạnh tốt thôi. Hải Thanh cho rằng hình ảnh người
tu sĩ hiền lành nhẫn nại có mặt nơi phố chợ đông người sẽ cảm hóa
và gây được tín tâm cho nhiều người. Ngoài ra, quét chợ cũng là một
cách tu luyện cho tâm được định tĩnh ngay giữa chốn náo động. Không
ngờ, chính cái hạnh nguyện cao đẹp đó lại đốn ngã Hải Thanh trong một
nghịch duyên đau xót.
Hải Thanh không ôn lại kỷ
niệm xưa mà chỉ ưu tư vấn đề xảy ra trước mắt. Hải Thanh nhớ đến
Thùy Linh, cô gái đã có mang với mình. Cô ấy rất đẹp và là một tiểu
thư con của quan huyện. Với sự thông minh vốn có, lại thêm sự giúp đỡ
bày mưu của cô nữ tì, cô ấy đã tạo đủ điều kiện để lôi kéo Hải
Thanh ngã vào vòng tay mình. Từ những phút đầu Hải Thanh đã biết mình rơi
vào lưới tình, nếu không thức tỉnh quay lại ngay với thiền môn thì
khó bề giữ gìn được đạo hạnh của mình, nhưng bóng sắc lộng lẫy
kiêu sa của nàng đã không để cho Hải Thanh chùn bước mà còn kéo thầy
lậm sâu thêm vào cơn men ái dục. Bây giờ chuyện đã lỡ rồi, không cưỡng
lại được nữa. Hải Thanh muốn rủ Thùy Linh cùng bỏ huyện này trốn
đi với mình qua xứ khác sinh sống và cũng để tránh tiếng cho cả đôi
bên, nhưng Thùy Linh không dám. Nàng đã ở lại để rồi không che dấu
được cái thai càng lúc càng lớn. Nàng đã bị cha đánh đập, mắng chửi
dữ dội. Hải Thanh nghe nữ tì nói lại như vậy nhưng chẳng biết phải làm
sao. Nhiều lúc Hải Thanh muốn lẻn vào tư dinh quan huyện để cứu nàng ra
khỏi đó, nhưng lính gác canh phòng nghiêm mhặt, không cách gì vào được.
Dù đã từng xem thế sự như một giấc mộng hư huyễn, trước tình cảnh
đau xót mà Thùy Linh phải hứng chịu, Hải Thanh không khỏi nghe tan nát
trong lòng.
Đêm đó, hai huynh đệ ngồi
thức trắng bên bàn sách. Đến lúc mờ sáng, Hải Thanh mới rời phòng
sách vào phòng riêng, lấy khăn chít lấy đầu để che dấu cái đầu tròn
tu sĩ của mình, thay đổi y phục như một người thế tục rồi từ giã Hải
Chấn mà đi. Hải Chấn hỏi:
"Đệ đi đâu vậy?"
"Đến tư dinh quan huyện
để nói chuyện thẳng với cha cô ấy."
"Sao huynh thấy ái ngại
cho chuyến đi này của đệ quá. Thấy có gì không ổn. Đệ liệu có thể
thuyết phục được cha mẹ cô ấy không?"
Hải Thanh không đáp, chỉ
nhún vai rồi đi. Hải Chấn níu lại, dúi vào bọc vải của sư đệ một
túi tiền nhỏ:
"Đó là tiền riêng của
huynh, không phải của chùa đâu, đừng ngại. Đệ mang theo để có
gì..."
"Cám ơn huynh. Đệ đi
đây. Nếu có tin tốt đẹp, đệ sẽ cùng Thùy Linh ghé thăm huynh trước
khi rời xứ này."
Và Hải Thanh đi luôn,
không trở lại. Hải Chấn bồn chồn lo lắng suốt cả ngày và đêm hôm
đó. Sáng hôm sau, khi Hải Chấn ra vườn thì thấy xác Hải Thanh nằm ở
trước sân chùa, thân thể tím bầm vì bị đánh đập đến tắt thở. Hải
Chấn đến khiếu nại với quan huyện nhưng huyện đường đóng cửa,
lính gác xua thầy về. Thầy đành ngậm ngùi chôn xác sư đệ sau vườn chùa.
Nghĩ rằng có làm to chuyện lên thì sư đệ nhắm mắt cũng không được yên.
Hai tháng sau, Thùy Linh sinh
hạ một bé trai. Nửa đêm nàng lẻn trốn khỏi dinh, mang con ra chợ, ngồi
nơi sạp hàng mà ôn lại chuyện xưa khi nàng đi ngang đây và bắt gặp
nhà sư quét chợ lạ kỳ. Nàng ngồi giữa trời sương cho đến sáng thì
chết, tay vẫn còn ôm đứa bé sơ sinh đang khóc.
Quan huyện lâu nay cố che
dấu chuyện con gái mình nhưng nay, cái chết của Thùy Linh ngay giữa chợ
đã làm cho câu chuyện nhanh chóng truyền đi; ông bực dọc và căm giận đến
độ sai lính treo bảng thông báo rằng ông đã từ đứa con trắc nết phá
hoại gia phong, rằng ông không chịu trách nhiệm về cái chết của Thùy
Linh cũng như không chấp nhận đứa con của người quét chợ. Thông cáo của
ông có vẻ như ngầm phán rằng đứa bé phải chịu chết giữa chợ đời,
không ai được phép cứu nó. Vì uy quyền hống hách cũng như sự giận dữ
của quan huyện, không ai dám mang đứa bé sơ sinh về nuôi. Người ta gỡ
đứa bé khỏi vòng tay lạnh giá và cứng đờ của mẹ nó rồi đặt nó nằm
trong một chiếc nôi, để giữa chợ để chờ kẻ nào động lòng trắc
ẩn đến mang nó đi. Những người đàn bà bán hàng ngoài chợ đã chăm lo
sữa cho đứa bé suốt ngày đó, nhưng cũng không ai chịu nhận đứa bé về.
Còn xác Thùy Linh thì được quấn sơ sài bằng một cái chiếu, đặt ở gần
đó. Đến chiều tối thì chuyện đến tai Hải Chấn. Thầy liền tức tốc
ra chợ, ôm chiếc nôi nhỏ mang về chùa. Còn xác Thùy Linh, thầy bảo những
người Phật tử bán hàng ở chợ giúp đem về chùa chôn. Ấy vậy mà quan
huyện không dám động đến Hải Chấn vì cả nể đức hạnh và uy tín của
thầy. Đứa bé được yên thân sống và lớn lên trong cửa chùa.
*
Nước mắt ràn rụa trên
hai gò má bầu bĩnh, chú tiểu Thanh Thị quì xuống chân thầy:
"Tạ ơn thầy cứu sống
và nuôi dưỡng con."
Thầy đỡ chú dậy, nói
tiếp:
"Sư thúc của con có
ảnh thờ trong chùa mà thầy thường nhắc con rót trà dâng cúng chính là Hải
Thanh cha của con đó. Sư thúc với thầy tu học với nhau từ nhỏ nên
ngoài tình đạo bạn còn coi nhau như anh em ruột. Chuyện của sư thúc khiến
thầy đau lòng quá mà không biết giúp bằng cách nào. Nuôi dưỡng con chỉ
là một chuyện nhỏ để biểu lộ sự mến tiếc của thầy đối với sư
thúc thôi. Huống chi, làm sao thầy có thể bỏ mặc một đứa trẻ kêu
khóc không người đoái hoài..."
Chú tiểu Thanh Thị bây giờ
đã hiểu vì sao chú có cái tên lạ kỳ đó: Thanh là tên của cha chú còn
Thị chính là chợ, là nơi ghi lại kỷ niệm chua xót đầu đời của cha
chú, mẹ chú, và cả chú nữa.
"Vậy quan huyện hiện
nay chính là ông ngoại của con hở, bạch thầy?"
"Không. Ông và phu
nhân đều đã qua đời. Quan huyện hiện nay là người mới được bổ nhậm
đến."
"Vậy những người
ở ngoài chợ... đều biết chuyện của con hở thầy?"
"Mười sáu năm rồi,
nhiều người đã dọn đi xứ khác, nhiều người đã chết, chỉ còn lại
rất ít người là biết chuyện của con, nhưng chắc họ cũng quên khuấy
đi rồi. Mà sao con hỏi vậy? Con không muốn người ta biết rằng con đã
xuất thân từ đâu, phải vậy không?"
"Bạch thầy không phải,
không phải."
"Như vậy thì tốt.
Nhân cách không nằm ở chỗ xuất thân từ đâu mà từ chính giá trị thực
có của mình."
"Dạ, con biết,"
chú cúi mặt nói nhỏ.
Theo như lời thầy kể, rồi
nhìn hai ngôi mộ song song trước mặt, đọc những chữ Hán viết trên mộ
bia, chú thấy rõ đó chính là song thân của mình. Chú quỳ xuống nhìn thật
lâu nơi hai mộ bia, lặng người một lúc lâu, chú bật khóc thảm thiết.
Vậy đó mà chú vẫn
không sao tẩy xóa được nỗi mặc cảm đè nặng trong tâm khảm mình: rằng
chú là một đứa trẻ vô thừa nhận, được sinh ra bởi một người cha
tu sĩ phá giới, một người mẹ khuê các phá gia phong; rằng chú bị bỏ rơi
giữa chợ đời như một tội nhân tử hình ngay từ lúc sơ sinh. Bao nhiêu
ý nghĩ đó ám ảnh chú suốt mấy ngày kế tiếp sau khi nghe thầy kể rõ sự
tình. Thầy theo dõi từng biến động tâm tư hiện trên mặt chú, bèn gọi
chú hỏi chuyện:
"Con sẽ mang buồn cho
đến bao giờ? Có sinh tức có diệt, sao phải ôm mãi nỗi đau khổ biệt
ly như thế!"
Chú lặng thinh không đáp
lời thầy. Thầy biểu lộ tình cảm, lấy tay xoa đầu chú:
"Thương cha mẹ, con rán
tu học để cha mẹ vui lòng. Cha con là một tu sĩ thông minh, có tuệ căn, làu
thông kinh điển. Chỉ một phút yếu lòng mà đánh mất sự nghiệp cao cả.
Con có thương cha thì nối tiếp sự nghiệp đó mới phải, sao cứ ôm lòng
buồn rầu mãi. Con đến rót trà dâng ba đi, rồi lên tụng kinh."
Chú cúi mặt bặm môi một
chặp, bỗng ngước lên nói:
"Chỉ có thầy mới xứng
đáng là cha con thôi. Ông ấy không phải là cha con!"
Nói rồi chú vụt đứng dậy,
bỏ đi vào phòng riêng, đóng cửa lại. Thầy sững sờ ngồi nhìn theo, lắc
đầu buồn bã. Chú bỏ tụng kinh chiều hôm đó. Thầy lặng lẽ đắp y
áo, thắp hương, rót trà cho sư đệ Hải Thanh rồi thầy tụng kinh thay chú.
Suốt mấy ngày, chú vẫn
không ra khỏi phòng. Thầy đến gõ cửa, gọi mãi mà không được. Mọi việc
trong chùa thầy làm thay chú hết. Chú không ra khỏi phòng nên cũng nhịn
ăn luôn cả mấy ngày. Hai thầy trò sống bên nhau mười sáu năm rồi,
chưa lần nào vào bữa ăn mà thiếu thầy hay thiếu trò. Cho nên, khi chú nhịn,
thầy cũng nhịn theo, không buồn ăn nữa, chia xẻ với chú nỗi đau khổ nặng
nề của chú. Đến ngày thứ tư, chú mới mở cửa bước ra, phờ phạc, bệnh
hoạn. Chú đến quỳ dưới chân thầy và khóc nức nở. Thầy chỉ lấy
tay xoa đầu chú.
Hai thầy trò bỗng dưng mà
sống một cuộc sống lặng câm, buồn tẻ. Thầy để chú tự do trong những
suy tưởng riêng tư của chú chứ không gợi chuyện gì với chú cả. Không
khí trong chùa vì vậy mà nặng nề. Cho đến một ngày nọ, sau khi cùng
làm lễ sám hối với thầy xong, chú mới cất được gánh nặng trong
lòng. Chú thưa với thầy:
"Con đã sai lầm. Con
không thể phủ nhận công ơn sanh thành của cha mẹ."
"Tốt, con biết vậy
là tốt. Mẹ con vì sinh mạng của con, vì muốn lưu giữ giọt máu và hình
bóng của cha con mà nhẫn nhục sống giữa bao lời xỉ vả, bao trận đánh
đập của gia đình để chờ ngày sinh ra con. Mẹ con tuy phá gia phong nhưng,
theo thầy, bà là người tinh mắt, thông minh, một phụ nữ đức hạnh biết
vượt lên cái hình thức bề ngoài để nhìn thấy được giá trị tinh thần
nơi cha con. Còn cha con, tuy phạm cấm giới, nhưng biết ăn năn, biết trách
nhiệm, đã can đảm bước vào tư dinh của ông ngoại con với ước mong là
cứu được hai mẹ con ra ngoài... và cha con đã chết vì dám đứng ra đối
đầu với nguy hiểm. Với truyền thống, với tập tục, cả hai đều bị
lên án. Nhưng họ đã chết một cách cao cả, ít nhất là đối với sinh mạng
của con, phải không? ở một khía cạnh nào đó, một hoàn cảnh đặc biệt
nào đó, con sẽ thấy rằng cái mà người ta gọi là truyền thống, tập tục,
gia phong, lễ giáo v.v... thật ra chẳng là gì cả. Rỗng tuếch! Chỉ có những
tấm chân tình mới thực sự là có ý nghĩa mà thôi."
"Dạ, con hiểu,"
chú nói trong giọng xúc động và tri ân thầy đã chỉ giáo.
Chú không dám coi thường
cha mẹ mình nữa. Chú thăm mộ cha mẹ hàng ngày, chú rót trà dâng cha mẹ
vào mỗi thời kinh. Sư thúc và dì Linh, chú không còn gọi hai tên đó nữa
mà gọi bằng cha mẹ. Chú cảm thấy có cái gì ngọt ngào và khiến chú
ấm lòng khi gọi lên hai tiếng cha mẹ đó. Tuy nhiên, trên thực tế, chú
chỉ vui sướng sống trong tình cảm và vòng tay vô hình vô ảnh của cha mẹ;
còn đối với những mặc cảm về thân phận mình, chú vẫn không sao tẩy
xóa đi một cách thoải mái được. Đến nỗi khi đi ra đường với thầy,
chú có cảm giác như mọi người đang nhìn mình, xầm xì, chỉ trỏ, bàn
tán về "người quét chợ". Từ đó, chú hết muốn ra khỏi chùa.
Và đôi lúc, chú muốn cải đổi cái tên Thanh Thị mà chú mang. Chú thấy
cái tên đó chỉ nhắc nhở chú về thân phận buồn tủi của chú mà
thôi.
Vì thương chú, và vì chưa
biết cách nào giải tỏa mặc cảm của chú một cách hữu hiệu, thầy cũng
chiều lòng chú, không sai chú ra ngoài nhiều và cũng tránh cho chú những dịp
phải ra trước đám đông.
Trải qua bốn năm, với tuổi
đời thêm lớn, với sự học hỏi giáo lý, với sự tu tập thiền định,
và với sự tiếp thọ đại giới để trở thành một vị tỳ kheo, chú dần
dần thấy vơi đi những tình cảm lưu luyến xót xa cho chuyện tình thương
tâm của cha mẹ. Nhưng cái mặc cảm sợ người khác biết rõ thân phận
mình vẫn cứ đeo bám mãi trong lòng chú, không sao gột bỏ. Thầy biết vậy,
cố gắng tháo gỡ cái mặc cảm đó cho chú lần nữa bằng một cuộc nói
chuyện sau thời tụng kinh khuya:
"Thanh Thị, con đã trở
thành một vị đại đức, một vị lãnh đạo tinh thần xứng đáng cho đồ
chúng noi gương tu tập. Vậy mà thầy thấy con như vẫn còn ôm ấp cái mặc
cảm rằng mình thấp hèn, phải vậy không? Con nói đi, cái gì khiến con
nghĩ như thế? Con có biết rằng chỉ một cái phiền não nhỏ nhặt còn
sót lại trong tâm cũng đủ ngăn trở con tiến đến giải thoát hay
không?"
Thanh Thị không nói không
rằng, lặng lẽ bỏ vào phòng. Thầy đến gõ cửa, đứng ngoài cửa nói vọng
vào:
"Hãy nhìn kỹ những
gì thầy làm. Nếu việc thầy làm khiến con thấy thầy không xứng đáng
là thầy con nữa thì con hãy rời thầy mà đi tìm một minh sư khác để
tham vấn. Con không thay đổi thì suốt một đời ở bên thầy cũng chỉ vô
ích mà thôi. Làm sao thấy được vòm trời giải thoát chứ!"
Nói rồi thầy bỏ đi.
Thanh Thị thấy không khí im quá, biết là thầy không còn đứng ngoài cửa
phòng mình. Thanh Thị thắc mắc không hiểu thầy đi đâu và làm gì. Chú bước
ra, tìm thầy. Thầy không có trong chùa. Thầy đã đi ra ngoài. Chú bước ra
cổng chùa nhìn hai bên thì thấy thầy đang cầm chổi quét ở xa xa. Thầy
quét về hướng chợ. Chú bặm môi, rồi cắn răng chạy vào phòng mình,
ôm mặt khóc như một đứa trẻ. Thầy đã quét chợ như cha chú đã làm
trước đây. Thầy muốn chứng minh cho chú thấy rằng việc quét chợ
không có gì xấu mà còn là một hạnh nguyện cao cả chỉ có cha chú mới
làm nổi. Nhưng, sự cố gắng của thầy không mang lại kết quả gì. Chú
vẫn không sao chấp nhận được hành vi quét chợ cho dù thầy có khoác
lên đó bao nhiêu ý nghĩa cao đẹp.
Khi thầy quét chợ về, cất
chổi dưới bếp, chú đón lạy thầy ngay ở thềm bếp, năn nỉ:
"Lạy thầy, xin thầy
đừng vì con mà phải nhọc đến thân tâm như thế. Xin thầy đừng làm vậy
nữa, con không chịu nổi."
Thầy không nói. Ngày mai
thầy lại tiếp tục quét chợ. Chú lại lạy lục xin thầy chấm dứt. Thầy
kiên quyết:
"Ta chỉ ngưng khi nào
con thực sự đốt cháy được cái mặc cảm và ý nghĩ cho rằng quét chợ
là việc xấu. Con không thay đổi, con sẽ không giải thoát, sẽ không tìm
thấy an lạc cho dù con đang khoác mặc tăng bào. Và nếu con không thay đổi,
ta sẽ quét chợ cho đến khi nào ta nhắm mắt mới thôi."
Thầy tiếp tục quét.
Thanh Thị vẫn không thay đổi mà còn đau khổ hơn. Đến nỗi, chú bỏ thầy
mà đi, chỉ ghi lại vài dòng vắn tắt rằng chú muốn đi tham học ở
phương xa.
Chú đi xa thật xa khỏi
nơi chốn sinh ra và trưởng thành của mình để xóa đi bao hình ảnh, bao
ý nghĩ đau buồn về thân phận mình. Chú tìm tới nhiều vị thầy để học
hỏi, nhưng không vị thầy nào đả thông được những mặc cảm của chú.
Một hôm, nghe đến danh tiếng của một vị thiền sư tên là Đại Ngốc,
chú tức tốc tìm đến vị này để học đạo vì chú hy vọng rằng ông
ta cũng mang một cái tên không được tao nhã như chính chú, có thể ông ta
sẽ có thuốc hay để chữa cho căn bệnh mặc cảm của chú. Chú nghĩ có lẽ
đằng sau cái tên của vị Thiền sư này cũng mang một quá khứ nếu không
đau xót như chú thì cũng cay chua buồn cười chứ chẳng không.
Thiền sư Đại Ngốc ẩn
cư trong một am tranh trên núi cao. Khi lên tới nơi, chú thấy một cái bảng
nhỏ treo trên một thân cây: "Đại Ngốc Am". Chú bước vào đảnh
lễ thiền sư, hỏi ngay:
"Bạch thầy, làm sao
có thể gột bỏ được một danh từ chỉ đem lại cho mình những buồn
phiền, khổ đau?"
"Nó chỉ là một tên
gọi giả tạo thì cần gì phải gột bỏ!"
"Nhưng... rõ ràng là
nó đeo bám và gợi lên bao điều đau xót cho con từ nhiều năm nay."
"Đeo bám chỗ nào? Gợi
lên cái gì? Ở đâu? Nói ta nghe!"
Thanh Thị hốt nhiên giác
ngộ lẽ sinh diệt huyễn hóa của muôn sự muôn vật, liền sụp lạy thiền
sư mà về. Chú đi ngày đêm không dừng nghỉ, những mong về quỳ dưới
chân thầy mà sám hối.
*
Từ hai năm rồi, khi Thanh
Thị bỏ chùa mà đi, thầy cứ mang chổi ra quét sân chùa rồi quét luôn tới
chợ. Ban đầu thầy quét chỉ để thức tỉnh Thanh Thị, nhưng khi quét, thầy
cảm nhận được nhiều ý nghĩa cũng như công dụng tu tập ngay trong chính
sự việc quét chợ đó. Thầy tập trung tâm mình vào từng động tác
quét, lắng nghe tiếng chổi khua nhẹ trên đất, nhìn ngọn chổi vờn trên
cỏ rác... không phút giây nào mà không lắng lòng vào việc quét. Đến độ,
thầy với cây chổi chỉ là một. Vì vậy, âm thanh náo loạn của chợ
búa không ảnh hưởng, không tổn hại gì đến tự tâm thanh tịnh của thầy.
Chính trong loạn động thầy tìm thấy sự tịch lặng. Và thầy có thể an
lạc trong chính việc quét chợ tầm thường hàng ngày. Trong khi đó, hình
bóng của thầy, việc quét dọn của thầy giữa chợ đời cũng làm cho khu
chợ sạch sẽ hơn, bớt huyên náo xô bồ, và người ta cũng bớt cạnh
tranh cãi vả nhau. Mỗi lúc thấy thầy quét đến chợ, người ta bỗng
dưng giảm chuyện nói năng, có nói thì nói nhỏ giọng xuống. Đức độ của
thầy làm thay đổi không khí chợ một cách rõ rệt.
Hôm nay thầy đang quét đến
giữa chợ, bỗng có người nắm lấy cây chổi của thầy, nói với giọng
cung kính:
"Bạch thầy, thầy
hãy về nghỉ ngơi để con quét thay thầy."
Thầy ngưng tay ngước nhìn
và thấy Thanh Thị. Khuôn mặt của chú ấy không còn dấu vết của mặc cảm,
khổ đau và phiền não. Thầy mỉm cười trao chổi cho chú quét, và thầy bước
theo chú, từng bước chậm.
Từ đó, cứ mỗi sáng, người
ta thấy hai thầy trò tu sĩ cùng quét đường, quét chợ. Bóng dáng họ xuất
hiện nơi đâu, sự an lạc lan tỏa ra đến đó.
Hai năm sau, thầy viên tịch.
Trước khi từ giã cuộc đời, thầy gọi Thanh Thị đến bên thiền sàng,
trao cho Thanh Thị cây chổi mà thầy thường dùng để quét chợ hàng ngày:
"Đời thầy mấy
mươi năm học đạo không ngờ đến tuổi xế chiều mới tìm thấy được
đạo lớn từ cây chổi tầm thường này. Đây là tất cả công phu và ý
chỉ của thầy. Con hãy giữ lấy mà đi cho trọn con đường của con."
Nói rồi thầy hóa. Thanh
Thị cất cây chổi đó trong phòng riêng của mình như một kỷ vật ghi lại
hình ảnh cao đẹp của cha, của mẹ, và nhất là của thầy mình.
Sáng hôm sau, Thanh Thị vẫn
cứ quét chợ. Người ở chợ thấy Thanh Thị quét một mình thì biết rằng
thầy Hải Chấn đức độ khả kính của họ đã mất.
Thanh Thị quét chợ cho đến
tuổi già. Mấy mươi năm không hề xao lãng. Bây giờ Thanh Thị đã trở
thành một vị hòa thượng đạo đức thanh cao, nổi tiếng với cây chổi
và hạnh nguyện quét chợ. Hải Thanh quét chợ sáu năm. Hải Chấn quét chợ
bốn năm. Riêng Thanh Thị thì quét chợ đến sáu mươi năm. Bao khuôn mặt
mới có cũ có, thay nhau ngồi bán hoặc đi mua sắm ở khu chợ, không ai mà
không biết đến Thanh Thị quét chợ. Hình ảnh Thanh Thị đã trở nên quen
thuộc và gắn liền với khu chợ khiến cho mọi người nẩy ý lấy tên vị
hòa thượng này để đặt cho khu chợ: chợ Thanh Thị—một cái chợ sạch.
Ngày Thanh Thị ngưng quét thì tuổi đã tám mươi tư. Ngày ấy, bầu trời
u ám. Ngoài khu chợ, cỏ rác đầy mà chẳng thấy tăm dạng Thanh Thị đâu.
Chợt nghe chuông chùa vẳng lại ba hồi buồn bã. Mọi người ở khu chợ bỗng
sa lệ vì biết rằng vị hòa thượng già mang tên Thanh Thị sẽ không bao
giờ cầm chổi ra quét chợ này nữa. Cả người bán lẫn khách mua đều sụt
sùi khóc. ª
- 8/92
http://www.buddhismtoday.com/viet/truyen/nguoiquetcho.htm