- Trịnh
Công Sơn hoằng pháp bằng âm nhạc
- Chí
Anh
Thôi
rồi, những nhịp đập của một trái tim từng yêu thương nhất và cũng từng
cô đơn nhất! Thôi
rồi, những khát vọng cháy bỏng của tình yêu, và cũng thôi rồi, những
dằn vặt khổ đau trần thế! Có chăng, chỉ còn lại những giai điệu
Orpheus (*) đầy quyến rũ và cũng đầy day dứt như xoáy vào tâm hồn người
nghe những vấn nạn muôn thuở của thân phận kiếp người.
Thực
vậy, sáng tác của Trịnh Công Sơn rất đa dạng và phong phú. Nhưng, nhìn
chung toàn bộ những ca khúc của anh đã toát lên một chủ đề nhất quán,
ấy là chủ đề về thân phận con người gắn liền với thân phận quê hương
đất nước. Bởi vậy dù hát về tình yêu, về chiến tranh, hay về quê hương
nòi giống; ở anh vẫn khắc khoải một nỗi lo âu trước vực thẳm cuộc
đời; trước nỗi cô đơn không thể cứu vãn; trước sự phi lý của tồn
tại, và trên hết là tâm trạng lưu đày trong cõi tạm!
Nói
chung, đó là những vấn đề căn bản của những trào lưu triết học hiện
sinh phương Tây, cũng tương tự như những vấn đề Sinh - Lão - Bệnh - Tử
của đạo Phật khái quát về đời người. Nó phản ánh tâm trạng khủng
hoảng của con người, đặc biệt là giới trí thức đang bị mất phương
hướng trong một thế giới tan rã, phân liệt bởi hai cuộc đại chiến.
Chính trên cái nền triết lý này, vào những năm 60 ở nước Anh đã xuất
hiện nhóm nhạc rock hay nhất của mọi thời đại: nhóm The Beatles với những
tên tuổi tiêu biểu lừng danh như John Lennon, Paul McCartney v.v... Họ nổi tiếng
vì đã phản ánh được tâm trạng bức xúc của thời đại bằng những
ca từ đầy tính triết lý, và nhất là bằng nghệ thuật âm nhạc độc
đáo, vô song của họ được biểu hiện trên cả hai mặt sáng tác và biểu
diễn. Cùng thời gian đó, khi mà cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã lên đến
đỉnh cao, thế hệ trẻ ở các đô thị miền Nam, trong đó có Trịnh Công
Sơn và lớp bạn bè của anh thuộc tầng lớp trí thức trẻ luôn bị ám
ảnh bởi cái chết - một chủ đề kinh điển của chủ nghĩa hiện sinh.
Trong một bối cảnh như vậy, thân phận con người đương nhiên là một vấn
nạn, một chủ đề tư tưởng mang tính triết lý, và nếu như nó đã được
đề cập, phân tích, lý giải từ Đông sang Tây bởi những nhà văn, nhà
thơ, nhà tư tưởng hàng đầu của thế giới thể hiện bằng những tác
phẩm văn chương, thơ ca, cùng những luận văn triết học siêu việt, thì
ta thấy ở Trịnh Công Sơn cũng giống như nhóm Beatles, anh đã thể hiện bằng
âm nhạc. Tuy nhiên, ở Beatles mang nặng ảnh hưởng hiện sinh, cổ vũ cho tự
do, cho sự sống hết mình của thế hệ trẻ, biểu hiện ở tinh thần phản
kháng, tinh thần nổi loạn chống lại cái phi lý của hiện hữu, được
xem như mục đích của tồn tại. Tiêu biểu cho tinh thần này là câu nói của
nhà văn hiện sinh nổi tiếng A. Camus: “Tôi đã nổi loạn, vậy thì tôi tồn
tại”. (Je me révolte, donc je suis).
Trong
khi ở Trịnh Công Sơn là sự ảnh hưởng của triết lý đạo Phật, vốn
nhạy cảm về tính hữu hạn của đời người trong quy luật Sinh - Lão - Bệnh
- Tử, trong dâu bể vô thường! Chính điều này đã chi phối mạch tư duy
âm nhạc của anh để làm nên một phong cách Trịnh Công Sơn với những ca
khúc nổi tiếng tiêu biểu như Cát bụi, Diễm xưa, Biển nhớ, Bên đời
hiu quanh, Ở trọ, Biết đâu nguồn cội, Phôi pha, Dấu chân địa đàng, Như
cánh vạc bay, Đóa hoa vô thường, Một cõi đi về v.v...
Chỉ
với những tiêu đề của chùm ca khúc trên cũng đã phần nào nói lên
tính triết lý của tác giả. Tuy nhiên, tính triết lý không chỉ biểu hiện
ở nội dung những ca từ vốn đã rất nổi tiếng ở anh mà còn được kết
hợp một cách nhuần nhuyễn với những giai điệu cực kỳ điêu luyện thường
được viết trên nền của một giọng thứ (mineur) u hoài, man mác gợi
lên một sự trầm tư không dứt về ý nghĩa tồn tại của đời người
trên tuyến tính thời gian, mà xét đến cùng, chỉ là một tiến trình từ
chiếc nôi đến nấm mồ, không thể nào nghịch đảo “Dưới vành nôi mọc
từng nấm mộ” (Cỏ xót xa đưa). Bởi vậy khi nghe Trịnh Công Sơn, chúng
ta thường bắt gặp một cái nhìn đầy ưu tư về thân phận!
Ưu
tư? - phải chăng vì nó vượt lên trên những giá trị thường nhật, nó
chạm tới những vấn đề vĩnh cửu, nó chạm tới nỗi đau hiện hữu của
con người, mà đạo Phật gọi là Khổ đế (Dukkha). đế đầu tiên và
quan trọng nhất trong Tứ diệu đế nổi tiếng của đạo Phật. Có thể
nói toàn bộ những ca khúc của Trịnh Công Sơn là một cuốn tiểu thuyết
trường thiên minh họa cho chủ đề triết lý này, mà mỗi bài ca là một
khúc đoạn trường luôn để lại những vết thương, bắt đầu từ vết
thương đầu tiên, ấy là sự ra đời của con người, mà anh đã cảnh
báo trong lời ru"... Trẻ thơ ơi, tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp
người” (Gọi tên bốn mùa). Sinh là khởi điểm của một kiếp luân hồi,
nếu như tự nó không phải điều đáng buồn - thì cũng chẳng có gì đáng
gọi là vui. Trong một tác phẩm thấm nhuần tinh thần Phật giáo là Cung
oán ngâm khúc, nhà thơ Nguyễn Gia Thiều đã viết về sự ra đời bằng những
câu thơ đầy triết lý:
“Thảo
nào khi mới chôn rau (nhau)
Đã
mang tiếng khóc ban đầu mà ra.
Khóc
vì nỗi thiết tha thế sự
Ai
bày trò bãi bể nương dâu”
Và
trước Nguyễn Gia Thiều gần hai thế kỷ, trong vở kịch nổi tiếng “Vua
Lia” - nhà viết kịch lừng danh William Shakespeare từng viết: “Con người
không cất tiếng cười khi chào đời, mà khóc thét lên, bởi nó quá hãi
hùng khi phải bước vào cái sân khấu mênh mông đầy bất ổn của những
kẻ mê cuồng!”. Cũng với tinh thần triết lý trên, nhà thơ Byron nổi tiếng
của nước Anh thế kỷ thứ XIX từng viết: “Con người có thể chữa
lành mọi vết thương cơ thể, nhưng không bao giờ chữa lành được vết
thương của sự ra đời” (nguyên văn tiếng Anh: One can heal all physical
hurt, but can never heal the hurt of birth). Chúng ta thấy hầu như các danh nhân cổ,
kim, Đông, Tây đều đã nhìn nhận nỗi khổ của đời người đúng như lời
dạy của Đức Phật được khái quát thành Khổ đế.
Người
ta thường nói: “Văn tức là người” (style c'est l'homme) mà theo triết
lý đạo Phật thì con người chỉ là sự lộ thể tất yếu của Nghiệp,
điều này đúng với bất kỳ ai trong chúng ta một khi đã có mặt trên
cõi đời này. Trịnh Công Sơn sinh ngày 28-2-1939 tại Ban Mê Thuột, nhưng lớn
lên ở quê nhà, thành phố Huế, trong khung cảnh tĩnh lặng của chùa Hiếu
Quang, nơi gia đình gửi anh vào vì hoàn cảnh và dường như nhìn thấy nơi
bản thể anh có căn nghiệp tu hành. Nhưng, những năm tháng ở chùa chỉ
còn lưu dấu trong âm nhạc của anh bằng cái nhìn sâu thẳm và hư vô trước
cuộc đời.
Toàn
bộ tuổi trẻ của anh là những cuộc trốn tránh quân dịch, uống thuốc
xổ để lọt qua những vòng khám tuyển và hậu quả là một thể trạng
ốm yếu với những căn bệnh dai dẳng đeo bám anh, cho đến giờ phút cuối
của cuộc đời. Cũng chính vì trốn tránh quân dịch mà anh đã theo học một
lớp sư phạm ngắn hạn ở Qui Nhơn, để rồi lên Bảo Trọng, Lâm Đồng
làm giáo viên kiêm hiệu trưởng ở một trường tiểu học vẻn vẹn có
ba lớp trong một ấp chiến lược heo hút của người Thượng. Đây là một
trong những thời kỳ cô đơn nhất, còn để lại nhiều dấu ấn trong những
tác phẩm nổi tiếng của anh. Và cũng chính ở cuối thời kỳ này đã
đưa đến cuộc gặp gỡ định mệnh với ca sĩ Khánh Ly vào năm 1967 tại
Đà Lạt. Khi ấy Khánh Ly mới ngoài hai mươi tuổi, tuy chưa nổi tiếng
như sau này, nhưng chị đã được giới sành điệu biết đến như một giọng
ca thể hiện hay nhất tác phẩm của những nhạc sĩ tiền chiến từng một
thời vang bóng như Lê Thương, Đặng Thế Phong, Văn Cao, Dương Thiệu Tước,
Nguyễn Văn Khánh v.v...
Sau
cuộc gặp gỡ đó, hai người đã quyết định hạ sơn, chấm dứt thời kỳ
mai danh ẩn tích đầy khổ hạnh ở chốn cao nguyên hoang dã. Trở về với
không khí âm nhạc sôi động của thành đô khi đó, giọng hát liêu trai của
Khánh Ly đã mau chóng chắp cánh cho những giai điệu diễm kiều của Trịnh
Công Sơn để cùng thăng hoa trên bầu trời âm nhạc, làm nên một cuộc phối
ngẫu kỳ diệu nhất giữa hai tài năng sáng tác và biểu diễn trong lịch
sử ca khúc Việt Nam. Thành công rực rỡ của họ đã được giới mộ điệu
ghi nhận trong cuốn băng để đời Sơn ca số 7.
Tiếp
theo là một giai đoạn sáng tác đầy hứng khởi và sung mãn của anh, thể
hiện một tinh thần nhập thế, hòa mình với thời cuộc để chia sẻ với
hoàn cảnh đau thương của đất nước trong hàng loạt những tác phẩm rất
ấn tượng được gọi tên là Ca khúc da vàng và Kinh Việt Nam. Thành công
của giai đoạn này đã khiến anh và Khánh Ly trở thành thần tượng của
giới trẻ, đặc biệt là sinh viên và trí thức. Vinh quang của Trịnh Công
Sơn đã vượt ra ngoài biên giới Việt Nam và lên đến đỉnh cao vào năm
1972. Trong một cuộc thi hát quốc tế được Hãng truyền hình NHK tổ chức
tại Osaka - Nhật Bản, bài hát Ngủ đi con trong tập Ca khúc da vàng được
trình diễn qua giọng ca tuyệt vời của Khánh Ly đã đoạt giải Đĩa hát
vàng (Gold disc), có số phát hành trên hai triệu đĩa. Kể từ đó tên tuổi
của Trịnh Công Sơn được ghi trong Từ điển bách khoa của nước Pháp
(Encyclopédie de tout les pays du monde) như là một người đã hát lên nỗi
đau thương của nhân loại trong chiến tranh qua những khúc ca mà đúng ra phải
gọi là những lời kinh nguyện cầu cho những linh hồn khổ đau và tuyệt
vọng!
Cuộc
đời con người như được gọt ra từ một khối đá huyền bí, cho dù có
mài giũa đến mấy, những đường vân tiền nghiệp vẫn mãi mãi hiện
lên. Là một Phật tử, Trịnh Công Sơn rất tin ở điều này và dường
như nó đúng với những gì mà anh đã trải qua trong cuộc đời. Theo họa
sĩ Trịnh Cung, một trong những người bạn thân nhất của anh cho biết, đến
ngày 30-4-1975 Trịnh Công Sơn đã quyết định ở lại, mặc dù trước đó
một người bạn của anh là ký giả nổi tiếng Đỗ Ngọc Yến cùng đi với
một nhà báo Mỹ đến gặp anh để đưa ra lời mời là đã có chuyến bay
dành chỗ cho anh cùng gia đình đi Hoa Kỳ. Nhưng anh đã từ chối, và đến
trưa ngày 30-4 lịch sử, anh đã lên Đài Phát thanh Sài Gòn hát Nối vòng
tay lớn và kêu gọi văn nghệ sĩ hãy ở lại với quê hương, đất nước.
Một trang đời mới đang đón chờ anh, và sau đấy anh đã trở ra Huế để
dấn thân vào một cuộc sống mới đầy cam go, thử thách. Trải qua hai năm
lao động, học tập ở Cồn Tiên - một vùng đất hoang vu đầy bom mìn chưa
tháo gỡ, anh kể lại có lần ra đồng làm việc, một con trâu đi trước
anh chỉ vài mét đã dẫm phải mìn và chính cái chết của nó đã cứu sống
anh. Với anh, thời kỳ này là một dấu lặng dài đã giúp anh có thể điềm
tĩnh nhìn lại mình qua những biến cố lịch sử.
Sau
những sự kiện trên, anh đã trở về Sài Gòn vào năm 1979, sau một thời
gian dài im hơi lặng tiếng cho đến thập kỷ của những năm 80 được xem
là thời kỳ khởi sắc trở lại trong cuộc đời sáng tác của anh. Hàng
loạt những ca khúc mới lại ra đời, tiêu biểu như: Mỗi ngày tôi chọn
một niềm vui, Tuổi đời mênh mông, Huyền thoại mẹ, Đóa hoa vô thường,
Lặng lẽ nơi này, Em còn nhớ hay em đã quên, Nhớ mùa Thu Hà Nội, Tôi ơi
đừng tuyệt vọng v.v... Anh đã tỏ ra vui hơn trong nhiều ca khúc mới. Nhưng
nhìn chung, vẫn là một Trịnh Công Sơn “triết gia” luôn cố tìm hiểu
thân phận cái tôi còn đầy duyên nợ trần thế của anh.
“Tôi
là ai mà còn trần gian thế?
Tôi
là ai mà yêu quá đời này!”
(Trích
ca khúc “Tôi ơi, đừng tuyệt vọng”).
Con
người Trịnh Công Sơn được thể hiện rất rõ qua những ca khúc tiêu biểu
của anh, chẳng hạn như Một cõi đi về là tác phẩm anh rất tâm đắc, nên
đã dịch lời sang tiếng Anh với đầu đề My own lonely world (Cõi đơn độc
riêng của tôi). Điều này cho thấy anh thường xuyên ở trong một tâm trạng
cực kỳ cô đơn, và có nhiều nỗi buồn trong cuộc đời.
Tuy
nhiên, nhờ ở căn cơ, tâm đạo, bản lĩnh và trình độ tu chứng nên anh
đã hóa giải được những hệ lụy nhân sinh, để biến những nỗi buồn,
sự cô đơn thành những khúc ca như một thứ phúc âm độ nhật cho đời
và qua đó tìm ra Một cõi đi về cho riêng mình cũng như cho mọi người. Bởi
vậy âm nhạc của anh bao giờ cũng mang tính triết lý, một thứ triết lý
mang sắc thái Phật giáo Thiền tông đã hòa tan một cách tự nhiên trong mỗi
ca từ, mỗi âm điệu của tác phẩm. Có thể vì vậy mà nhiều người xem
anh như một thiền sư - một thiền sư hoằng pháp bằng lời ca tiếng hát,
ứng với cái nghiệp của một thời ở chùa từ những ngày niên thiếu xa
xưa của chính anh.
Trịnh
Công Sơn thường khiêm tốn nói về mình: “Tôi chỉ là kẻ hát rong đi
qua miền đất này để hát lên linh cảm của mình về những giấc mơ đời
hư ảo”. Qua câu nói tưởng như hư vô này là một thông điệp đầy minh
triết mà anh muốn nhắn gửi với chúng ta rằng “Trong cái mong manh tạm bợ
của cuộc sống trần gian, mọi danh lợi đều chỉ là phù du, hư ảo. Con
người chớ nên vì nó mà tự đầy đọa mình trong những phi lý của hận
thù, tranh chấp, của đố kỵ, ghét ghen!” Hôm nay anh đã giã từ miền đất
vừa đi qua, nhưng tinh thần nhân bản của anh sẽ còn lại mãi mãi.
Trong
những ngày diễn ra lễ tang anh, những tác phẩm nổi tiếng của anh đã trở
thành những khúc Requiem (Khúc nguyện hồn) để cầu siêu cho chính anh. Đặc
biệt là Cát bụi và Một cõi đi về đã được diễn tấu qua tiếng kèn
saxo alto đầy xúc động của Trần Mạnh Tuấn. Và sự xúc động đã lên
đến cao trào trong một khung cảnh thật ấn tượng, khi một đoàn các nhà
sư xếp hàng dài trước linh cữu để thắp hương tưởng niệm anh, thay
cho những lời cầu kinh, họ cùng cất tiếng đồng ca Một cõi đi về...
Không khí bi thương của tang lễ bị dồn nén như bỗng òa vỡ. Hầu như mọi
người đều bật khóc. Một tình thương mênh mang đã bao trùm lên tất cả!
Qua tiếng hát nghẹn ngào của các nhà sư, giai điệu bi thiết của Một cõi
đi về thực sự trở thành khúc nguyện hồn không chỉ cho người nhạc sĩ cô đơn vừa nằm xuống,
mà còn cho tất thảy mọi chúng sinh mà anh hằng gắn bó, yêu thương! Có
thể nói Trịnh Công Sơn đã phát Bồ đề tâm qua thơ ca và âm nhạc trong
tác phẩm bất hủ của mình để độ cho tất cả mọi chúng ta - những ai
còn lận đận trong Một cõi đi về.
Sau
hết, nhân dịp giỗ đầu của nhạc sĩ (1-4-2001 - 1-4-2002), chúng tôi xin
được qua bài viết còn sơ lược này để thắp lên một nén hương nguyện
cầu cho vong linh anh tìm thấy sự yên tĩnh đời đời ở cái thế giới
mà mọi chúng ta ai ai rồi cũng sẽ lần lượt tựu về. Với ý nghĩa đó,
con người không vĩnh biệt nhau, mà chỉ tạm biệt.
Đâu
đây vẳng lại dư âm những lời ca như từ một cõi giới xa xăm vọng về
“Trên hai vai ta đôi vừng nhật nguyệt, rọi suốt trăm năm một cõi đi về...”.
(*)Nhạc
sĩ trong thần thoại Hy Lạp nổi tiếng bởi giọng hát và giai điệu quyến
rũ
Tuần báo Giác Ngộ, số Phật đản
PL. 2546
http://www.buddhismtoday.com/viet/vanhoc/TCShoangphapquaamnhac.htm