- Sân
ngoài còn lá
Có một chú tiểu đâu chừng
mười ba tuổi thôi, mà đã bỏ chùa của thầy tổ lên tĩnh tu trên một
ngọn núi cao, cao đến nỗi không ai nhọc công lên đến chỗ chú ở.
Chú tu trên núi đã được
bốn năm. Nay chú đã trở thành một chàng thanh niên tu sĩ cao lớn, mạnh
khỏe. Lâu lâu chú xuống núi một lần để về nhà thăm mẹ và đứa em
trai trong làng. Mỗi lần chú xuống núi, trong làng ai thấy chú cũng xì xầm
những lời khen ngợi hoặc xuýt xoa như tiếc rằng chú đi tu là làm uổng
phí mất một thanh niên đẹp trai của làng xã.
Chỗ chú ở là một hang
đá lẩn khuất đâu đó gần đỉnh núi. Cây cối to lớn, cỏ gai rậm rịt,
bít hết mọi chỗ trống, chẳng thấy đâu là con đường đi lên. Những
hiểm trở, gai góc, vách đá cheo leo của ngọn núi như là một thái độ rõ
rệt của chú đối với tục lụy. Chưa hết, từ ngọn núi mà chú ẩn dật
đi đến một làng gần nhất cũng phải đi băng qua một cánh rừng hoang
mà nơi đó chỉ có đời sống của muông thú chứ không có bóng dáng của
loài người. Qua khỏi cánh rừng hoang đó, phải đi bộ khoảng nửa ngày
đường nữa mới đến được những bụi tre làm ranh giới của một ngôi
làng, mà trong làng này, có căn nhà nhỏ của bà mẹ già của chú.
Thường thường, chú xuống
núi thăm mẹ vào dịp tết trung nguyên rằm tháng bảy, nhằm vào ngày lễ
Vu Lan. Chú đi xuất gia không phụng dưỡng mẹ già được nên mỗi năm cứ
vào dịp lễ Vu Lan—mà người ta quen gọi là Mùa Báo Hiếu—thì xuống
núi để thăm mẹ đồng thời giảng thuyết đạo lý của Phật cho mẹ
nghe.
Năm nay, còn nửa tháng nữa
mới đến rằm tháng bảy nhưng chú linh tính có chuyện bất tường, bèn
khăn gói lên đường xuống núi sớm hơn mọi năm. Chú phải mất một
ngày để xuống khỏi núi và hai ngày để ra khỏi rừng, sau đó là nửa
ngày để đến làng của mẹ già. Vừa đến đầu làng, đã có mấy người
láng giềng hối hả chạy đến chỗ chú, vừa vái chào vừa thưa với giọng
ái ngại:
"Thưa chú... thưa chú...
có chuyện chẳng lành..."
Chú hỏi mau:
"Chuyện gì vậy?"
"Dạ... cậu Tú em chú
bị... rắn độc cắn chết. Mẹ chú đau khổ quá, bỏ ăn bỏ uống, chẳng
ai dỗ dành gì được. May có chú về..."
"Em tôi mất bao lâu rồi?"
"Thưa cũng ba tuần rồi.
Mẹ chú ngồi thẫn thờ suốt ngày này qua ngày kia..."
Chú lặng người đi một
lúc, không nói gì. Rồi vội vàng về nhà tìm mẹ.
Bà mẹ đang ngồi lặng câm
bên thềm cửa, nhìn xa xăm. Thấy chú, đứa con trai yêu dấu của mình trở
về, mắt bà sáng hẳn lên, nở một nụ cười, đứng dậy. Chú bước vội
đến bên mẹ. Hai mẹ con ôm nhau. Bà mẹ khóc òa lên, chẳng nói được lời
nào. Chú thì ôm mẹ một cách ngượng ngập tuy nhiên nỗi thương cảm của
chú lại dâng trào mãnh liệt. Chú thấy thương, thấy tội nghiệp cho mẹ
quá. Chú không ngờ chú đã bỏ mẹ đi tu bảy năm rồi, mà giờ đây, trước
tình huống này, bao nhiêu tình cảm thế tục lại quay về dào dạt như thể
chú vẫn cứ là một đứa con lâu nay khắng khít chưa rời mẹ nửa bước.
Một sơn tăng ẩn cư trên núi cao, quyết chí đạt đạo thì không có những
xung động tình cảm ủy mị như vậy. Lâu nay chú tưởng rằng lòng mình
đã nguội lạnh với tình trần, ngay cả tình huynh đệ, phụ tử, hay mẫu
tử. Nay, trước cái chết thảm thương của đứa em trai và nỗi sầu thảm
đơn chiếc của người mẹ già, chú nhận thức thật rõ rằng bảy năm xuất
gia học đạo của mình vẫn chưa đạt được kết quả gì đáng kể. Kẻ
ôm chí xuất trần trước tiên phải ý thức tính cách vô thường, mong
manh, giả tạo của thế gian. Nhờ ý thức đó mà vượt thoát cái đau khổ
thường tình của biệt ly chia cách. Nhờ ý thức đó mà vươn lên khỏi cuộc
đời. Nhưng hôm nay, đứng bên người mẹ già đau khổ, chú thấy mình
chìm lỉm trong nỗi thống khổ vô vàn của thế nhân. Chú đứng im, ôm mẹ,
không nói gì. Bà mẹ thì chỉ khóc nức nở. Lâu lâu bà lại gào lên, gọi
tên đứa con trai đã chết. Giọng bà nghe thật bi thảm khiến chú không khỏi
bùi ngùi, quặn đau trong lòng.
"Nín đi mẹ, con đưa
mẹ vào trong nhé!"
Rồi chú dìu bà mẹ vào
nhà. Ngồi trên chiếc chõng tre, bà mẹ vẫn cứ sụt sùi khóc. Chú ngồi kế
bên bà, chẳng biết nói gì. Lâu nay, cứ mỗi lần về thăm mẹ, chú có thể
giảng cho bà nghe đạo lý vô thường, nhân quả, v.v... nhưng bây giờ chú
chẳng biết nói gì. Chú không hiểu sao mình lại có thể thụ động, cứng
nhắc và vô dụng trong những trường hợp đặc biệt mà sự khổ đau được
biểu lộ rõ rệt như vầy. Không phải chú đã từng quán sát về khổ
đau, quán sát về tính hư huyễn, tạm bợ của thế gian đó sao! Công phu
thiền quán lâu nay, coi như không kết quả gì trước thực tế đau thương
đang diễn ra trước mắt.
Rồi cũng từ đau thương
này, chú biết mình đang đứng trước một hoàn cảnh mới, hoàn cảnh khó
xử cho một người đã từ bỏ gia đình xuất gia. Trước kia, người em
trai của chú hãy còn, chú có thể yên tâm rời nhà xuất gia, tìm nơi ẩn
tu để đạt đạo giải thoát. Nay đứa em đã mất, chú không thể để mẹ
mình phải sống đơn côi quạnh quẽ trong tuổi già, không người phụng
dưỡng dâng cơm dâng nước. Huống chi, từ ngày chồng mất, mẹ chú tuy
không nói ra nhưng hẳn nhiên là trong lòng cũng mong đợi hai anh em sẽ làm
tròn chức năng của những đứa con trai, không để cho dòng họ phải tuyệt
tự. Nghĩ đến đó, chú không khỏi rùng mình và đau xót cho chí nguyện xuất
gia của mình. Chú không ngờ cuối cùng rồi chú cũng phải đương đầu với
nghịch cảnh ghê rợn nhất đối với một người xuất gia: lập gia đình.
Rõ ràng như vậy. Chú phải lập gia đình để có con nối dõi tông đường.
Không bao lâu đâu, mẹ chú sẽ mở lời yêu cầu về chuyện đó. ở làng
này, và ở trong tộc họ nhà chú, chuyện nối dõi tông đường là một bổn
phận thiêng liêng mà không người trai nào có thể và có quyền từ chối,
trừ phi kẻ ấy xuất gia. Nhưng nếu là đứa con trai độc nhất trong gia
đình thì chuyện xuất gia hầu như không bao giờ được chấp nhận như là
một chọn lựa hợp lý. Trong làng, người ta rất quí mến những người
xuất gia; nhưng quan niệm về sự nối dõi vẫn mạnh mẽ, thâm căn, lâu đời
hơn, khiến người làng không thể chấp nhận một đứa con trai làm ngơ
trước sự tuyệt tự của một gia tộc. Mọi người đều có thể chọn lựa
một cách nhanh chóng thay cho chú, rằng chú phải trở về phụng dưỡng mẹ
già và lập gia đình, có con cái để giữ giống. Nhưng chú, dù gì đi nữa,
cũng đã xuất gia một thời gian, chú thấy khó xử. Chú đau lòng nếu phải
từ bỏ cuộc sống ẩn tu để trở về với thế tục, và nhất là phải
cưới vợ. ở tuổi của chú, trai trong làng đã có vợ có con cả rồi.
Còn chú, đi tu đã lâu, cho dù đến tuổi trưởng thành, cơ thể nẩy nở,
sinh lý phát triển tự nhiên, chú cũng không và hầu như chưa hề có ý niệm
gì về chuyện yêu thương ai nói chi chuyện cưới vợ. Mỗi khi vào làng,
chú cứ theo luật chùa dạy, nhìn dưới đất ngay trước mặt, cách mình
ba bước, cứ vậy mà đi thẳng, không liếc ngó hai bên. Cho nên, có vào
làng chú cũng chẳng bắt gặp ai. Giới luật bảo vệ chú, tránh cho chú những
rung động về ái và dục. Giờ này đây, chú biết là chú sắp mở cái
rào cản giới luật ra để chạm trán, đối diện với cuộc đời tục lụy.
Chú không biết rõ lắm là khi cưới vợ chú sẽ làm gì để mà có con nối
dõi. Chú chỉ hiểu rất đại khái rằng khi người nam người nữ (không
phải là anh chị em ruột của nhau) mà sống chung với nhau thì... một ngày
nào đó, người nữ tức là cái người mà người ta gọi là vợ, sẽ mang
thai và cuối cùng đẻ ra con. Thực là chán ngán. Chú thầm nghĩ như vậy.
Khó lòng mà chấp nhận một cuộc sống chung với một người khác phái để
rồi có con cái nheo nhóc, đủ thứ rối rắm của cuộc đời. Hình ảnh những
cặp vợ chồng già, trẻ ở trong làng không hề gây chút hứng cảm gì nơi
chú. Đôi lúc nhìn thấy họ, chú chỉ thấy tội nghiệp dùm.
Mấy năm đầu mới xuất
gia, chưa lên núi ẩn tu, chú được thầy dạy cho rằng muốn đạt đạo
giải thoát thì điều tiên quyết là phải xa lìa ái dục. Chú khát khao giải
thoát đến độ một đêm nọ, chú quyết định lạy thầy mà xin lên núi
ẩn tu. Thầy ngăn cản, nói rằng chú chưa được chín chắn và chưa đủ
bản lãnh để sống cuộc sống độc cư. Nhưng chú vẫn không nghe lời thầy,
lặng lẽ bỏ đi. Năm đó chú mới mười ba tuổi, còn bé xíu mà đã dám
một mình độc cư trên núi. Mấy năm trên núi, trồng rau hái quả, đêm
ngày ngồi thiền, tụng kinh, chú nào biết ái dục là cái gì. Từ ngoại cảnh
cho đến nội tâm, chẳng có gì quấy nhiễu chú cả. Chú nghĩ vậy là đã
giải thoát rồi còn gì! Vậy đó, mà nay đứng trước gia cảnh bi thương,
chú mới ý thức được rằng giải thoát không phải chỉ đơn giản như là
chú từng quan niệm. Không phải chỉ bỏ mặc thế gian ngoài tai là đã giải
thoát.
Chú nhìn mẹ, thấy mắt
bà đã ráo lệ nhưng nỗi đau khổ vẫn cứ còn hiện rõ trên khuôn mặt
nhăn nheo và xạm nắng. Chú thương mẹ lắm. Chưa bao giờ chú thấy thương
mẹ như lúc này. Chú biết chú nên ở lại bên bà để phụng dưỡng, không
thể bỏ đi được nữa. Việc này, chú dễ dàng chấp nhận cho dù từ bỏ
cuộc sống xuất gia là một điều thật đau xót đối với chú. Tuy nhiên,
nếu về nhà phụng dưỡng mẹ rồi lại lo cưới vợ để nối dõi tông
đường thì chú thấy tâm lý mình chưa thích nghi để đồng ý một cách
thoải mái được. Nối dõi tông đường, theo chú nghĩ, chỉ là hành động
kéo dài cái giây oan nghiệt sầu não của cuộc đời ra mà thôi. Nhưng bây
giờ, chú đang được khuyến khích, được yêu cầu đi vào con đường đó.
Chú có cảm giác mình như một con bò bị kéo vào lò sát sinh. Cuộc đời,
với những phiền toái của nhân tình thế thái, với những tham muốn, những
sân hận, si mê v.v... là một cái gì rất kinh khiếp đối với chú thì giờ
này chú buộc lòng phải bước vào đó!
Chú đi quanh trong nhà mấy
vòng để suy nghiệm về hoàn cảnh của mình, rồi chú lại đến ngồi bên
mẹ. Người mẹ im lặng không nói gì. Bà cũng đã hết thút thít than vản.
Bà quay nhìn chú một thoáng rồi cúi mặt nhìn xuống đất. Có lẽ bà
đang do dự là có nên mở lời yêu cầu con mình, một tu sĩ, trở về sống
bên mình không. Bà thấy khó lòng để nói ra cái điều mong mỏi đó, dù rằng
đó là nhu cầu tự nhiên. Bà đã quen nhìn con như một tu sĩ rồi, giờ này
kêu gọi người tu sĩ đó hãy làm tròn bổn phận làm con, bà thấy thật
khó xử. Bà cứ ngồi đó, im lặng.
Chú cũng ngồi im, chưa biết
nói gì. Một chặp lâu, chú mới yêu cầu mẹ đưa đi ra thăm mộ đứa em.
Người mẹ vội vàng đứng dậy dẫn chú đi ngay. Bà có vẻ như tin rằng
đứa con tu sĩ của mình sẽ tự nguyện quay về khi chính anh ta đòi đi
thăm mộ em trai. Trước nấm mồ của đứa em trai đã chết hẳn, không thể
nào anh ta quên được rằng mẹ anh bây giờ chỉ còn có một mình.
Bước ra khỏi nhà, hai mẹ
con thấy gần như cả xóm tụ họp lại trước nhà mình. Ai cũng trố mắt
nhìn chú, như thể họ đang chờ cái kết quả, cái quyết định quan trọng
từ nơi chú vậy. Hình như ai trong làng cũng đoán biết rằng cái chết của
em trai chú sẽ làm thay đổi cuộc đời tu hành của chú. Mẹ chú chào mọi
người. Chú chỉ cúi đầu, không nói gì, lẳng lặng đi theo mẹ ra mộ địa.
Một vài người hiếu kỳ bước theo sau hai mẹ con.
Chú thắp hương cho đứa
em trai nhỏ hơn mình ba tuổi — thằng em ngoan ngoãn, thật thà, cần cù,
siêng năng mà trong xóm ai cũng mến. Nếu người em không chết thì có lẽ
chỉ trong vòng một hai năm nữa đã có thể làm cha rồi, có thể làm tròn
bổn phận nối dõi rồi, đâu có cần người anh tu sĩ này phải trở về!
Chú cắm nhang vào cái lọ nhỏ trước bia mộ của em thì bỗng dưng nước
mắt trào ra. Khuôn mặt hiền hậu của đứa em nhập nhòa trong làn nước
mắt của chú. Bà mẹ chú thì khỏi nói rồi, bà đã khóc ngay từ khi mới
bước đến cổng nghĩa trang, nhác thấy mộ con từ xa. Bây giờ thấy đứa
con tu sĩ chảy nước mắt, bà càng khóc nhiều hơn. Chú nuốt nghẹn, vội
vàng lau nước mắt, lúng túng che giấu, không muốn cho người khác biết.
Bà mẹ vừa khóc vừa than
oán:
"Con ơi là con... Con đành
bỏ mẹ ở lại một mình sao con!"
Nghe mẹ than mà như thầm
nhắc chú cái thực trạng hiu quạnh của bà, chú cúi xuống đỡ mẹ dậy,
nói liền để mẹ yên tâm:
"Thôi, nghiệp của em
con vậy cũng không tránh được. Mẹ đừng đau buồn nữa. Lo cầu nguyện
cho nó là được rồi. Không có nó thì còn có con. Con sẽ về với mẹ."
Bà mẹ ngước lên, lau nước
mắt. Bà đã nghe được những lời bà mong đợi. Những lời đó đối với
bà đáng ra là một lẽ tự nhiên thì bây giờ, như là đặc ân mà bà tưởng
là khó có thể được hưởng. Bà níu lấy cánh tay rắn chắc của thằng
con tu sĩ để đứng lên.
Chú dìu mẹ bước ra khỏi
nghĩa địa. Vài người hàng xóm lẽo đẽo theo sau, chẳng biết theo làm
gì, chú tự hỏi như vậy. Dọc đường về nhà, bà mẹ bỗng ngước lên
hỏi lại chú lần nữa cho chắc ăn:
"Con nói con sẽ về với
mẹ hở?"
"Dạ, con phải về chứ.
Mẹ chỉ còn một mình."
Bà mẹ cười vui trong lòng,
cho dù bà cũng vừa mất một đứa con trai cách đây không lâu. Điều mà
bà cần lo nghĩ tính toán lúc này đây là làm sao để thằng con trai duy nhất
còn lại của giòng họ chấp nhận sứ mệnh nối dõi tông đường (từ lúc
đứa con bị rắn cắn chết, bà như giật mình thấy rằng vấn đề nối
dõi của nhà chồng là điều cần kíp chứ không nên chậm trễ nữa). Chỉ
cần anh ta bằng lòng thôi, chứ chuyện kiếm vợ cho anh ta thì chẳng khó
khăn gì. Người con tu sĩ của bà vừa to cao, vừa đẹp trai, vừa có học,
vừa hiền đức, chỉ cần thay chiếc áo ca-sa thành thường phục là trở
thành thần tượng của gái trong làng cho mà xem. Thậm chí, ngay khi anh ta
còn là tu sĩ mà nhiều cô còn nhìn trộm liếc lén mỗi khi anh từ trên
núi về thăm nhà nữa kia. Bà nhớ tới Liên, cô gái mồ côi ở cạnh nhà,
cứ qua nhà hỏi thăm chừng nào chú về hoài. Con Hoa con bà Thuận cũng chẳng
vừa gì, có lúc nó đã nói với bà rằng "chú đi tu uổng quá bác
à!" Dĩ nhiên bà biết con bà đẹp trai, đẹp mà thánh thiện lắm, nhưng
vì anh ta tu, bà không dám nghĩ tầm bậy. Bây giờ, anh ta về rồi, anh ta tự
nguyện về, bà có quyền nghĩ. Phải nghĩ, phải tính cái chuyện lấy vợ
cho anh ta. Vừa đi bà vừa đo lường, cân nhắc giữa mấy đứa con gái
trong làng mà bà biết. Làm sao thì làm chứ chọn dâu tương lai bà phải kỹ
lưỡng. Nhất là Tuấn con bà, lâu nay đi tu chỉ biết tụng kinh niệm Phật,
ăn chay nằm đất, lại ẩn cư trên núi, nào có biết cái chuyện đời ra
sao. Nếu chẳng may cưới về cho anh ta người vợ dữ như chằn thì khổ
cho anh cả đời. Anh ta tu nên hiền và khờ khạo biết bao! Không cưới
được con vợ nhu mì, đức hạnh thì chắc chắn anh sẽ bị ăn hiếp. Bà
không an lòng chút nào. Thằng Tú em của anh ta cũng hiền khô như thầy tu,
nhưng dù sao cũng có va chạm với đời, cũng hiểu được đời chút chút.
Đằng này, Tuấn tuy là anh, lớn hơn thằng Tú ba tuổi, trông đạo mạo uy
nghi khi khoác áo tăng sĩ, nhưng khi thay đổi thường phục thì chỉ còn là
một cậu bé ngờ nghệch, vụng dại mà thôi.
Khi hai mẹ con vào nhà,
chú Tuấn đóng cửa lại thì nhìn thấy mấy người hàng xóm nãy giờ đi
theo hai mẹ con ra nghĩa trang, bây giờ cũng theo về đến nơi, đứng ở ngoài
nhìn vào, xầm xì. Trong số những người đó, có một thiếu nữ trạc tuổi
chú. Chỉ trong một thoáng nhìn thấy cô ta, chú như bắt gặp một cái gì
quen thuộc nhưng lại mông lung không hiểu nổi. Thiếu nữ thấy chú nhìn
ra thì e thẹn ngó lơ chỗ khác, miệng hơi mỉm cười. Chú thấy run lên,
hoảng sợ. Chú từng nghe thầy dạy rất nhiều về những cám dỗ mà một
tu sĩ cần phải tránh để tiến tu trong sự nghiệp giải thoát giác ngộ,
trong đó tiền tài và sắc đẹp đứng hàng đầu. Nhưng đối với vấn đề
tiền tài, những người xuất gia không mấy hãi sợ. Hoàn cảnh của họ
ở chùa, ở vùng quê hẻo lánh, ở rừng sâu hay núi cao, vấn đề tiền tài
không phải là đối tượng nguy hiểm. Nguy hiểm nhất cho mọi hoàn cảnh vẫn
là nữ sắc mà thôi. Chú vội đóng nhanh cánh cửa rồi cài then lại. Mặt
chú ửng đỏ lên rồi lại tái mét như một kẻ vừa được thoát hiểm.
Mẹ chú thấy vậy liền hỏi:
"Gì vậy? Gì mà... con
giật mình hoảng sợ vậy?"
"Đâu có gì đâu mẹ,"
chú đáp.
Bà mẹ bước đến cửa,
kéo tấm liếp nhỏ ở trên nhìn ra ngoài thì thấy những người hàng xóm
vừa tan hàng, chỉ có Liên ở nhà kế bên là còn tần ngần đứng lại
như chưa muốn về. Bà âm thầm ngắm nhìn cô gái mà bà vẫn thường gặp
hàng ngày. Bà thấy cô ấy đẹp lạ. Hình như chính lúc này bà mới nhận
ra được cái vẻ mặn mà duyên dáng của Liên. Quần áo đơn sơ xoàng xĩnh
của một cô gái quê nghèo không lấp nổi cái nét sắc sảo mà nghiêm
trang toát ra từ đôi mắt sáng và sóng mũi thanh cao của cô. Đôi môi hồng,
nhỏ, với môi dưới hơi trề ra như nũng nịu càng làm tăng thêm vẻ quyến
rũ của nàng. Bà gật gù hiểu ra được nguyên do vì sao con bà thất sắc.
Và bà thầm nghĩ: "Tại sao phải tìm kiếm ở đâu cho xa! Chính cô ta
là dâu tương lai của ta đây rồi."
Bà đóng nhẹ liếp cửa,
quay trở lại thì thấy con mình đang ngồi nơi bàn, có vẻ đăm chiêu nghĩ
ngợi chuyện gì quan trọng. Bà e dè hỏi:
"Con tính sao? Con nghĩ
là con có thể trở về đây sống với mẹ được không?"
Chú Tuấn ngước lên trả
lời ngay:
"Dạ được chứ mẹ,
đâu có gì trở ngại đâu. Dù gì thì con vẫn là con của mẹ mà."
Nghe vậy bà cảm động lắm.
Nhưng cái điều bà muốn hỏi, bà vẫn chưa biết làm sao để mở lời. Mà
không nói bây giờ thì chờ lúc nào nữa. Trước sau gì cũng phải cho con mình
biết hoặc ít nhất cũng có trước chút ý niệm gì về những gì mà bà
mong đợi nơi anh ta. Ngưng một lúc, bà nói:
"Tội nghiệp thằng
Tú, và cũng tội nghiệp cho con. Nếu nó không... thì con đâu phải bỏ tu
như vầy. Mẹ thấy trong lòng xót xa lắm vì không để cho con đi trọn con
đường của con. Nhưng mẹ biết làm sao hơn... Giòng họ nhà mình... chỉ
còn có con thôi..."
Bà nói vậy, không rõ
ràng lắm, nhưng chú Tuấn cũng nhận ra được ngay cái ý chính của bà.
Cái chuyện nối dõi tông đường. Chú thở dài rồi nói:
"Con biết, con biết
con phải gánh cái trách nhiệm mà nếu Tú còn sống nó phải gánh."
Bà mẹ lắng nghe, thích ý
lắm, nhưng cũng chưa dám chắc là con mình đã hiểu mình. Bà không biết
là đứa con tu sĩ khờ khạo của bà nghĩ gì về trách nhiệm của thằng
Tú. Trách nhiệm đó không phải chỉ là đi kiếm củi, mang củi ra chợ bán
để phụng dưỡng mẹ già mà chỗ chính yếu nhất của trách nhiệm làm
con (trai) ở làng này, ở trong giòng họ nhà này là sinh đẻ con cái kia.
Bà lại dợm lời nói tiếp:
"Thực ra chuyện sinh
nhai độ nhật không phải là điều khó khăn cho mẹ. Mẹ có thể bắt chước
cô Liên bên cạnh nhà nuôi tằm dệt lụa cũng sống được. Cái khó là...
cái mà mẹ không thể làm được, chỉ có con với thằng Tú làm được mà
thôi..."
"Dạ, con biết. Tụi
con là thanh niên trai tráng mà, khác với mẹ chứ!"
Bà gật gù rồi làm thinh,
suy nghĩ. Anh ta nói vậy là đã biết trách nhiệm thiêng liêng của anh ta chưa
nhỉ? Cái trách nhiệm đó đâu phải là chuyện mạnh khỏe, làm việc giỏi
dang của trai tráng! Bà kiên nhẫn gợi ý tiếp:
"Ý mẹ muốn nói
là... gia đình ta cần phải lấy lại sinh khí, làm đẹp mặt tổ tông nơi
chín suối..."
"Dạ, con biết. Mẹ muốn
nói đến chuyện nối dõi đó mà."
Bà mẹ sáng mắt lên. Bà
không ngờ đứa con tu sĩ của bà cũng tự biết được cái trách nhiệm thế
tục này chứ không cần bà phải giải thích, kêu gọi dông dài. Vậy mà
bà cứ tưởng anh ta khờ khạo không hay biết gì! Bây giờ anh đã tự nói
ra, khỏe cho bà biết bao. Bà sung sướng nắm lấy cánh tay con, nói với giọng
phấn khởi:
"ở làng mình, người
ta để tang cha mẹ ba năm mới tính đến chuyện cưới hỏi. Nhưng anh chị
em thì không cần phải để tang lâu. Hơn nữa, cái chuyện nối dõi đối với
gia đình này là vấn đề cần kíp. Cho nên..."
Chú nghe đến đó liền cắt
ngang:
"Thưa mẹ, con đã biết.
Nhưng con..."
"Khỏi lo. Mẹ lo hết.
Mẹ sẽ lo tới nơi tới chốn mọi chuyện. Chỉ cần con đồng ý là được
rồi, đừng có lo là không có."
"Không phải, ý con muốn
nói là con cần phải lên chùa lạy thầy và xin xả giới."
"Nghĩa là sao, mẹ
không hiểu?"
"Con đã thệ nguyện
giữ mười giới trọn đời. Nay không giữ nữa thì phải lên lạy thầy
xin xả giới, tức là xin bỏ lời thệ nguyện đó, khi nào cảm thấy có
thể giữ được thì xin giữ lại."
Bà mẹ tỏ vẻ ái ngại.
Bà sợ con bà đến chùa, gặp thầy, gặp bạn, thấy lại cảnh chùa rồi
đổi ý không chịu về nhà nữa.
"Không lên chùa xả giới
được không con?"
"Thực ra chuyện thệ
nguyện giữ giới thì cần có giới sư truyền trao, nhưng khi xả bỏ thì
chỉ cần đứng trước bàn thờ Phật mà xin xả cũng được rồi. Tuy nhiên,
con muốn nhân dịp này, trở về chùa để thăm thầy bạn luôn thể. Chỉ
hoàn cảnh đặc biệt lắm thì mới tự xả giới, còn bây giờ có chùa,
có thầy thì nên về chùa để xả giới."
"Có phải không xả giới
thì con sẽ có mặc cảm mang tội mỗi khi làm bất cứ điều gì không đúng
với giới luật, dù rằng con hoàn tục?"
"Dạ phải, thưa mẹ.
Chính vì vậy luật Phật mới đặt ra vấn đề xả giới."
"Vậy con nhất quyết
phải đi lên chùa?"
"Dạ, con cần phải
đi. Nhưng con e ngại là để mẹ ở nhà một mình."
Bà mẹ thở dài rồi nói:
"Nếu phải vậy thì mẹ
cũng không cản con làm gì. Có điều, mẹ muốn con hứa với mẹ."
"Mẹ à, mẹ sợ con
đi luôn sao? ở chùa thì quét lá đa, về nhà thì phụng dưỡng mẹ. Lúc
con ở chùa, con đã một lòng siêng năng tinh tấn tu học thì nay về nhà
con cũng đem cả lòng mình để làm tròn bổn phận đứa con. Làm sao con có
thể bỏ mẹ mà đi luôn được!"
"Không, không phải mẹ
bảo con hứa chuyện đó. Mà chỉ muốn con hứa với mẹ là dù thế nào
đi nữa, con cũng không để cho giòng họ nhà này phải bị tuyệt tự."
Chú Tuấn im lặng một
lúc. Chú đã biết không thể tránh cái chuyện đó được nhưng giờ này
nghe mẹ nói chú vẫn cứ nghe trong lòng như đau nhói và hãi sợ. Chú cúi mặt
xuống một lúc rồi ngẩng lên ngay:
"Con hứa với mẹ. Đó
là bổn phận mà con, đứa con trai duy nhất của giòng họ phải gánh lấy.
Xin mẹ yên tâm."
"Vậy thì tốt rồi.
Con có thể lên đường ngày mai. Mẹ ở nhà không sao đâu. Có cô Liên bên
cạnh nhà cũng thường qua lại giúp đỡ mẹ. Những ngày thằng Tú mới chết,
con chưa xuống núi, cô ấy chăm sóc mẹ đó."
"Vậy hả mẹ. Nếu
có người giúp đỡ, chăm sóc mẹ thì con đỡ lo."
"Cô ấy mồ côi cha mẹ,
ở sát bên cạnh nhà mình. Tánh tình cô ấy hiền dịu mà lại đảm đang
việc nhà nên mẹ thích cô ấy lắm. Để chiều nay mẹ gọi cô ấy qua chơi
giới thiệu cho con biết trước khi con lên đường."
"Thôi, khỏi cần mẹ
ạ."
"Đừng có sợ mà, trước
sau gì cô ấy và con cũng thành vợ thành chồng mà. Biết trước cũng là
hay hơn chứ."
"Cái gì? Mẹ đã chọn
cô ấy cho con rồi sao? Con đâu biết cô ấy là ai, mặt mũi thế nào đâu!"
"Bởi vậy mới nói
là để gọi cô ấy qua cho con biết mặt," bà vừa nói vừa cười sung
sướng như thể chuyện thành thân của con bà và Liên đã là chuyện ăn chắc
rồi vậy.
Mà bà tin như vậy cũng phải.
Liên có cảm tình với con bà ngay từ khi anh ta còn tu, nay biết anh ta hoàn
tục, cô ta hẳn là phải thích ý rồi. Ngoài ra, nàng còn cảm thấy vinh dự
khi được sánh duyên với chú rể là một người tu có đạo đức nổi
danh trong làng ai cũng biết. Bà mở lời thì nàng sẽ nhận lời ngay, làm
sao mà từ chối cho cam. Bà tính là trong vòng chiều hay tối nay bà sẽ gợi
ý trước với Liên. Sau khi con bà từ chùa về, sẽ tiến đến việc tổ
chức đám cưới. Chuyện hãy còn trong dự tính mà đã vui mừng khấp khởi,
đến độ hầu như quên luôn cái chết đau thương của đứa con trai khác
của mình cách đây chưa đầy một tháng.
Chú Tuấn cũng vậy, chú
đã không khỏi nghe một nỗi xao xuyến lạ kỳ đong đưa trong tâm hồn
mình. Chú không ngờ lâu nay tĩnh tu trên núi cao, cắt đứt những tham luyến
thường tình của thế gian, vậy mà nghe mẹ khen ngợi một thiếu nữ và
nói rằng sẽ cưới nàng về làm vợ mình, lòng chú đã thấy rung động,
bâng khuâng khôn tả được. Chú như nhìn thấy được những chồi non của
ái dục cùng một lúc trỗi dậy, vươn lên khỏi mặt đất phẳng lặng của
tâm mình. Chú không hiểu sao chú lại có thể bị đánh bại một cách dễ
dàng trước dục vọng, đối thủ hàng đầu của người xuất gia học đạo.
Chú đang băn khoăn với những
rạo rực, những đổi thay rõ rệt của lòng mình thì nghe có tiếng gõ cửa.
Chú giật mình đứng dậy, nhưng mẹ chú đã xua tay, nói:
"Con cứ ngồi đi, để
mẹ ra mở cửa xem thử ai."
Khi mẹ chú đến nơi cửa,
lòng chú bỗng hồi hộp, run bấn lên, như thể bà đang mở ra cho chú cánh
cửa của một kho tàng bí mật. Chú bỗng linh cảm rằng người gõ cửa sẽ
là thiếu nữ mà mẹ thường nhắc đến tên, và thiếu nữ đó sẽ là thiếu
nữ mà chính chú đã bắt gặp lúc nãy khi chú đóng cửa. Chú nhìn theo mẹ,
dán mắt vào cánh cửa, chờ đợi.
Quả nhiên, khi mẹ chú mở
cửa ra thì Liên đang đứng đợi, hai tay nàng bưng một cái khay nhỏ thức
ăn. Nàng đúng là người thiếu nữ mà chú đã nhìn thấy khi nãy. Nàng
nói với mẹ chú những lời nhỏ nhẹ mà chú ngỡ như là mình vừa lạc
vào một cõi trời nào đó và nghe được lần đầu âm thanh nhẹ nhàng
thánh thót của tiên nữ trên ấy.
"Thưa bác, con đem qua
chút ít thức ăn để bác và chú... dùng. Con biết bác và chú đang còn bối
rối chuyện của em Tú nên chưa chuẩn bị được thức ăn thức uống
trong nhà..."
"Ôi chao Liên à... con
thật tốt bụng. Thật là phiền con quá. Bác có thể tự lo được mà.
Thôi được, con đã có lòng mang qua, bác không dám từ chối. Cám ơn con.
À này, sẵn đây bác giới thiệu con cho... Tuấn biết."
Nói rồi bà đón lấy khay
thức ăn đặt lên bàn, kéo tay Liên bước vào trong nhà. Liên hơi níu lại,
nhưng rồi cũng bước theo bà đến chỗ chú Tuấn đang ngồi.
"Tuấn con, đây là cô
Liên mà mẹ nói với con lúc nãy đây. Liên thì biết con rồi, mẹ khỏi phải
giới thiệu."
"Chào... chú."
Chú Tuấn ngượng ngập đứng
dậy, mặt chú đỏ bừng lên, lúng búng nói:
"Chào... cô."
Bà mẹ cười tủm tỉm
trước cảnh lần đầu tao ngộ của đôi trẻ. Rồi bà dắt tay đưa Liên
đến bàn định mời nàng ngồi chơi nhưng Liên không ngồi, nàng tự nhiên
đi xuống bếp lau chén đũa mang lên. Chú đứng chết trân nhìn theo dáng
đi khoan thai uyển chuyển của nàng. Có một mùi thơm nhẹ thoang thoảng mà
chú nghĩ là do nàng mang đến, làm ngây ngất tâm hồn chú. Trong phút chốc,
chú thấy công phu học đạo của mình tan tành theo mây khói. Cuộc đời
trước mặt chú, trước kia là một bể khổ mênh mông đầy sóng thì nay
được phơi bày như một bức tranh nên thơ, tuyệt đẹp, không có bút mực
nào tả xiết. Chú thấy trong lòng dâng lên một niềm rung động lâng
lâng, nhẹ nhàng. Chú mỉm cười. Chú đón nhận cuộc đời một cách dễ
dàng không thể tưởng.
Mẹ chú bắt được tia nhìn
say đắm của con mình. Bà thầm cám ơn Trời Phật đã không ngăn cản mà
còn khuyến khích con bà đáp ứng kỳ vọng của bà một cách không khó khăn,
vướng mắc gì.
Liên sắp đặt mâm cơm với
hai đôi đũa, hai cái chén trên bàn rồi nói:
"Mời bác với... dùng
cơm," rồi cô nói nhỏ với mẹ chú rằng "con nghĩ chú ăn chay lâu
năm rồi, bây giờ chú có về luôn không tu nữa thì cũng phải cần một
thời gian mới ngã mặn được."
"Bác biết chuyện đó.
Mà con cũng tinh ý nữa. Con thật trẻ mà chu đáo mọi bề. Này, con cũng ngồi
ăn miếng cơm với mẹ con bác chứ. Sao chỉ lấy có hai chén hai đũa thôi?"
Nói rồi, bà vội vã xuống bếp lấy thêm một chén và một đôi đũa nữa.
Trong lúc đó, Liên bới cơm
vào chén. Xong nàng quay qua, thấy chú Tuấn vẫn còn đứng gần cuối phòng,
mắt đăm đăm nhìn mình.
"Mời... chú."
Chú lúng túng, không biết
nói gì.
"Lại ăn đi con, đừng
để cô ấy nhọc lòng mời mãi," mang chén đũa từ bếp lên, bà mẹ
chú vừa nói.
Chú theo mẹ bước đến bàn
ăn. Liên định rút lui để hai mẹ con tự nhiên, nhưng thấy mẹ chú mang
chén lên nên cũng chần chừ chưa quyết định. Mẹ chú nắm tay nàng giữ
lại, bảo ngồi xuống chiếc ghế trống bên cạnh bà. Chú Tuấn vẫn dán
mắt nhìn nàng. Chú thấy nàng đẹp quá, không giống như những mô tả về
nữ giới trong kinh điển mà chú từng đọc thấy. Không những từ thể chất
qua làn da trắng hồng thơm tho của nàng mà ngay cả đến tinh thần của nàng
nữa, chú như nhìn thấy, cảm thấy được cái vẻ trong suốt sáng ngần
như pha lê hay như giọt nước cam lồ trong vắt từ bình tịnh thủy của
đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Chú không thấy gì là bất tịnh, là ô uế,
là tạp nhiễm, là cấu bẩn... nơi con người nàng cả. Ngược lại, chú
thấy nàng là hiện thân của những gì cao đẹp, thánh thiện, trong sạch
nhất của cuộc đời.
Mẹ chú đã dự tính là sẽ
nói chuyện, gợi ý riêng với Liên rằng bà muốn cưới nàng cho chú Tuấn.
Nhưng bỗng dưng, trước sự đắm say say đắm nhau thấy rõ giữa đôi trẻ,
bà thấy không cần phải úp mở gì nữa. Bà muốn nói ngay những gì bà
mong ước, ngay bây giờ, chứ không còn dịp nào tốt hơn, vì ngày mai con
bà sẽ phải lên đường về chùa để xin xả giới. Một hứa hẹn tuy
chưa có sự chính thức thừa nhận của làng xã xóm giềng bằng một lễ
cưới nhưng cũng tạo đủ sức mạnh để lôi kéo đứa con trai cưng của
bà quay trở lại cái tổ ấm này.
Nghĩ vậy rồi, tay phải cầm
tay Liên, tay trái cầm tay chú Tuấn, bà nói:
"Sáng sớm ngày mai Tuấn
lên đường rồi," (bà nói ngang đây thì Liên sửng sốt trố mắt
nhìn bà rồi quay sang nhìn Tuấn), "mẹ muốn trước khi Tuấn đi, hai
con ngay trước mặt mẹ, hãy hứa với nhau một điều là sẽ trở thành vợ
chồng của nhau, chung sống với nhau tới ngày răng long tóc bạc. Mẹ thấy
hai con rất xứng với nhau, không thể chọn lựa được người nào khác hơn
nữa. Thương mẹ, hai con hãy nói cho chính tai mẹ nghe lời hứa của hai
con. Nào, Tuấn, con là trai, con hãy nói trước. Nói đi, hứa đi. Con có muốn
cưới Liên làm vợ không?"
Mặt chú Tuấn đỏ bừng
bừng lên. Chú không ngờ mẹ lại đặt mình vào một tình thế gay cấn như
vậy. Dĩ nhiên là chú bằng lòng rồi, nhưng ai lại đi hỏi thẳng thừng
trước mặt nàng, làm sao mở miệng được. Chú lúng túng, chẳng biết
làm sao. Liên cũng e thẹn cúi mặt xuống như muốn lẩn trốn, dù rằng
trong lòng nàng thật sung sướng.
Mẹ chú nhắc lại:
"Tuấn, con không thương
mẹ sao? Con đã nói là con sẽ không từ chối chuyện đó mà. Hứa với mẹ
đi nào."
Ngập ngừng một chốc
chú mới nói:
"Đâu có biết ý của...
ra sao?"
Bà mẹ liền quay qua Liên.
Nàng đang bẻn lẻn vân vê góc áo bà ba của mình.
"Liên con, Tuấn muốn
biết ý của con rồi mới dám hứa. Vậy con nghĩ sao? Con có đồng ý là sẽ
làm vợ của Tuấn không?"
Liên thẹn thùng, nhưng
cũng biết đây là cơ hội tốt của nàng và Tuấn, nàng mạnh dạn nói:
"Con muốn biết là...
đi đâu sáng mai cái đã."
"À, lên chùa xin xả
giới. Tuấn sẽ đi trong ba ngày thôi, sẽ quay lại và chúng ta sẽ tiến
hành việc tổ chức đám cưới. Bác muốn biết trước ý của con và Tuấn
hôm nay trước khi Tuấn lên đường."
"Dạ... nếu chú đi rồi
quay trở lại thì... thì con xin hứa."
"Thấy chưa, Tuấn. Liên
đã thuận hứa rồi đó. Con sao, con có đồng ý cưới Liên làm vợ
không?"
"Dạ... con hứa."
Bà mẹ nắm tay đôi trẻ
đặt vào nhau. Hai cánh tay hơi rút lại lúc đầu nhưng rồi cũng đi theo
chiều kéo của bà mẹ, tìm đến nhau. Hai bàn tay nắm lấy nhau một lúc bỡ
ngỡ. Chú Tuấn nghe như có luồng điện chạy rần rần vào tim mình. Chú
nhìn thẳng vào mắt Liên, không e dè nữa. Liên cũng mạnh dạn, ngước nhìn
chú, rồi chớp chớp đôi mắt. Hai bàn tay im lặng. Hai trái tim lên tiếng
rộn rã. Bà mẹ nói:
"Hai con đã hứa trước
mặt mẹ rồi. Vậy kể từ hôm nay, duyên vợ chồng coi như đã thành. Mẹ
vui mừng đón nhận Liên vào gia tộc này."
Nói đến đó, bà mẹ thả
tay đôi trẻ ra. Liên định rút tay về nhưng thấy tay Tuấn cứ nắm chặt
lấy tay mình nên cứ để yên như vậy, chờ đợi. Thấy mẹ tủm tỉm cười,
chú giật mình buông vội tay Liên ra, rút về. Chú và Liên nhìn nhau, cảm
thấy mình đã là sở hữu của nhau rồi.
Sau bữa ăn, Liên trở về
nhà nàng và lo chuẩn bị chút thức ăn để làm hành trang cho người chồng
tương lai của mình lên đường vào sáng sớm ngày mai. Lòng nàng vui rộn
rã, nàng thức luôn cả năm canh để mơ mộng, suy tưởng về cuộc sống
chung đang cận kề của nàng và chú Tuấn, một chàng trai hiền lành, đẹp
trai, đạo đức mà nàng hằng ôm ấp hình bóng từ mấy năm nay.
Chú Tuấn cũng không ngủ
được. Buổi tối ngồi tham thiền, quán tưởng, chú chỉ thấy hình bóng
Liên với môi cười tươi như một đóa hoa, với mắt sáng long lanh và hiền
như mắt nai, với bàn tay mềm mại, với làn tóc óng ả, với giọng nói
thanh tao dễ mến... Hình ảnh nàng chiếm đoạt cả tâm tư chú trong suốt
những giờ ngồi thiền. Chú mong cho đến sáng để được nhìn lại nàng
lần nữa trước khi lên đường.
*
Chùa vắng tanh như chùa
hoang. Lâu lắm chú mới về thăm lại chùa nên thấy cảnh chùa có vẻ
khác lạ. Tuy nhiên, những kỷ niệm xa xưa cũng trỗi dậy, làm chú thoáng
thấy buồn trong lòng. Chú bước nhanh hơn về phía phương trượng để bái
kiến thầy và cũng để đánh tan đi những lưu luyến mà chú nghĩ là vô
ích vừa mới dâng lên trong lòng.
Thầy đang ngồi tĩnh tọa
trên bồ đoàn, thấy chú bước vào, gật gù hỏi:
"Thiền sư xuống núi
có duyên sự gì lớn lao lắm hả?"
Chú Tuấn ngượng ngập một
lúc, sụp lạy ba lạy rồi quỳ thưa:
"Bạch thầy, gia đình
con chỉ còn mẹ già và một đứa em trai. Tháng rồi em con bị rắn độc cắn
chết khi đang đi đốn củi, mẹ con yêu cầu con hoàn tục để lo việc nối
dõi tông đường."
"Đau xót thay cho con! Vậy,
con tính xin xả giới hôm nay, phải không?"
"Bạch thầy, phải.
Con xin thầy cho con xả giới."
"Thầy làm chứng cho rồi,
giới đã xả, con yên tâm lo về phụng dưỡng mẹ già và lo việc gia tộc."
Chú Tuấn lại lạy thầy
ba lạy, nước mắt chú rơi xuống đất. Ngày đầu tiên lạy thầy để xuất
gia, chú đâu có khóc như vậy.
"Đừng khóc con ạ.
Con hẳn biết nghiệp quả của mỗi người là cái do chính người ấy tự
tạo và tự lãnh thọ. Không có gì rơi ngoài vòng nhân quả. Con hãy về
ngay bây giờ đi. Ta không muốn con ở lại chùa đêm nay."
"Bạch thầy, vì sao?
Con muốn ở lại một đêm cuối cùng bên thầy để được chỉ giáo trước
khi quay về với thế tục. Xin thầy cho phép."
"Không. Ta không cho
phép. Ta muốn con về ngay lập tức, không nên nấn ná."
Biết thầy đã dứt
khoát, chú đành lạy dài rồi thưa:
"Dạ, bạch thầy con về,"
chú lại sa nước mắt. Bước đến cửa, chú sực nhớ điều gì đó, liền
đứng lại, hỏi thầy:
"Bạch thầy, tại sao
con tu tập thiền định đã gần bảy năm rồi mà cho đến bây giờ con vẫn
chưa thoát ly được ái dục?"
Vị thầy không trả lời
câu hỏi, chỉ nghiêm sắc mặt nói rằng:
"Về đi!"
Chú quày quả lui ra, rời
chùa lập tức. Chú lủi thủi bước đi, lòng cứ thắc mắc sao thầy lại
xua mình về sớm.
Chú đi suốt đêm không dừng
nghỉ, một phần vì mong gặp lại mẹ già và người vợ sắp cưới, một
phần vì nghi ngại là trong sự xua đuổi của thầy có lý do gì liên quan
đến mẹ mình ở nhà.
Ngày hôm sau chú đã về
đến đầu làng. Từ xa, chú thấy khói đen mịt mù trong khắp xóm làng.
Chú kinh hãi, thầm nghĩ: "Chắc có tai biến gì cho làng rồi!" Nghĩ
vậy, chú vụt chạy nhanh vào làng. Hai bên đường, chú thấy nhà cửa xác
xơ tiêu điều. Có nhiều tiếng than khóc, nghe rất sầu thảm. Chú vừa chạy
vừa hồi hộp lo sợ cho mẹ già và Liên. Chú tính dừng chân hỏi thăm những
người than khóc, nhưng đôi chân chú không chịu dừng, nó như muốn kéo
chú đi thật nhanh về nhà mình.
"Mẹ! Mẹ ơi!" chú
vừa hét lên vừa xông vào căn nhà cháy rụi của mẹ. Chú tìm không thấy
mẹ đâu cả. Chú hốt hoảng chạy ra khỏi nhà, tìm qua nhà của Liên bên
cạnh. Nhà Liên gần bên nhưng cũng cách một bờ rào và khoảng vườn giữa
hai nhà nên khuất sau những tàng cây. Vào đến sân nhà của nàng, chú mới
biết là nhà nàng cũng bị đốt cháy như nhà mình. Chú tính xô cửa vào
nhà nàng thì sực nhìn thấy mẹ mình đang nằm dưới đất, mặt mày lem
luốc cháy nám. Một cây cột ngã xuống đè ngang ngực bà. Chú vội đỡ cây
cột lên, lay gọi mẹ. Mẹ chú sắp tắt thở rồi. Với hơi thở thì
thào, bà nói:
"Cướp bóc... hãm hiếp...
cả làng bị tai họa. Liên... Liên bị... nên nó tự tử rồi. Nó... chết
rồi, trời ơi! Con dâu của mẹ. Con ơi! Sao gia đình ta tan nát thế này...
hở con?... (nghẹn ngào một lúc, bà tiếp) À, mẹ nghĩ ra rồi, mẹ hiểu rồi...
ôi, tất cả đều như thế. Con à, con đã hứa là không để giòng họ bị
tuyệt tự... phải không? Nhưng hôm nay, mẹ xả bỏ lời hứa cho con, mẹ
không buộc con phải giữ lời hứa đó. Tất cả chỉ là những trò bày vẽ
của thế gian... Con là người xuất gia, con đã chọn đúng đường đi của
mình. Con không cần phải quay về để làm những chuyện của thế tục...
Hơn nữa, con và Liên đã hứa trước mặt mẹ là trở thành vợ chồng của
nhau. Tuy hai con chưa thực sự chung sống nhưng nghĩa vợ chồng và lời kết
ước thề nguyện của hai con chẳng phải phút chốc mà quên, mà xóa đi
được. Do đó, mẹ yêu cầu con hãy quay trở về chùa với thầy con. Về mặt
thế tục, đó cũng là cách tỏ tấm lòng thủy chung của con đối với nàng;
về mặt tu hành, cũng là sự lựa chọn tốt đẹp cho đời con. Mẹ yên
tâm nhắm mắt nếu con trở lại với thầy tổ chứ không muốn con dấn bước
trở lại với dòng đời hỗn mang này để làm cái chuyện nối dõi tầm
phào. Thế gian này chẳng có gì tồn tại lâu dài... không có gì đáng để
luyến tiếc, vậy thì nối dõi đâu có nghĩa gì, con thấy không?"
Chú chỉ ôm mẹ mà lắng
nghe, nghẹn ngào không nói được một lời. Đau khổ tột cùng. Chú chưa
bao giờ cảm nhận được một nỗi đau khổ to lớn đến mức độ này.
Chú ngồi với mẹ mà khóc rưng rức. Nhìn thi thể mẹ, nghe giọng nói thì
thào của mẹ, chú biết mẹ sẽ chẳng còn sống bao lâu. Chú chia xẻ niềm
đau với mẹ bằng sự im lặng và vòng tay của chú để tiễn đưa bà đi
về thế giới khác. Một lúc lâu, chú mới thức tỉnh rằng chú nên niệm
Phật lớn tiếng để cầu nguyện cho mẹ. Mẹ chú chớp chớp mắt nhìn,
không nói, đưa tay chỉ vào nhà trong. Chú biết bà muốn nói gì. Có lẽ
thi thể của Liên ở trong đó. Mẹ chú muốn chú đem xác nàng ra để bên
cạnh bà để chú ngồi niệm Phật cho cả hai người. Chú tạm rời mẹ, mở
cửa ra nhìn vào. Liên treo cổ chết trên cây đà ngang duy nhất còn lại
trong căn nhà cháy rụi. Xác nàng thâm đen, treo lủng lẳng, đôi mắt sáng
đẹp và hiền như nai của nàng trợn trừng lên; lưỡi nàng lè ra, tím ngắt;
đôi môi tươi hồng của nàng cũng đã biến thành bầm xanh. Chú đau xót gỡ
nàng xuống. Ẵm nàng ra ngoài, đặt bên cạnh mẹ. Mẹ chú đưa tay qua, cầm
lấy tay Liên, ứa nước mắt. Rồi bà nói với chú:
"Không cần phải nối
dõi tông đường. Đừng phụ tình của Liên. Hãy chôn mẹ và nàng bên
nhau, cạnh mộ của Tú."
Đó là những lời cuối
cùng của bà.
*
Tuấn chôn cất mẹ và
Liên trong khu đất nghĩa trang, gần mộ của Tú. Nhiều người trong làng cũng
lo chôn cất người thân của họ. Không ai màng để ý đến chú.
Chôn cất mẹ và Liên xong
rồi, chú cứ quanh quẩn bên mộ của cả ba người để niệm Phật cầu
nguyện và thiền quán, chẳng muốn rời đi. Suốt cả tuần lễ như vậy mà
chú vẫn không ăn không ngủ được. Cho đến đêm thứ tám, chú mới mệt
mỏi ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ, chú thấy mình đang chèo một chiếc
thuyền bé tí trên giòng sông cuồn cuộn sóng. Mẹ, Tú và Liên đều từ
nơi bờ xa vẫy tay với chú. Nhưng ba cách vẫy mang ba ý nghĩa khác nhau. Tú
vẫy tay như giã từ chú; Liên vẫy tay như kêu gọi chú đến với nàng;
còn mẹ chú thì như xua tay bảo chú đừng tấp vào bờ. Đang phân vân với
ba cách vẫy tay của ba người thì chiếc thuyền con của chú đụng phải
đá ngầm, vỡ toang. Chú kinh hãi thức giấc.
Mặt trời đã lên cao.
Chú dụi mắt một lúc mới tỉnh trí để nhận biết chú đang ở đâu.
Chú tiếp tục ngồi thiền nhưng hình ảnh ba người thân cứ lởn vởn
trong tâm chú. Cuối cùng, chú sực nhớ tới thầy. Phải, thầy có linh
giác để đoán biết một sự việc bất tường xảy ra cho gia đình chú.
Thầy bảo chú về gấp là để nghe những lời cuối cùng của mẹ. Chú
ôn lại lời mẹ dặn. "Con là người xuất gia, con đã chọn đúng đường
đi của mình." Chú vội vàng đứng dậy. Lạy mộ mẹ ba lạy, từ giã
Tú và Liên với giây phút ngậm ngùi rồi lên đường.
*
Tuấn bước vào phương
trượng, thấy thầy vẫn ngồi trên bồ đoàn. Không nói một lời, chú sụp
lạy thầy. Nước mắt chú rơi xuống nền đất. Lạy xong ba lạy, chú quỳ
thưa:
"Bạch thầy, sao con tu
tập thiền quán đã gần bảy năm rồi mà vẫn chưa thoát được những
đau khổ thường tình của thế nhân?"
"Hãy ra ngoài mà quét
sân đi," thầy chỉ nói với chú như vậy.
Chú lại lạy thầy ba lạy
rồi lui ra. Vừa đi, chú vừa suy gẫm lời thầy. Có lẽ thầy muốn nói rằng
quét sân chưa sạch thì đừng toan tính đến chuyện vào rừng lên non để
làm chàng ẩn sĩ.
Chú bước ra sân. Lá hãy
còn rụng đầy mà chưa ai quét. Chú nhớ có lần thầy dạy chú rằng hãy
xem lá đa rụng ở vườn chùa như là những phiền não tham lam, sân hận,
si mê nơi chính vườn tâm mình. Quét lá và rác rưởi cũng chính là quét
đi những cấu bẩn của tự tâm: không để cho bất cứ một ngọn lá hay
một cọng rác nhỏ nào sót lại thì mới tạo ra được một khu vườn sạch
đẹp.
Có một cây chổi nằm trơ
dưới đất, bị lá đa phủ lấp đi một nửa. Chú đến nhặt lấy cây chổi,
cầm trên tay một lúc để nhớ lại bài nguyện nói về quét sân chùa mà
lâu lắm rồi vì không quét sân nên chú không đọc tới. Chú vẫn chưa quên
bài nguyện.
Gió thổi qua vườn chùa
làm rụng thêm nhiều chiếc lá vàng khô. Chú nhìn cái sân ngập lá mà vẫn
thấy tâm mình thanh thản, nhẹ nhàng như được trở lại cái thời thơ
ấu mới xuất gia năm xưa. Chú bắt đầu quét lá.
- 12/91
http://www.buddhismtoday.com/viet/truyen/sanngoaiconla.htm