- Tô canh bù ngót
Suốt ngày phải
quay cuồng "bù đầu nhức óc" với việc nhà việc sở, vừa có
chút rỗi rảnh thì máy truyền hình lại thu hút hết hồn vía, thành thử
Đông chẳng còn chút thời giờ để sống riêng cho chính mình, huống hồ
có thể nhàn nhã tưởng nhớ đến thân nhân bè bạn. Mãi đến khi phải
ngồi bó gối hàng giờ trên chiếc phi cơ hành khách, không lăng xăng gì
được, Đông mới mặc tình thả hồn trôi thật xa, về với chuỗi ngày
ấu thơ êm ấm, tại căn nhà ngói ba gian, mặt tiền hướng ra rạch Cái Sơn,
thuộc xã Hòa An, Cao Lãnh. Đông là con trai duy nhất, lại là út, nên được
cả nhà chiều chuộng nâng niu. Các chị là gái thì lúc nào cũng phải giữ
gìn ý tứ, đi đứng đoan trang, và chia xẻ công việc nhà với mẹ, chớ
đâu có buông lung nhong nhong suốt ngày phá làng phá xóm, khi thì phóng xuống
sông quậy bùn đụt ngầu, lúc lại thượng lên cây mận, cây vú sữa, ngồi
vắt vẻo vừa ăn, vừa lơ đãng ngắm trời xanh. Cùn chân cùn cẳng, chán
chuyện phá phách ngoài đường thì về nhà chọc ghẹo ba bà chị cũng thú
vị. Chọc ghẹo quá trớn "giỏi lắm" bị mắng "thằng quỉ",
thằng "mắc dịch" là tột cùng, còn như muốn trừng phạt thì
"sức mấy" ba chị rượt kịp thằng nhỏ. Thật ra, chuyện chọc
ghẹo bị đòn tuy hiếm hoi, nhưng đi đêm có ngày gặp ma, Đông cũng lâm nạn
một lần khiến cái đầu lãnh cục u tròn như trái chanh. Giờ đây, bỗng
nhiên nhớ lại chuyện xưa tích cũ nầy, Đông cảm thấy vui quá đổi là
vui. Chàng tủm tỉm cười, lầm thầm: "Ông bà già mình lẫm rẫm vậy
mà hay ghê! Phát họa kế hoạch sản xuất bốn năm, rồi đúng theo tiêu
chuẩn mà thi hành y chang, mới tài tình chớ!". Tuy là một nông dân
chân chính, nhưng tài nghệ đặt kế hoạch sản xuất của ông già, được
"hậu thế nhắc nhở" phải kể là chuyện sản xuất con. Bà già cứ
tà tà sanh con năm một, ông già lại theo bốn mùa mà đặt tên con là
Xuân, Hạ, Thu, Đông. Hết tên đặt thì bà chấm dứt cái rụp, chớ không
tòn ten kèm theo thằng Ráng, thằng Thêm, con Thôi, con Nữa như người khác.
Ông già rất hãnh diện về cái mục nầy, nên chỉ chờ đợi nhà có
khách khứa thì gọi đám con ra, kể tên từng đứa để khoe khoang thành
tích, vô tình khiến chị Ba tức tối đến điên người. Cũng giống như bất
cứ cô gái mỹ miều nào, chị Ba thích trang điểm, làm dáng và dĩ nhiên rất
mong được khoác một cái tên thơ mộng thanh tao. Điều éo le, là người
đẹp hoa mỹ lại bị gán cho cái tên Hạ, lè tè thấp thỏi, thì sao chẳng
đau lòng. Chẳng cần ai chỉ dẫn, vừa lên trung học, chị bèn lẵng lặng
khai tử tên Hạ, sửa khai sanh bằng cách bôi dấu nặng thêm dấu huyền
thành chữ Hà, đồng thời, lúc trò chuyện với bạn bè lúc nào, cũng
xưng tên "Kim Hà thế nầy, Kim Hà thế kia" rất ư là điệu hạnh.
Thế nhưng trường trung học quận Cao Lãnh chẳng lớn, bạn bè năm trước
có đứa cũng lên học chung, thành thử cái tên cúng cơm "con ba Hạ"
không thể dấu diếm ai được. Cái tên Hạ nhờm gớm, khó chịu dính cứng
với chị Ba, giống như cục đàm kẹt cứng nơi cổ, khạc nhổ không xong,
mà nuốt cũng chẳng trôi. Bực bội quá, có lần chị Ba lên tiếng càm
ràm:
- Ba à! miền
Nam mình đâu có đủ bốn mùa. Ba đặt tên tụi con là Xuân Hạ Thu Đông,
thiệt chẳng hợp tí nào!
Đông vọt miệng:
- Đúng rồi!
miền Nam mình chỉ có hai mùa là mùa nắng và mùa mưa. Vậy nếu Ba đặt tên
đúng theo thời tiết, thì có lẽ chị hai mang tên "Phơi Nắng", còn
tên chị là "Mắc Mưa" mới phải! Chị Ba! Chị nghĩ sao chớ theo
em thì cái tên ba Hạ "bảnh tên" hơn cái tên ba Mắc Mưa nhiều lắm
chị à!
Chị ba háy thằng
em một cái bén ngót rồi lên tiếng: "Xí! ai bàn chuyện với mầy mà
bày đặt ăn cơm hớt!", đoạn chị tiếp tục phân bua với ba:
- Con nghĩ chữ
Việt có rất nhiều bộ bốn chữ hay ho như tứ quí, tứ đức, tứ
phương...sao ba không chọn, nhè chọn bốn mùa chi, nghe chẳng thanh chút
nào!
Tánh nào tật
nấy, Đông lại nhanh nhẩu xía vào:
- Coi bộ đặt
tên chị em mình theo bốn phương Đông Tây Nam Bắc hấp dẫn thiệt tình a!
Chà! Trường hợp nầy chị sẽ mang mỹ danh là Tây, gọi đầy đủ là cô
Ba Tây mới đúng! Chị ơi! ba Tây hay má Tây gì cũng đâu có đẹp hơn cái
tên ba Hạ, chị Ba!
Thằng nhỏ ba
hoa chích chòe không ngờ lời chọc ghẹo "ba Tây má Tây" lại khiến
ông già nổi giận thình lình, ông cốc trên đầu thằng bé một cú đau
điếng, rồi gằng giọng mắng:
- Thằng ăn nói
bá láp! Cái miệng ăn mắm ăn muối độc địa nói tầm bậy rủi... có
gì... thì sao?
Lời nói
quàng xiên của Đông chắc đã phát ra đúng giờ linh, nên giờ nầy thì chị
hai Phơi Nắng lại sinh sống tại vùng nắng cháy sa mạc Arizona, còn chị
ba Mắc Mưa thì mặc tình dầm mưa tại vùng bão lụt Mississipi. Nhưng chuyện
"linh ứng" thật sự đã xảy ra chỉ vài năm sau đó tại Việt
Nam, liên quan đến chuyện tình duyên gây cấn của chị Ba. Vừa chuyển
lên Saigon tiếp tục việc học, thoát khỏi bàn tay kềm kẹp của cha mẹ,
chị Ba liền có ngay một nếp sống tình cảm khá tự do. Chị giao du rộng,
có nhiều bạn trai, mà ai thì chị cũng đẩy đưa tình tứ, khuyến khích họ
đeo đuổi. Với chị thì càng có nhiều người cạnh tranh trồng cây si
thì càng có giá trị, nó thú vị như một thứ trò chơi, chớ chị đâu hề
toan tính chuyện hôn nhân mà phải ra điều đứng đắn. Ông bà biết tính
bay bướm của con gái, ngày đêm thấp thỏm lo âu, chẳng biết "hũ mắm
nêm" hiểm nghèo nổ tung lúc nào. Ông bà chỉ biết khuyên lơn năn nỉ
con gái dứt khoát "ưng" một chàng nào cho xong, nhưng cô nàng cứ
"phớt tỉnh Ăng Lê", và cứ nhởn nhơ đùa giỡn. Một hôm chị Ba
đột ngột mang hộp bánh trung thu về làm quà thăm cha mẹ. Sau buổi cơm
chiều, chọn lúc cha mẹ đang nhâm nhi trà bánh vui vẻ, chị mới thỏ thẻ:
- Ba má à!
vâng lời ba má, con đã dứt khoát chọn được người chồng tương lai cho
con rồi!
Bà già đang
ngồi ghế mừng quá nhỏm dậy hỏi một hơi:
- Thiệt vậy
hả con! Thẳng (1) đến nhà mình lần nào chưa? Nó làm nghề gì? Mặt mày
nó lịch sự không con?
Ông già cũng
ôn tồn:
- Tánh tình
nó ra sao? Học hành tới cỡ nào vậy con?
- Ơ! ảnh làm
Cố vấn tại Bộ Xây Dựng Nông Thôn, cùng một cơ quan với con, ảnh cao ráo
trắng trẻo đẹp trai lắm má ạ! Ơ! tánh ảnh hiền hậu dễ thương... làm
sao á! ảnh đã tốt nghiệp đại học ở Hoa Kỳ đó ba!
- Tốt lắm!
Thành phần du học thì sự nghiệp đương nhiên vững chãi, không có gì phải
lo nữa! Còn gia đình nó như thế nào vậy con?
- Ơ!... ơ! cha
mẹ ảnh không có ở đây ba à!
- Ủa! Như vậy
té ra nó di cư vào Nam một mình à! điều đó cũng được đi, nhưng ít nhất
thì nó cũng phải tìm ra chú bác cô dì hay anh chị để đứng làm chủ
hôn chớ!
- Ơ...ơ! ảnh
"mình ên" ở xứ nầy, ... ảnh là người... Hoa Kỳ ba à!
Ông bà già sống
quanh quẩn tại xứ Đồng Tháp quê mùa, đầu óc thủ cựu, nên có một
quan niệm rất hẹp hòi về việc kết hôn với người nước ngoài. "Cực
chẳng đã, mới gả con cho chệc"(2), gả con cho người Trung Hoa, cùng
màu da, sống cung đụng trong nước lâu đời mà còn bị khe khắc cho là
chuyện cực chẳng đã, huống chi gả con cho người da trắng, để bị mỉa
mai là con gái làm "me Mỹ, me Tây". Do đó, vừa nghe thỉnh cầu
"động trời" của chị Ba, ông già đỏ mặt tía tai, nổi giận bừng
bừng, còn bà già thì tái xanh như gà bị cắt tiết, khuỵu xuống ghế thở
chẳng ra hơi.
- Mầy nói
cái gì? Cho mầy lấy Mỹ đặng người ta cười thúi đầu tao hả?, ông
già hét lên, rồi đứng lên thở hồng hộc chừng mười phút cho dịu cơn
nóng giận, mới tiếp lời:
- Nó là người
ngoại quốc làm sao tao biết gốc gác, biết cha mẹ họ hành nó! Rồi
không mai mối, không ai đứng chủ hôn đàng trai thì tao gả bán với ai đây?
Tao nhứt định không là không? Thà chết chớ tao không gả con cho Tây cho Mỹ
nghe chưa?
- Con à! sao
con dại quá vậy! con ưng thằng Việt Nam nào ba má cũng chiều ý con, chớ
người Mỹ họ khác với người mình quá mà! gia đình lễ giáo đâu có ai
lấy chồng ngoại quốc, a con!, bà già lên tiếng vỗ về.
Chị ba im lặng
để mặc cho cha mẹ giảng "mo ran" đã đời, rồi mới lừng khừng
nói:
- Con hiểu ba
má chẳng ưa gì người Mỹ, nhưng con đã lỡ dại..., con đã có bầu với
người ta rồi! Con biết phải làm sao bây giờ?
Ông bà đang
ào ào giảng dạy con, bỗng nín khe không thốt thêm được một lời nào nữa.
Bà nhìn ông, ông nhìn bà chua xót não nề. Phai lâu hàng giờ, ông già mới
thở phào ra như quả bóng xì hơi, xuôi xị lên tiếng:
- Thôi được!
Con muốn chọn ai thì chọn!
Thế rồi,
ông bà cấp tốc lên Saigon tổ chức một đám cưới giản dị cho cô con
gái, đoạn quày quả về quê, gặm nhấm nỗi buồn khổ khôn nguôi. Chị
ba thì đâu cần đám cưới rình rang, cũng không có nhu cầu nở mặt nở
mày với bà con xóm giềng. Chị lấy được người chồng chị thương, chị
được xuất ngoại như mơ ước, và nhất là được hợp pháp "xổ toẹt"
cái tên cúng cơm, để mang tên họ hoàn toàn Mỹ: bà Sue Johnson, thì chị
đã hả dạ tột cùng rồi. Bà già nghe chuyện con gái đổi tên họ lắc
đầu thở than: "Tưởng nó lựa chọn tên gì sang trọng, chớ tên Xu,
tên Cắc thì hay hơn tên Hạ ở điểm nao?"
Năm 1975, khi
gia đình Đông được đưa về tạm trú tại trại Fort Smith, chị Sue có đến
thăm. Lần đó, Đông nhận thấy chị có vẻ xa cách, chị hà tiện từng lời
nói, thường hay khinh khỉnh "à há, á à" thay câu đối đáp, nên
Đông ngần ngại không đề cập đến chuyện nhờ vả chị lập hồ sơ bảo
lãnh. Đông là người rất nặng tình gia đình, nên khi nếp sống tị nạn
tạm ổn định, từ Houston chàng lần mò tìm đường viếng thăm chị Sue tại
Jackson, Mississipi. Lần nầy, ngược lại chị Sue nói năng thật nhiều. Chị
hãnh diện về kiểu cách sống rặc ròng Mỹ, chị khoe chồng con, khoe tài
sản, sau cùng chị dành rất nhiều thời giờ để cười chê cái đám người
Việt tị nạn quê mùa ngớ ngẩn để than phiền rằng sự hiện diện của
họ ở xứ sở văn minh nầy chỉ làm tăng thêm phần lộn xộn, khiến chị
mất mặt với bè bạn Hoa Kỳ mà thôi. Đông háo hức viếng chị hi vọng
tìm lại những giây phút đậm đà tình ruột thịt ngày xưa, nhưng chị
Sue đã vĩnh viễn cắt đứt quá khứ, đề tài mới mẻ về đời sống Mỹ
của chị lại chẳng hấp dẫn chàng tí nào. Đông ngao ngán ra về, và từ
đó, mối liên lạc chị em thưa dần. Người chị giàu tình cảm, có nếp
sống giản dị, phù hợp với Đông nhất có lẽ là chị tư Thu. Chị không
lập gia đình, ở lại Việt Nam chăm sóc cha mẹ cho đến ngày ông bà mãn
phần thì đi xuất gia. Từ đó, viết thơ thăm hỏi phải hạn chế, ngôn từ
sử dụng phải dè dặt để tránh khuấy động nếp sống thanh tịnh của
kẻ tu hành. Bây giờ, dẫu Đông về nước thăm chị, thì hoàn cảnh kẻ
tu người tục, Đông cũng khó tìm lại khối tình ruột thịt thắm thiết
ngày xưa được. Do đó, bao nhiêu tình cảm gia đình, Đông dành hết cho người
chị thứ hai ngụ tại Tucson, Arizona. Mặc dù vị trí thành phố nầy nằm
trẹo đường, Đông phải đổi chuyến bay cực nhọc, nhưng mỗi khi có dịp
đi Cali, chàng luôn tìm cách sắp xếp để ghé thăm chị đôi ngày. Về với
chị cũng là về với quãng đời ấu thơ êm ấm ngày xưa tại quê hương
yêu dấu.
*
* *
Vừa
bước ra khỏi cửa phi cơ, Đông đột ngột bị phủ chụp bởi một độ
nóng kinh khủng như đang bị thiêu đốt trong một lò lửa vĩ đại, khiến
chàng tối tăm mặt mũi muốn thối lui lại. Thế nhưng nhìn thiên hạ, Đông
thấy ai cũng nhàn nhã không lộ chút khẩn trương, nên đành từ từ nối
gót nhau đi vào bên trong phi trường. Đông dáo dác tìm thân nhân, thì nghe
tiếng reo:
- Cậu năm!
Thưa cậu năm!
- A! cháu
Toàn! Mới hai năm không gặp mà trông cháu trưởng thành và đẹp trai hẳn
ra!
- Dạ cám ơn
cậu! Lần nầy cậu đến nhằm mùa hè nên khí hậu khá nóng phải không cậu?
- Nóng dễ sợ
chớ khá khá cái gì! Nóng như vầy mà sao dân ở đây chịu đựng nỗi?
hay thiệt!
Thằng nhỏ cười
hệch hạc đáp:
- Cái gì cũng
quen dần cậu ạ! Cậu biết không! dân ở Arizona thường tiếu rằng
"địa ngục còn mát hơn xứ nầy vài độ, nên sống được ở đây rồi,
thì chẳng ai còn sợ bị đọa xuống địa ngục cả!".
- Ba má cháu mạnh
khỏe?
- Dạ mạnh!
Ba vẫn đi làm "ca hai" nên đến hơn một giờ khuya mới về, phần
má con tuy muốn ra phi trường đón cậu lắm nhưng lại kẹt nồi mắm
chưng đang nấu dở dang!
- Tội nghiệp
chị Hai! Cứ khổ công nấu với nướng!
- Hì! Hì! Cậu
biết tánh má con mà! Bả lo lắng cả tuần lễ, bả chuẩn bị nấu nướng
đâu vào đó từ ngày hôm qua lận, gồm toàn các món cậu ưa là bánh canh
giò heo, tôm kho tàu, mực dồn thịt, gỏi sứa... Rồi hồi trưa nầy, trong
khi đang lim dim nằm ngủ, chợt bả trổi dậy nói: "Chèn đét ơi! xém
chút nữa tao quên món mắm chưng rồi! đây là món hẩu (3) nhứt của cậu
út mầy đó". Thế rồi má con hối hả đi chợ để nấu liền cho kịp!
- Đúng là cậu
thích những món đó! nhưng cậu chỉ lưu lại hai ngày mà má cháu nấu
"ấp lẫm" như vậy, bụng dạ nào cậu chịu nỗi!
- Hì hì! Bởi
tính má con như vậy nên thích thức ăn gì thì con ra tiệm ăn, tuyệt đối
không hở môi. Nếu lỡ dại để bả biết, bả sẽ nấu đầy ấp, nấu dài
dài, rồi ép ăn trợn lên trợn xuống đến nỗi vừa thấy đã rùn mình rởn
óc mà chưa chắc bả buông tha!
- Hề! Hề!
Cháu là út mà! Má cưng út quá nên mới ngóng tìm món nào út thích để nấu
nướng cực khổ mà cung phụng út! Cháu sung sướng quá mà còn kêu rêu gì
nữa?
- Thưa cậu!
Được thương dĩ nhiên là điều sung sướng, nhưng được thương quá mức
đôi khi nó lại ngột ngạt khó thở lắm cậu ạ!
Đông cũng là
con út nên rất thông cảm cháu, vỗ về:
- Ngày xưa,
ngoại cũng thương yêu lo lắng cho cậu tột độ như vậy, tình thương của
ngoại trở thành mù quáng và độc quyền, đến nỗi cậu cảm thấy tù
túng khó chịu. Đây là chuyện "nỗi lòng khó ngỏ cùng ai" phải
không cháu? Mình hở môi than thở thì bị lên án ngay là con bất hiếu,
nên đành phải câm nín. Nỗi khổ của người bị thương chưa chắc dễ
thở hơn nỗi khổ của người bị ghét cháu ạ!
Câu chuyện đành
bỏ dở dang khi hai cậu cháu bước ra ngoài trời đến chỗ đậu xe, và Đông
lại phải gồng mình chống đỡ độ nóng kinh khủng của vùng sa mạc. Khi
Toàn lái xe còn cách nhà mươi thước, Đông đã thấy bà chị lấp ló bên
cửa ngóng chờ mình. Càng về già chị hai càng giống mẹ. Thoáng nhìn mái
tóc bạc phơi, vẻ mặt phúc hậu, nụ cười dễ dãi của chị, Đông cảm
thấy như mẹ đang hiện hữu, chàng xúc động run giọng lên tiếng:
- Chị hai!
Chị cũng mừng
rỡ ứa nước mắt:
- Em út!
- Chị hai à!
Chị giống má quá chừng hà! Cho chị quấn cái khăn rằn, miệng bỏm bẻm
nhai trầu, thì y chang má ngày xưa, chẳng khác tí nào!
- Hì hì! Còn
em hả! Cái trán sói, khuyết sâu hai bên như hai cái ụ tàu của em cũng chẳng
khác gì ba! Cho em vận cái áo bành tô, chống cây ba toong thì giống hệt
ông già rồi!
Chỉ đối đáp
đôi câu mà cả bầu trời thương nhớ với bao nhiêu kỷ niệm ấm êm hiện
về tràn ngập tâm khảm hai chị em. Đông mường tượng như mình còn là
thằng bé con lẩn quẩn bên cha mẹ tại căn nhà ngói ven bờ rạch Cái Sơn,
chàng đang tung tăng chạy nhảy quanh gốc xoài, gốc ổi, gốc mận trong vườn.
Bất chợt, Đông bùi ngùi hỏi:
- Sau hè nhà
mình có trồng rau đắng không chị hai?
- Vườn nhà
mình chẳng có rau đắng! Ơ... mấy thuở mà má nấu thứ rau nầy, sao em nhắc
đến kìa?
- Vậy thì em
lầm rồi! mỗi lần em nghe bản nhạc "Con thương rau đắng mọc bên
hè", em lại cứ liên tưởng đến món canh rau ngọt ngọt nấu với chuối
mà má thường cho mình ăn lúc nhỏ. Lớn lên, sao má không còn nấu món nầy
nữa chị há?
- A! đó là
canh rau bú ngót! Em biết không? ở nhà quê đâu có phương tiện dự trữ
thành thử thức ăn khi thừa thải, có lúc khan hiếm chẳng có món gì, kể
cả rau cải. Trong trường hợp này, để bổ túc với món khô sặc, má ra
sau hè "quơ" mớ rau bù ngót, chế ra món canh chuối, ngọt ngọt cho
con cái dễ nuốt cơm. Về sau, thì con lộ trước nhà đã được xây đắp,
chợ búc đi lại dễ dàng, nên món canh tạm bợ nầy không còn xuất hiện
nữa! Lạ quá hén! Tại sao bao thức ăn ngon lành em không nhớ, nhè nhớ
món canh quê mùa nầy?
- Hì! Hì! Em cũng
chẳng hiểu tại sao em còn ghi nhận rõ ràng hương vị đậm đà của tô
canh bù ngót, cùng với chi tiết cảnh gia đình mình quây quần ăn bữa cơm
chiều hôm đó. Có thể vì hôm đó em được món đồ chơi mới, một cái
vòng làm bằng vành nia cũ, mà chị vừa buộc sửa lại cho em. Em chan món
canh nầy lua một hơi, để tự do xách cái vòng phóng ra ngoài chơi. Em đánh
vòng chạy lanh quanh trên con đường bờ sông thiệt là vui!
- Vui quá hén!
Vui quá đến nỗi lọt tuốt xuống sông, khiến cho bà già chửi chị một
trận tơi tả về cái tội bày đầu, bày đặt...
Trong khi hai chị
em đang cười khúc khích thì Toàn ăn mặc chải chuốc bước ra phòng
khách, lễ phép khoanh tay:
- Thưa má! Thưa
cậu! Con đi dự sinh nhựt bạn con!
- Con tệ quá
hà! Lâu lâu cậu mới đến chơi một lần, đáng lẽ con nên ở nhà ăn
cơm với cậu chớ?, chị hai càm ràm.
Thằng bé nhăn
nhó như khỉ ăn ớt:
- Con hứa với
thằng Thanh cả tháng trước! Mà con cũng đã thưa với má hôm quá rồi
mà!
- Thôi chị!
đừng nhằn nó tội nghiệp! Nó đã hứa với bạn thì phải giữ lời, vả
chăng, ở nhà để nghe chị em mình kể chuyện đời xưa chán phèo thì chịu
đời sao cho thấu!
Thằng bé vừa
bước ra khỏi cửa, thì chị hai đã than vấn thở dài:
- Thằng đó tệ
lắm! Nó chỉ biết bè bạn nó thôi, chớ chẳng nghĩ gì đến cha, đến mẹ!
- Chị nói sao
chớ em nhận thấy thằng Toàn khá ngoan chớ!
- Không nhắc
chi chuyện xa xôi, mới ràng ràng tuần trước đây nè! Hôm đó, nghe nó nhắc
bún bò Huế, đi làm về mệt đừ, chị vẫn ráng bươn bả đi chợ, nấu
ngay món nầy cho nó. Cơm nước xong, chờ đợi mỏi mòn đến chín giờ rưỡi
tối, mới thấy nó mới dẫn thằng Thanh về nhà. Chị vừa mừng vừa giận,
xum xoe trách: "Sao con về trễ quá vậy? con đi chơi với bạn sao không
cho má hay, làm má lo lắng gần chết! Má chờ cơm đói rã ruột vậy đó!".
Chỉ có vậy mà mặt nó chù ụ, nó hậm hực trả lời: "Tụi con vào
thư viện tra cứu sách vở, chớ đi chơi hồi nào đâu? Mà con nói với má
nhiều lần rồi! con đã hai mươi bảy tuổi, đâu còn con nít nữa mà lo lắng
mãi! Má đã biết rằng con phải học bù đầu, lại còn trực nhà thương,
giờ giấc bất thường, lúc nào con về thì con ăn! Sao má cứ chờ đợi
hoài, để rồi lên tiếng cằn nhằn?". Nó tệ như vậy đó em! có mặt
bạn nó mà nó lớn tiếng với chị, nó không nghĩ gì đến tình thương
bao la của người mẹ, suốt đời hi sinh tận tụy, chịu đủ điều gian
khổ để chăm nom lo lắng cho con...
- Như vậy thì
nó hư giống như cậu nó rồi! Chị hai biết không có lần em về Cao Lãnh
thăm má. Trong khi má lăng xăng nấu nướng mừng con, em ra chợ chơi chợt
nghe tin thằng Danh, bạn chí thiết của em lâm bệnh nặng. Em vội tìm nó,
được biết nó bị bệnh ung thư gan không phương cứu chữa, mạng sống
chỉ kéo dài tối đa sáu tháng. Nó rủ em ra quán cà phê rỉ rả tâm sự với
nhau lần chót. Lẽ ra, em nên nhận lời, nhưng em biết má trông ngóng ở
nhà, nên nài ép nó ăn cơm tại nhà mình. Vừa dẫn nó bước vào cửa, em
chưa có cơ hội phân trần thì má đã trách móc tùm lum, em bực bội quá
nên trả lời tương tợ như thằng Toàn vậy đó. Chuyện nầy má không nhắc
với em nữa, nhưng bả lại than thở với mấy dì, khiến em buồn phiền
không ít. Thật ra, thằng con trai nào cũng muốn chứng tỏ mình ngon lành,
mình trưởng thành đối với bạn bè. Do đó, trước mặt bạn nó, nếu
mình tỏ ra cưng lo thái quái thì thằng nhỏ đã bối rối thẹn thùng rồi,
huống chi, mình còn cằn nhằn nó, thì trách sao nó chẳng nổi cơn!
- Ơ! thằng
Thanh thì chị coi như con cháu trong nhà nên có gì phải úy kỵ!... Ơ! nảy
giờ chị em gặp nhau mừng quá quên cả việc cơm nước! Chắc em đói lắm
hả?
- Chưa đói đâu
chị!
- Chị có làm
món nầy đặc biệt cho em nè! Đố em đó!
- Mắm chưng!
Đúng không? hì! hì! thằng Toàn báo cáo trước với em rồi! em đã thèm nhỏ
dãi từ lúc ở phi trường lận! Trời đất! chị nấu gì mà tới sáu, bảy
món đầy khẳm như vậy? làm sao ăn cho nỗi? Thôi! Em chỉ xin ăn món mắm
là đủ rồi!
- Ậy! Dĩ nhiên
ưu tiên là mắm chưng nhưng em cũng phải nếm các món khác chứ!
- Ô! Chị hai
tài quá! ở xứ nầy mà chị tìm đâu đủ thứ rau thơm, lại còn có chuối
chát và khế nữa!
- Ừa! Thì đủ
hết, nhưng so với quê mình thì vẫn còn thiết đọt lụa, đọt chiết, đọt
chùm ruột... em à!
Nghe nhắc đến
chùm ruột, Đông bỗng rùng mình tưởng nhớ hình ảnh mẹ hiền ngày xưa.
Có lần bà thẩn thờ nhìn nhánh chùm ruột sai oằn, rồi lẩm bẩm:
"Má mong nhà mình giống như nhánh chùm ruột, con cháu cả đàn quấn
quít san sát bên nhau, thì hạnh phúc biết chừng nào!". Chàng ứa nước
mắt nhủ thầm: "Ước mơ thâm thiết của má vẫn ràng ràng trước mắt,
mà nay má không còn nữa, con cháu tản lạc mỗi người một nơi, phần con
thì biết chừng nào mới có thể về thăm lại mảnh đất quê nhà!".
Để che dấu nỗi xúc động dâng tràn, Đông vội vã xới cơm mời chị.
Chàng gắp miếng mắm, cẩn thận kèm theo khế, chuối chát, rau thơm. Chàng
nhai chầm chậm, để cho vị mắm mặn mà trộn lẫn với khế chua, chuối
chát, cùng với rau thơm the the, biến thánh đặc chất khoái khẩu đậm đà,
chan chứa cả bầu trời thương nhớ quê hương.
Đông buộc miệng
khen:
- Chị nấu mắm
chưng quá ư độc đáo! Ngon ơi là ngon!
- Ngon như vậy
đó, vậy mà con cái nó chê mới tức chớ! Chị hai chép miệng thở dài, rồi
buồn hiu tiếp tục than thở:
- Con cái đời
bây giờ không ngoan ngoãn với cha mẹ như mình ngày xưa đâu em. Chị em thằng
Toàn đều như vậy hết. Con Hồng nhan sắc mặn mòi nên có bao chỗ xứng
đáng đánh tiếng muốn làm xuôi gia với chị. Chỗ nào nó cũng phản đối
hết, để rồi đi ưng một thằng học hành chẳng hơn gì nó. Tức chết
đi được! Giờ thì tụi nó sinh sống ở Los Angeles, đâu có xa xôi gì, vậy
mà năm đầu nó còn về thăm cha mẹ, sau đó biệt dạng luôn. Thằng Tú
đang làm kỹ sư ở Phoenix cách đây một trăm dặm, tới lui gần gũi cũng
tiện. Chị thấy nó giao thiệp toàn gái Mỹ hơi lo ngại nên gạ dẫn nó
đi Cali coi mắt con gái người bạn, thì nó cười ngất chê chuyện đó kỳ
quá. Tới chừng chị nghe tin nó có con bồ gốc Mễ, chị bực quá la cho
nó một trận, rồi chị lại thường xuyên tới lui khuyên nhủ và kiểm
soát nó. Ngờ đâu, nó giận, nó âm thầm xin thuyên chuyển về hảng chánh
ở Chicago, mà chẳng thèm hỏi ý kiến cha mẹ một tiếng. Còn thằng Toàn
ở nhà thì cũng như không. Nó học bù đầu suốt tuần, mà hễ có chút giờ
rảnh thì chụp cái điện thoại hò hẹn bạn bè, chẳng thèm ngó ngàng gì
tới chị. Chị cảm tưởng như chúng bỏ rơi mình, chúng khinh thường mình
như một thứ thừa thải, một kẻ dốt nát quê mùa, không xứng đáng để
chúng bàn bạc, hỏi han ý kiến. Trước kia chị còn nhắc nhở chúng những
chuyện vụn vặt như đội nón, che dù, mặc áo ấm, uống thuốc cảm...,
nhưng thấy chúng chỉ "dạ! dạ!" lấy lệ, rồi lơ là chẳng thèm
nhớ nghĩ..., nên đành câm họng! Ai cũng tưởng chị sung sướng có con
cái ngoan giỏi, nhưng đâu có biết nỗi cô đơn, buồn tủi của chị đối
với con cái như thế nào? Chắc chị chờ thêm một năm nữa cho thằng Toàn
lấy xong mảnh bằng bác sĩ, chị sẽ vào chùa tu phứt cho rồi!
- Chị hai à!
sống ở xứ người thì ngay bọn người lớn cũng bị ảnh hưởng mà thay
đổi ít nhiều, huống chi là bọn trẻ. Chúng phải học hành, tiếp xúc suốt
ngày với nền văn hóa nước người, thì làm sao mình có thể đòi hỏi
chúng hoàn toàn giữ trăm phần trăm chất Việt Nam trong người cho được!
Em chỉ mong sao chúng nó còn biết dạ thưa, chào hỏi bằng tiếng mẹ đẻ
là an ủi lắm rồi!
- Ừa! Thì đành
chịu như vậy chớ biết làm sao bây giờ!
- Thật ra dầu
đám con cái của mình vẫn còn giữ nguyên chất Việt Nam, thì chắc chắn
vẫn có lắm chuyện rắc rối khác xảy ra, và bậc làm cha mẹ cũng kêu
rêu như thường. Nguyên nhân đích thực chính là quan niệm khác biệt giữa
hai thế hệ, mà mâu thuẫn nầy thì ở nước nào, thời đại nào cũng xảy
ra. Đây chính là mầm mống khổ đau không phải chỉ riêng giới cha mẹ
gánh chịu, mà đám con cái cũng lãnh đủ nữa. Nói chi xa xôi, chị em mình
ngày xưa cũng làm khổ ba má đâu có ít phải không chị?
- Làm khổ ba
má thì còn ai ngoài con ba Hạ nữa!
- Chị Ba và
em là hai đứa con tội lỗi ngập đầu, đâu đáng kể tới. Ngoan hiền nhất
như chị tư Thu mà còn có chuyện cho ba má khổ nữa kia. Chị xin xuất gia,
ba má không thuận, chị cũng vâng lời. Rồi chị lại xin thuyên chuyển về
quận nhà dạy học để săn sóc ba má lúc tuổi già. Thế nhưng mối quan tâm
lớn nhất của bậc làm cha mẹ là mong cái yên bề gia thất nên ba má cứ
đôn đáo, tìm người mai mối để ép chị lấy chồng. Chị tư không thuận,
thì trách móc, giận hờn..., khiến chị Tư cũng phiền muộn không kém...
- Hừ! Người
ta nói "ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên", vụ ba má ép con Tư lấy
chồng cũng hơi quá đáng phải không út? Về phần con tư thì tánh nó cũng
dị hợm quá chừng hà! Chị thấy cái đám thằng kỹ sư Danh được quá
chớ, vậy mà nó không ưng quách cho rồi, nếu được như vậy có phải
nó làm cho ba má vui lòng không?
Có lẽ hừng
chí với lời phê bình đặc sắc của mình, chị gật gù đúng theo giọng
kẻ cả, trịnh trọng phán:
- Ba đứa em còn
nhỏ không gần gũi ba má và hiểu ba má nhiều như chị, nên mới dễ làm
cho ba má buồn phiền như vậy đó!
- Bộ chị tưởng...,
ơ...ơ..., chị còn nhớ những chuyện sôi nổi về việc chị đòi uốn
tóc, đòi quần áo son phấn thời trang không? À! còn cái vụ thằng con tiệm
vàng Hữu Lợi cậy mai mối xin hỏi chị mới gay cấn hấp dẫn từng hồi
chớ!
Dù tuổi đã
gần sáu mươi, khi nghe cậu em nhắc những chuyện bực bội xa xưa hằng bốn
mươi năm, chị hai vẫn cảm thấy nóng mặt. Chị ấm ức tuôn ra một hơi:
- Ông bà già
mình hủ lậu hết chỗ nói! Cả nước người ta uốn tóc quăn, người ta
chưng diện theo thời trang mà ổng bả cứ chủ trương con gái nhà lành
thì phải kẹp tóc, quần đen áo trắng kín mít, may rộng thùng thình, mặt
mày thì để mét chằng chớ cầm kỵ thoa chút phấn son. Nội cái việc chị
muốn mặc cái quần trắng thôi mà cũng lắm gian nan với ổng bả rồi.
Thuở đó, phong trào mặc quần trắng mướt ôm sát thân hình thật hấp dẫn
khiến chị thèm thuồng vô cùng. Đúng lúc đó, ba cho tiền sắm một cái
áo dài và cái quần mỹ a để dự tiệc cưới con đầu lòng của chú bảy
Dinh. Vải mỹ a rất mắc tiền, nhưng đi đứng nghe sột soạt khó chịu,
nên với quan niệm của con gái thời đó thì nó quê mùa, chớ đâu hấp dẫn
bằng cái quần xa teng rẻ tiền. Chị âm thầm may quần xa teng trắng và dấu
kỹ cho đến ngày đám cưới mới lòi ra. Má vừa thấy quần đã nổi giận
đùng đùng rầy la chị một trận tơi bời, rồi bả còn lấy kéo cắt
quân ra từng mảnh, nát tan như chính cõi lòng của chị.
- Ủa! Chuyện
đó sao em chẳng nghe vậy kìa?
- Khổ sở
thì chị khóc thầm thôi, chớ chị đâu dám đôi co lời qua tiếng lại với
má, thì làm sao em hay biết được! Chị hiền thì ba má đối xử khắc khe
như vậy đó. Đến khi con ba Hạ ăn vận theo đợt sống mới, ổng bả giận
lắm nhưng vừa mới mở lời khuyên giải, thì nó đã nhảy dựng lên dọa
bỏ nhà đi bụi đời, ổng bả đâu dám hó hé gì nữa. Chuyện chồng con
của nó cũng vậy, nó muốn ngang nào được ngang nấy, chớ đâu bị hành
hạ, "cà riềng cà tỏi" cằn nhằn tối ngày như chị vậy! Chướng
nhất là vụ thằng con chủ tiệm vàng Hữu Lợi xin hỏi chị! Em nghĩ coi,
cái thằng tướng tá tròn vo như hột mít, lại vô duyên, bất tài... chỉ
giỏi ngón nghề chạy chọt được giấy miễn dịch... vậy mà ba má khăng
khăng cho rằng nó "thọ", nó có tương lai... để rồi áp bức dày
vò chị dài dài để buộc chị ưng hắn! Ngược lại, đến khi chị và
anh hai thương nhau xin tiến tới hôn nhân, thì ổng bả ngăn cản đủ mọi
cách. Ổng bả chê anh hai là người Trung, tính nết khó lường, tiếng nói
khó nghe, xuôi gia xa xôi khó thân thiết, đời quân ngũ hiểm nghèo, không
chăm sóc được vợ con... thế rồi, để làm nản lòng anh chị, ổng bả
kiếm chuyện bắt lỗi phải từng cử chỉ, từng lời nói... khiến anh chị
phải điêu đứng gian nan cả năm trời cho đến ngày cử hành hôn lễ mới
được yên thân...
- Chị hai à!
hành động nào của ba má cũng đều phát xuất từ tình thương vô bờ đối
với con cái! Em nhắc nhở chuyện xưa không phải trách móc ba má, mà chỉ
muốn chứng minh một điều là bậc làm cha mẹ, đôi khi thương yêu con mà
thiếu hiểu biết, lại vô tình gây khổ đau cho con, đồng thời cũng tự
làm khổ mình nữa. Đây là kinh nghiệm thời trẻ ai cũng đã trải qua, nhưng
chẳng ai rút tỉa được bài học nầy hết! Khi trở thành bậc cha mẹ, người
ta sẽ cố chấp và thiếu hiểu biết đối với con cái y hệt như cha mẹ
họ ngày xưa! Đây là đầu giây mối nhợ của bao bất hòa, của nỗi khổ
đau xảy ra trong mọi gia đình! Chị hai có đồng ý với em điều nầy không
chị hai?
Chị hai trầm
ngâm suy tư, rồi gục gặc gật đầu.
Chừng như đã
chán ngán bàn chuyện con cái, hai chị em đổi đề tài sang chuyện cây
xoài cây ổi, bánh phồng bánh tráng, tát đìa bắt cá... toàn là chuyện tầm
ruồng chẳng đầu chẳng đuôi, vậy mà vui vẻ tận cùng. Món mắm chưng lại
hợp khẩu nên Đông đã vui miệng nói, lại vừa vui miệng ăn "miếng
đặng miếng được" đến khi no cứng mới ngừng. Thế nhưng chị hai
đâu chịu để yên. Chị nằn nì nài ép: "em ăn thêm miếng gỏi sứa
cho chị vui!", "tôm càng kho tàu nấu y chang như má nè"! Em thử
một miếng chứ!, "mực dồn thịt chị làm cực khổ lắm nghen! Em
không ăn thì phụ lòng chị đó!"... Đông nể chị, ăn thêm món nầy
đến món kia, cho đến khi thở chẳng ra hơi, mới được bà chị buông
tha. Đông có ý định chờ ông anh rể để chào mừng, nhưng chưa quen giờ
giấc miền Tây, chàng buồn ngủ híp mắt, không thể thức thêm được nữa.
Nửa đêm, cái bụng căng phồng khó chịu quá, Đông phải làm xấu, dựng
chị dậy, kêu gào mấy viên thuốc tiêu thì mới tạm yên. Sáng hôm sau thức
dậy, bữa ăn sáng thịnh soạn đã dọn đầy bàn, nhưng rất may, Đông
không bị ép ăn nữa. Chàng nhâm nhi cà phê, hàn huyên hào hứng đủ mọi
đề tài vô thưởng vô phạt với ông anh rể, cho đến giờ anh chị đưa
trở ra phi trường.
Trong giờ
phút chia tay quyến luyến, chị hai nắm tay em ân cần han hỏi:
- Cái bụng em
đã đỡ chưa út?
- Đỡ nhiều
rồi chị ạ!
Rồi với giọng
nửa đùa nửa thật, Đông tiếp lời:
- Chị hai thấy
không? cái gì quá mức thì cũng nguy hiểm cả! Được cho ăn quá mức thì
bị trúng thực, còn được thương quá mức thì... ơ...ơ... nó cũng tù
túng ngột ngạt lắm chị hai ạ!
- Hì! hì! té
ra em chỉ giả vờ đau bụng để nhắc khéo chị điều đó phải không?
*
* *
Đông trở về
Houston quay cuồng kiếm sống, thỉnh thoảng chàng cũng điện thoại vắn tắt
thăm chị, nhưng những mẩu chuyện tâm tình sôi động trong chuyến đi
Tucson vừa qua, không ai buồn nhắc đến nữa. Bất ngờ, đúng ngày Tết
âm lịch, Đông lại nhận được một bức thơ dầy cộm của chị. Lo sợ
có điều bất tường. Đông hấp tấp mở ra xem:
Tucson,
ngày 3 tháng 01 năm 1997
Em
út thương của chị,
Lụi
hụi mà chỉ còn một tuần lễ nữa thì mình lại ăn thêm một cái Tết
tha hương. Tết bên nầy sao tẻ lạnh quá út ạ! Giờ nầy năm xưa ở bên
nhà, không khí Tết rộn ràng lắm! Ba đã tỉ mỉ chọn cành mai đơm đầy
bông búp chưng lên bàn thờ, cân xứng với một cặp dưa hấu to, và bộ lư
hương bằng đồng sáng giới. Má chuẩn bị bánh mứt, trái cây từ mấy
tuần trước, dự trữ thật nhiều, hầu đến cận Tết rảnh tay nấu một
nồi bánh ích và bánh tét đầy âm ấp sẵn sàng chờ đợi đám con cháu tề
tựu về tưng bừng ăn uống. Tình thương con cháu của má thật bao la, má
gian nan cực khổ thế nào cũng được, miễn là thấy mặt đám con cháu đông
đủ sum vầy quây quần trong ngôi nhà, thì bà mãn nguyện lắm rồi.
Tánh
chị có lẽ chẳng khác gì má. Bao nhiêu tâm ý chị đều đặt tất cả vào
các con: nhìn chúng ăn uống cười nói, chị hân hoan rộn rã; thấy chúng
chợt đăm chiêu, lòng chị thảng thốt bất an. Chị chỉ muốn con cái sống
gần gũi trong tầm tay của mình, vắng đứa nào chị cũng nhớ thương ủ
rũ, chúng về nhà trễ thì ruột chị quặn thắt từng cơn. Đối với chị,
đám con chị là nhất, quý giá không con cái ai sánh bằng, cho nên chị thấy
có nhu cầu lo lắng bảo vệ chúng từng li tứng tí, sợ chúng ốm đau, gặp
tai nạn, sợ chúng bị bạn bè lợi dụng, sợ chúng lầm lạc chọn người
không xứng đáng gây khổ đau suốt đời... Thế nhưng chị càng lo lắng
chăm sóc chúng thì chúng lại tỏ ra bất cần, chị muốn ôm chặt chúng
trong vòng tay thì chúng càng vuột ra ngoài, than trách thì chúng tỏ vẻ bực
bội tránh xa. Chị cảm thấy bị con cái bỏ rơi, chúng khinh thường, chúng
bất cần mình. Chị cô đơn quá! chị hờn tủi và khổ sở cùng cực mà
chỉ biết âm thầm chịu đựng, chớ tìm đâu được kẻ tâm giao để
chia xẻ nỗi niềm. Chị đâm ra quạu quọ rắc rối, nhưng chỉ quạu quọ
rắc rối với anh hai, chớ với chúng thì vẫn mềm mỏng để chiêu hồi.
May
là trong chuyến thăm chị, em nhắc nhở chuyện ngày xưa, khiến chị lưu tâm
suy tư cặn kẽ những mâu thuẫn của hai thế hệ. Từ đó chị nhận chân
được một sự thật là: Ba má rất thương yêu con cái, nhưng thương yêu
một cách mù quáng và không hiểu biết hoặc lưu ý gì đến tuổi trẻ, vì
vậy mà ba má đã có cái nhìn cố chấp hẹp hòi, kết quả là ba má tự
chuốc lấy khổ đau, mà đồng thời lại gây phiền lụy cho con cái nữa.
Đó cũng là một khuyết điểm mà chị đã vấp phải. Chị đinh ninh rằng
chỉ cần ôm "chính nghĩa thương con", thì chẳng cần đếm xỉa
điều gì khác nửa, cứ mặc tình "tự tung tự tác" muốn thương
con cách nào cũng đúng, vì vậy mới gây ra bao lủng củng trong nhà. Do
khám phá nầy, chị không còn oán trách con cái nữa, mà chỉ tự quán sát
tìm hiểu những khuyết điểm của chính mình. Trước hết, chị nghĩ đến
mối bất hòa giữa chị và đứa con gái đầu lòng. Thật ra thì thằng rể
cũng hiền lành dễ thương, nhưng theo quan niệm "phi cao đẳng bất thành
phu phụ", chị cho rằng nó không xứng đáng nên ngăn cản tình yêu của
chúng rất mãnh liệt, với thâm ý tách rời hai đứa hầu đem cháu Hồng gả
cho con anh tư Thời đang học nha khoa. - Hồi nhỏ chị chủ trương tiền bạc
và cấp bằng không đem lại hạnh phúc, chị chống đối ép duyên đến cùng,
mà nay sao chị lại ép duyên con kìa? - Ngăn cấm không kết quả, chị đành
thuận cho chúng tiến hành hôn lễ, nhưng nỗi ấm ức cứ tuôn tràn qua
thái độ kém thân thiện của chị đối với thằng rể. Có lẽ vì vậy
mà chúng nó viện cớ tìm được việc làm tốt ở Los Angeles, rồi dọn
đi mất. Nó đi xa, chị nhớ chị buồn, rồi chị lại cằn nhằn oán
trách, chúng càng né tránh rồi trốn biệt luôn. Ôi! giờ nầy chị hiểu
và thương chúng nó, kể ra cũng hơi muộn màng. Kinh nghiệm vụ con Hồng,
chị canh giữ hai thằng con trai rất kỹ. Chị gợi ý cho thằng Tú đám
nào, nó cũng chẳng màn để ý, mà hễ hai anh em nó giao thiệp ai, chị lại
thấy chẳng cô nào xứng đáng cả. (Chị mới nghiệm ra điều nầy em ạ!
Dường như trong máu của người đàn bà thương con đã ngầm chứa chút tị
hiềm với con dâu nên bạn gái nào của nó mình cũng chê. Ngay nàng dâu do
mình chọn rồi giới thiệu cho con, không bao lâu mình cũng sẽ khám phá ra
vô số khuyết điểm của nó.). Thời gian ngắn ngủi sau đó, chị hốt hoảng
khám phá rằng thằng Tú dính líu với một cô gái gốc Mễ. Hôn nhân là
chuyện chúng nó, chủng tộc nào tùy nó, đâu chắc gì có vợ Việt thì hạnh
phúc bền bỉ? Kể ra, ở bên nầy mà có vợ Mễ thì cũng đâu có gì quá
đáng hơn ngày xưa tại xứ Đồng Tháp quê mùa có chị nằng nặc đòi kết
hôn với người Huế, nói tiếng gì mà cả xóm Cái Sơn chẳng ai hiểu một
câu! Thế nhưng, lúc đó chị không nghĩ vậy, chị làm dữ với thằng Tú
trước mặt con nhỏ đó, hi vọng con đó bỏ thằng Tú thì tốt biết bao
nhiêu. Kết cuộc, như em biết đó, thằng Tú xin đổi lên Chicago. Từ chuyện
tình duyên của con cái, chị quán sát cả đến những chuyện lặt vặt khác
và chột dạ thấy mình sao lẩm cẩm quá chừng đi. Em nghĩ coi, thằng Toàn
đã 27 tuổi, học năm chót y khoa, mà chị lải nhải bắt nó uống thuốc nầy
thuốc nọ, phải mặc áo ấm, đội nón, che dù... lo như lo cho đứa con nít
tiểu học, vậy mà nó lơ là thì chị lại hờn tủi mới chướng đời chớ!
Đến như việc việc giao tế của nó, chị thường càm ràm rằng nó dành
hết thời giờ cho bạn bè, nhưng thật ra thì nó học bạc đầu, mỗi tuần
được chừng vài giờ rảnh rỗi, liên lạc với bạn bè trang lứa kháo
nhau chuyện tầm phào cho thoải mái, mà chị đòi dành thời giờ đó cho chị,
điều đó chắc hơi quá đáng phải không em?
Càng
suy tư quán sát chị càng thông cảm hiểu biết con cái, chị không còn khổ
sở, hờn giận gì nữa. Chúng nó, giống như chị ngày xưa, sẽ đến lúc
trưởng thành, rồi có cuộc đời riêng. Con chim mẹ, phải tập nhìn bầy
con của mình, tung cánh bay cao, với niềm hãnh diện hân hoan, chớ không phải
với tâm trạng cô đơn hờn tủi.
Suy tư nầy vừa
lóe trong tâm tư, chị liền cảm thấy niềm an lạc tràn ngập khắp cả
châu thân. Chị vừa "ngộ" em ạ! Em đừng cười chị nhé! Chị
nói giỡn nhưng không hẳn là đại ngôn đâu! Cái nguyên lý "vô thường"
mà mình nghe quý thầy giảng hoài, chị tưởng như đã nắm vững, nhưng thật
ra, trước kia mình nghe như nước đổ lá môn, mà chưa bao giờ thâm nhập.
Bây giờ thì chị ý thức rõ rệt nguyên lý vô thường như một kinh nghiệm
thực tại, nó hòa nhịp trong đời sống của mình, diễn tiến tuần tự,
như nhiên và mầu nhiệm: hợp rồi tan, tròn rồi khuyết. Có cái gì thành
trụ mà chẳng đi đến giai đoạn hoại không? Tấm thân tứ đại cũ mèm
nầy, rồi cũng sẽ đến lúc tan hoại rã rời.
Em út thương,
Nguyên lý vô
thường dính liền với ý niệm sống chết. Đã sanh ra đời thì ai cũng có
một lần chết. Đó là sự thật hiển nhiên, vậy mà bấy lâu nay cơ hồ
chị quên mất điều đó. Chị hành động in tuồng như chị sẽ sống dai
như "Bành tổ" để đùm bọc, lo lắng cho các con mãi mãi. Ca dao nước
mình so sánh sự sinh nở nguy hiểm như là chuyến phiêu lưu ra biển khơi cô
đơn:
Người ta đi
biển có đôi
Còn tôi đi biển
mồ côi một mình.
Ca dao trên
không đúng với trường hợp của chị, vì khi sanh ba mụn con, lần nào chị
cũng có chồng kề cận, được bác sĩ và hộ sinh chăm sóc, nên cảnh cô
đơn hiểm nghèo chưa thật sự trải qua. Thế nhưng, giờ đây câu ca dao đó
bỗng hiện về ray rứt chị, khi chị nhận thấy rằng dường như nó phản
ảnh khá trung thực tâm trạng cô đơn hoảng hốt của con người trong chuyến
ra đi cuối cùng của cuộc đời. Con người từ cõi sống bước vào cõi
chết mù mịt bơ vơ, hoang mang chẳng biết trôi dạt về đâu thì có khác
nào đi biển một mình trong đêm đen mưa gió bão bùng. Chuyến đi kinh khủng
đó không có phương cách trốn tránh được, vậy thì chỉ có một giải
pháp duy nhất là chuẩn bị sẵn sàng để đối diện: nếu mình nắm vững
phương hướng, và được hành trang bằng niềm tin và nghị lực chắc chắn
nỗi hoang mang sợ hãi sẽ giảm thiểu! phải không út?
Anh chị đã
may mắn quy y và học Phật Pháp với hòa thượng Thiện Hòa trước năm
1975, nhưng khi sang Hoa Kỳ phải quay cuồng với nếp sống mới, rồi chị lại
"xà quần" với chuyện lo lắng, thương yêu, hờn giận con cái, mà
xao lãng chuyện tu tập. Nay giật mình tỉnh thức, nhận thấy tình trạng
đã vô cùng cấp bách, không còn chần chờ gì nữa, chị dứt khoát tu tập
theo pháp môn Niệm Phật tu tâm, cầu vãng sanh về thế giới cực lạc của
Đức Phật A Di Đà. Kinh sách hướng dẫn pháp môn tịnh độ nhiều lắm,
nhưng chị thấy chỉ cần quyển Niệm Phật Thập Yếu của thầy T. Thiện
Tâm cũng đủ lắm rồi. Chị căn cứ theo đó mà lập thời dụng biểu cẩn
mật để tha thiết Niệm Phật cầu vãng sanh. Nếu "Tín, Hạnh, Nguyện"
được vững vàng, thì chuyến đi cuối cùng mình đã rõ ràng phương hướng,
đầy đủ tư lương nên không có gì phải hoang mang bối rối nữa! phải
không em!
Từ ngày khởi
sự tu tập, tâm chị dần dần thoải mái. Dĩ nhiên là chị vẫn chăm sóc
và cơm nước cho hai cha con, nhưng chị không "ép ăn và ép thương"
ai nữa. Chị không đòi hỏi con cái lúc nào cũng nghĩ tới chị, chị cũng
không trách móc hờn tủi, cũng không bận bịu lo âu về những chuyện xa vời
ngoài tầm tay mình nữa. Anh hai cũng đỡ bị chị lăng nhăng cà khịa nên
rất hài lòng.
Có lẽ tụi
nhỏ kháo với nhau rằng độ rày chị dễ dãi, nên mùa giáng sinh vừa qua,
đám con Hồng và thằng Tú rủ nhau về cho một nhà. Chị để chúng sống
thoải mái tùy thích, không đòi hỏi ràng buộc gì cả. Chị cũng tươm tất
nấu nướng cho chúng toàn là những thức ăn đặc biệt Việt Nam, để biết
đâu chừng, một ngày xa xôi nào đó, bất chợt nhớ lại khung cảnh gia đình
ngày xưa, thì hình ảnh con tôm kho tàu, trái khổ qua dồn thịt, tô mắm chưng...
- giống như tô canh bù ngót của cậu út -, sẽ hiện về trong tâm khảm
chúng như một kỷ niệm ngọt ngào tình thương. Chúng nó tựu về thì vui,
chúng đi chị khỏe, thời giờ tu tập đỡ bị xáo trộn.
Ờ! có chuyện
nầy khá vui, sẵn dịp chị kể em nghe cười chơi. Nhân dịp có đủ hai thằng
con trai, anh dặn dò:
- Ba má đã
bàn nhau và đồng ý rằng hôn nhân của các con do các con tự quyết định,
hạnh phúc thì các con nhờ, đau khổ các con chịu. Ba má không muốn xen
vào chuyện của các con, mà chỉ muốn nhắc nhở các con một điều là vợ
chồng cùng chung một nền văn hóa, cùng chung một tôn giáo, dễ xây dựng
hạnh phúc hơn. Lúc trẻ mình không thấy tầm quan trọng của hai vấn đề
nầy, nhưng khi về già, người ta thường sống trở lại với dĩ vãng và
cần nương tựa vào một niềm tin, thì văn hóa và tôn giáo, trở thành yếu
tố then chốt giữ vững tình nghĩa mặn nồng cho chuỗi ngày già.
Chị cũng góp
ý:
- Hôn nhân là
chuyện quan trọng ảnh hưởng suốt cả đời. Do đó, các con nhớ phải cẩn
thận, lựa thật kỹ kẻo mang khổ nghe các con!
Tú cười ngất
đáp:
- Má yên chí
đi! Vụ nầy thì con kỹ lắm! Con phải sống chung với nhau vài năm, biết
rõ hết mọi chuyện rồi mới nghĩ đến chuyện kết hôn má ạ!
"Trời đất!
Em nghe thằng Tú nói như vậy em có lùng bùng lỗ tai không út?". Chị
thấy nó chủ trương kỳ lạ muốn răn dạy nó, nhưng mình đã nguyện
buông bỏ mọi việc để rảnh rang tu tập, mà còn thắc mắc gì nữa, nên
chị gượng cười cho xong.
Em út thương,
Chị biết em
đã chứng kiến và hiểu biết nỗi đau khổ của chị, nên chị viết thơ
nầy kể lể hết mọi chuyện để em được yên tâm. Bắt đầu tu tập thì
cũng bắt đầu cảm thấy an lành thư thái em ạ! Kể ra, đợi gần đến sáu
mươi mới lo tu niệm là quá trễ phải không em?
Ít hàng thăm
hai em và các cháu. Chúc gia đình em một năm mới an khang thịnh vượng.
Chị hai của
em,
Nguyễn Thị
Xuân.
Đông xếp thơ
chị lại trong niềm vui tràn ngập. Hình ảnh người chị thân thương thấp
thoáng ẩn hiện trong tâm khảm chàng. Bóng dáng người chị tuổi lục trần
đó thoạt tan biến rồi hóa thành cô gái tuổi trâm cài nhí nhảnh, đang
chăm chỉ sửa chiếc vòng làm bằng vành nia cho thằng em út. Cạnh đó,
bên bàn ăn, một tô canh bù ngót ngọt ngào vẫn còn nghi ngút khói...
Tháng 11.1996
Ghi
chú:
1. Thẳng; thằng
ấy
2. Chệc: thổ
ngữ của người Tiều Châu có nghĩa là chú, như tiếng xẩm có nghĩa là
thím. Dân miền Nam hiếu khách gọi người Tiều là "chú thím" bằng
ngôn ngữ của họ là "chệc và xẩm", có người trùng dụng là
chú chệc, thím xẩm.
3. Hẩu: hay hẩu
sực là thổ ngữ người Quảng Đông có nghĩa là thức ăn ngon, khoái khẩu.
http://www.buddhismtoday.com/viet/truyen/tocanh_bongot.htm